Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số giống ngô lai tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.59 KB, 97 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




Ô KIM DUY



NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
VÀ NĂNG SUẤT CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
TẠI HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG







Thái Nguyên, năm 2014



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



Ô KIM DUY


NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
VÀ NĂNG SUẤT CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
TẠI HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN

Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60 62 01 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng
TS. Trần Trung Kiên




Thái Nguyên, năm 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực, đầy đủ, rõ nguồn gốc và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị
nào. Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, trước phòng quản
lý sau đại học và nhà trường về các thông tin, số liệu trong đề tài.


Thái Nguyên, ngày 15 tháng 10 năm 2014
Ngƣời viết cam đoan


Ô Kim Duy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ii
LỜI CẢM ƠN

Ðể hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của giáo
viên hướng dẫn, cơ quan chủ quản. Tôi xin chân thành cảm ơn:
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng - Trưởng phòng đào tạo và TS. Trần Trung

Kiên- Phó giám đốc trung tâm ÐTTNCXH – trường Ðại học Nông Lâm Thái
Nguyên, những người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài. Cảm ơn các thầy cô của trýờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, phòng quản lý
đào tạo Sau đại học, khoa Nông học, những người đã truyền thụ cho tôi những kiến
thức và phương pháp nghiên cứu quý báu trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu
tại trường.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, các bạn sinh viên…Những người luôn quan tâm, chia sẻ và tạo mọi điều
kiện giúp đỡ trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu vừa qua.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


Thái Nguyên, ngày 15 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Ô Kim Duy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
4.1. Ý nghĩa khoa học 3

4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chƣơng 1TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam 5
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 5
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 7
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Trung du và miền núi phía Bắc 11
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn 13
1.3. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới và ở Việt Nam 16
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới 16
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai ở Việt Nam 17
Chƣơng 2NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Vật liệu nghiên cứu 25
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 27
2.3. Nội dung nghiên cứu 27
2.4. Phương pháp nghiên cứu 27
2.4.1. Thí nghiệm so sánh giống 27
2.4.2. Xây dựng mô hình trình diễn 34
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 35
Chƣơng 3KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


iv
3.1. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm vụ xuân và vụ
hè thu 2013 tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn 36
3.1.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Hè Thu 2013 tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn 36
3.1.2. Đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm 39

3.1.3. Khả năng chống chịu của các giống tham gia thí nghiệm vụ Xuân và vụ Hè
Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 42
3.1.4. Trạng thái cây, trạng thái bắp và độ bao bắp của các giống ngô tham gia thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 46
3.1.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô tham gia thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 48
3.2. Kết quả mô hình trình diễn giống ngô có triển vọng 53
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 57
1. Kết luận 57
2. Đề nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


v
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT


CD bắp : Chiều dài bắp
CIMMYT : International Maize and Wheat Improvement Center
(Trung tâm Cải tiến Ngô và Lúa mỳ Quốc tế)
CSDTL : Chỉ số diện tích lá
CV : Coefficient of variation (Hệ số biến động)
ĐK bắp : Đường kính bắp
Đ/c : Đối chứng
FAO : Food and Agriculture Organization of the United Nations
(Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc)
KL1000 : Khối lượng 1000 hạt
LSD

.05
: Least significant difference (Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa
95%)
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
P : Xác suất
PTNT : Phát triển nông thôn
TGST : Thời gian sinh trưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013 5
Bảng 1.2. Sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2013 6
năm 1975 - 2013 10
Bảng 1.4.Diện tích, năng suất, sản lượng ngô vùng Đông Bắc từ 2011 – 2013 12
Bảng 1.5. Sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001 - 2013 13
Bảng 1.6. Sản xuất ngô của huyện Pác Nặm giai đoạn 2001 - 2013 15
Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống thí nghiệm vụ Xuân
và vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 39
Bảng 3.3. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 41
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ Hè
thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 43
Bảng 3.5. Tỷ lệ gãy thân, đổ rễ của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ Hè
thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 45
Bảng 3.6. Trạng thái cây, trạng thái bắp, độ bao bắp của các giống ngô tham gia

thí nghiệm vụ Xuân và vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 46
Bảng 3.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Xuân 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 48
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Hè Thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 49
Bảng 3.9. Năng suất thực thu của các giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Xuân và
vụ Hè thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 52
Bảng 3.10. Giống, địa điểm và quy mô mô hình trình diễn giống ngô có triển vọng
vụ Xuân và vụ Hè thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 53
Bảng 3.11. Một số đặc điểm hình thái và năng suất của giống có triển vọng trong
mô hình trình diễn vụ Hè thu 2013 tại Pác Nặm - Bắc Kạn 54


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Cùng với lúa nước (Oryza sativa L.) và lúa mì (Triticum sp.), cây ngô (Zea mays
L.) thuộc họ hòa thảo Poaceae hay Gramineae là 1 trong 3 cây lương thực quan trọng
nhất thế giới. Ngô được trồng ở khắp nơi trên thế giới từ 38
0
Nam – 58
0
Bắc. Sản lượng
ngô được sử dụng làm lương thực chiếm 17%, 66% được sử dụng làm thức ăn cho
chăn nuôi, làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp chiếm 5% và cho lĩnh vực xuất
khẩu chiếm trên 10% (trích theo Ngô Hữu Tình, 2003)[25]. Ở Việt Nam, cây ngô được

trồng phổ biến khắp cả nước, nhiều nhất là ở miền núi. Ngô là nguồn thực phẩm có giá
trị dinh dưỡng cao. Những bộ phận trên cây ngô có tác dụng rất lớn trong nhiều lĩnh
vực. Hạt ngô ăn trộn với gạo, dùng nấu rượu, làm tương; thân lá tươi làm thức ăn cho
gia súc
Từ đầu những năm 1990 đến nay, sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước
tiến nhảy vọt , gắn liền với việc mở rộng giống lai và cải thiện các biện pháp kỹ thuật
canh tác. Năm 1991, diện tích trồng giống lai chưa đến 1% trên hơn 400 nghìn ha
trồng ngô, số liệu thống kê sơ bộ cho thấy năm 2013 giống lai đã chiếm khoảng 95%
trong số hơn 1 triệu ha. Diện tích 1.172,6 nghìn ha, năng suất 44,3 tạ/ha, sản lượng
5,2 triệu tấn (Tổng cục Thống kê, 2014)[26]. Tuy nhiên, năng suất ngô của nước ta
vẫn thấp hơn trung bình thế giới, năm 2013 đạt 80,25% (44,3/55,2 tạ/ha) (FAOSTAT,
2014)[35].
Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngô là cây lương thực chính chỉ đứng sau
cây lúa. Việc mở rộng diện tích được tưới chủ động cho cây trồng ở vùng núi cao là
vấn đề khó khăn vì địa hình canh tác trên nền đất dốc, nương rẫy và sườn nú
lớn hơn nhiều so với vùng đồng bằng. Như vậy, chủ yếu diện tích ngô trong vùng được
trồng ở vùng cao nhờ nước trời, chỉ có một phần nhỏ diện tích ở vùng thấp là có tưới.
Vì vậy, giải pháp tối ưu cho việc nâng cao năng suất và sản lượng ngô ở vùng này là sử
dụng các giống ngô lai chịu hạn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới. Do đó, cần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


2
phải chọn tạo được những giống ngô cho năng suất cao, có khả năng chống chịu tốt,
phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng. Để tìm ra được những giống ngô ưu việt
nhất đưa vào sản xuất đại trà, cần tiến hành quá trình nghiên cứu, đánh giá, loại bỏ
những giống không phù hợp, giúp cho quá trình đánh giá và chọn tạo giống đạt hiệu
quả cao nhất.
Bắc Kạn là tỉnh miền núi vùng cao phía Bắc, nằm ở tọa độ địa lý 21

0
48' đến
22
0
44' vĩ độ Bắc, 105
0
26' đến 106
0
15' kinh độ Ðông. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là
4.868,41 km
2
, chiếm 1,47% diện tích tự nhiên cả nước. Ðịa hình tỉnh Bắc Kạn khá
phức tạp, vùng núi chiếm 100% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; điểm cao nhất gần
1.700 m và điểm thấp nhất cũng cao 40 m so với mực nước biển có nhiều dãy núi
cao, độ dốc lớn.
Một năm ở Bắc Kạn có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng
10, chiếm 70 - 80% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau,
lượng mưa chỉ chiếm khoảng 20 – 25% tổng lượng mưa trong năm, tháng mưa ít nhất
là tháng 12. Số giờ nắng trung bình của tỉnh là 1400 - 1600 giờ. Lượng mưa trung bình
năm ở mức 1400 – 1600 mm và tập trung nhiều vào mùa hạ. Độ ẩm trung bình trên
toàn tỉnh là 84%. Nhìn chung, khí hậu của tỉnh có nhiều thuận lợi cho việc phát triển
nông, lâm nghiệp cũng như phát triển một số cây nông phẩm cận nhiệt và ôn đới. Bên
cạnh những thuận lợi, Bắc Kạn cũng có nhiều khó khăn do khí hậu như sương muối,
mưa đá, lốc làm ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh tế trong tỉnh.
Với điều kiện tự nhiên của tỉnh như vậy, cây trồng cạn, đặc biệt là ngô có vai trò
quyết định đến đời sống của đồng bào các dân tộc. Cây ngô ở tỉnh chủ yếu trồng một
vụ vì tập quán và không có nhiều giống ngắn ngày để canh tác 2 vụ/năm. Nhằm tăng
sản lượng cây ngô, đặc biệt là ở vùng đất dốc của tỉnh thì lựa chọn giống ngô phù hợp
là rất cần thiết.
Xuất phát từ nhũng cơ sở khoa học và thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên

cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số
giống ngô lai tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn”.
2. Mục tiêu của đề tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


3
Nhằm chọn được giống ngô lai trung ngày phù hợp với điều kiện sinh thái của
tỉnh Bắc Kạn để đưa vào cơ cấu cây trồng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất ngô.
3. Yêu cầu của đề tài
- Theo dõi khả năng của sinh trưởng, phát triển của các giống ngô lai.
- Theo dõi đặc điểm hình thái của một số giống ngô lai.
- Theo dõi khả năng chống chịu sâu, bệnh của một số giống ngô lai.
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của một số giống ngô lai.
- Xây dựng mô hình trình diễn giống ngô lai triển vọng.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác chọn giống ngô lai vùng Trung du và
miền núi phía Bắc.
- Bổ sung thêm dữ liệu khoa học về các giống ngô lai phù hợp với điều kiện sinh
thái vùng Đông Bắc.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đã lựa chọn được 1 giống ngô lai có khả năng sinh trưởng phát triển tốt,
chống chịu tốt, cho năng suất cao và ổn định, thích nghi với điều kiện tỉnh Bắc Kạn,
góp phần mở rộng diện tích các giống ngô mới làm tăng hiệu quả sản xuất.
- Đề tài góp phần chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, tăng năng suất và hiệu quả
sản xuất ngô, khai thác tiềm năng đất đai, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập
cho các hộ nông dân vùng miền núi.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong sản xuất nông nghiệp, giống có vai trò rất quan trọng góp phần nâng cao
năng suất và sản lượng cây trồng. Khả năng thích ứng của giống với các điều kiện sinh
thái rất khác nhau. Vì vậy, muốn phát huy hiệu quả tối đa của giống, cần tiến hành
nghiên cứu và đánh giá khả năng thích ứng cũng như tiềm năng năng suất của các
giống mới trước khi đưa ra sản xuất đại trà, từ đó tìm ra những giống thích hợp nhất đối
với từng vùng sinh thái. Ngày nay sản xuất ngô muốn phát triển theo hướng hàng hoá
với sản lượng cao, quy mô lớn nhằm phục vụ nhu cầu thị trường, cần phải có các biện
pháp hữu hiệu như thay thế các giống cũ, năng suất thấp bằng các giống mới năng suất
cao, chống chịu tốt. Đặc biệt là ở các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, sử dụng
giống có khả năng chống chịu tốt, cho năng suất cao sẽ góp phần phát huy hiệu quả
kinh tế của giống, đồng thời góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc
thiểu số. Trong công tác chọn tạo giống cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng, việc
tạo ra những dòng, giống có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận là
cần thiết. Sau khi chọn tạo ra bất kỳ một dòng, giống mới nào thì công việc khảo
nghiệm và đánh giá các đặc tính nông sinh học của các giống mới đó được xem là một
khâu quan trọng trước khi đưa vào sản xuất đại trà. Việc đánh giá biểu hiện của một số
giống thường bắt đầu từ việc đánh giá các đặc tính sinh học, đánh giá sự sinh trưởng,
phát triển, tiềm năng năng suất, khả năng chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất lợi,
phân tích mối tương quan giữa một số chỉ tiêu đến năng suất cây trồng.
Trong những năm gần đây, việc chọn tạo và đưa vào thử nghiệm vào sản xuất
những giống ngô lai mới có năng suất cao, ổn định và thích nghi với những vùng sinh

thái khác nhau là vấn đề rất quan trọng góp phần đưa nhanh các giống ngô tốt vào sản
xuất đại trà nhằm nâng cao năng suất, sản lượng ngô.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


5
Để tăng năng suất cũng như sản lượng đáp ứng nhu cầu trong nước, trong những
năm qua Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xét công nhận được nhiều giống ngô lai mới,
các giống này đã phát huy hiệu quả tốt trên đồng ruộng.
Đề tài nghiên cứu một số giống ngô tại Bắc Kạn và một số tỉnh miền núi phía Bắc
nhằm đánh giá một cách khách quan, kịp thời, có cơ sở khoa học về tính khác biệt, độ
đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng, khả năng sinh trưởng phát triển, khả năng
chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất thuận cũng như tiềm năng cho năng
suất của các giống ngô lai.
Xuất phát những cơ sở khoa học trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài này.
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, mặc dù chỉ đứng
thứ hai về diện tích sau lúa nước và lúa mì, nhưng ngô lại dẫn đầu về năng suất và sản
lượng, là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương
thực chủ yếu.
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về các lĩnh
vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện khí hoá và tin
học vào công tác nghiên cứu và sản xuất (Ngô Hữu Tình, 1997) [24]. Do vậy diện
tích, năng suất ngô liên tục tăng trong những năm gần đây.
Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013
Năm
Diện tích
(triệu ha)

Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
1961
105,59
19,42
205.03
2004
147,56
49,40
728,97
2005
147,53
48,37
713,61
2006
146,96
48,09
706,83
2007
158,31
49,89
789,92
2008
162,39
51,05
829,10
2009
158,87

51,64
820,53
2010
164,07
52,83
850,44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


6
2011
170,39
51,87
883,46
2012
178,55
48,88
872,79
2013
184,24
55,17
1016,43
Nguồn: FAOSTAT, 2014 [35]
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 1961, năng suất ngô trung bình của thế giới
chỉ đạt sấp xỉ 20 tạ/ha nhưng đến năm 2004 năng suất ngô trên thế giới đã đạt 49,40
tạ/ha. Năm 2013 diện tích, năng suất và sản lượng ngô trên thế giới đều tăng so với
năm 2012 khi đạt 184,24 triệu ha và 1016,43 triệu tấn. Chính từ điều nay mà càng
khẳng định thêm vai trò và vị trí của cây ngô. Diện tích trồng lúa mỳ năm 1961 đạt
204,20 triệu ha, năng suất đạt 10,88 tạ/ha, sản lượng thu được 222,35 triệu tấn. Năm

2013, diện tích 218,46 triệu ha, năng suất 32,65 tạ/ha, sản lượng đạt 713,22 triệu tấn
(FAOSTAT, 2014)[35]. Như vậy, trong những năm qua, lúa nước, lúa mỳ và ngô vẫn
là những cây trồng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp thế giới, mặc dù diện tích trồng
ngô của thế giới năm 2013 có thấp hơn so với lúa mỳ nhưng năng suất và sản lượng
ngô vẫn đứng đầu trong những cây lương thực chủ yếu trên thế giới.
Có được kết quả trên, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế lai trong
chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Đặc
biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới trong chọn tạo giống ngô lai
nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì việc ứng dụng công
nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên
lúa mì và lúa nước.
Hiện nay, tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới cũng đã có nhiều
thay đổi, thể hiện cụ thể qua bảng 1.2.
Bảng 1.2. Sản xuất ngô của một số nƣớc trên thế giới năm 2013
Nƣớc
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
Mỹ
33,99
92,37
313,92
Trung Quốc
33,56
57,48
192,90
Braxin

13,22
42,12
55,66
Mexicô
6,07
29,06
17,64
Ấn Độ
7,27
29,67
21,57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


7
Ý
0,99
98,03
9,75
Đức
0,49
106,23
5,19
Hy Lạp
0,18
119,13
2,17
Ixaren
0,003

338,16
0,096
Nguồn: FAOSTAT, 2014[35]
Phần lớn các nước phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể nhưng năng suất
ngô ở Mỹ lại tăng đột biến. Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ sinh học
trong sản xuất (Minh-Tang Chang and Peter, 2005)[39] cho biết, ở Mỹ chỉ còn sử dụng
48% giống ngô được chọn tạo theo công nghệ truyền thống, 52% bằng công nghệ sinh
học. Do vậy mà năng suất, sản lượng ngô của Mỹ đạt cao nhất, sau đó đến Trung Quốc,
Brazil, Ấn Độ,
Theo FAO, việc sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới đang có sự mất cân đối giữa
cung và cầu dẫn đến tình trạng các nước nhập khẩu ngô tăng dần, các nước xuất khẩu
ngô giảm dần từ nay đến những năm đầu thế kỷ XXI. Xuất khẩu ngô đã đem lại nguồn
lợi lớn cho các nước lớn sản xuất ngô như Mỹ, Trung Quốc, Achentina, Hungari,…
(Ngô Hữu Tình, 2003)[25].
Trung Quốc được xem là cường quốc đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ, và đứng
thứ nhất trong khu vực Châu Á trong lĩnh vực sản xuất ngô lai với tốc độ tăng trưởng
ngày càng tăng. Hiện
,
Đức, Hy Lạp, Ix-ra-en, mặc dù năng suất ngô cao nhưng sản lượng vẫn còn thấp do
diện tích trồng ngô chưa được mở rộng.
Trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, ngô, lúa mỳ, lúa nước là
những cây thực phẩm vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất trong lĩnh vực cung cấp lương
thực, thực phẩm nuôi sống toàn nhân loại. Vì vậy, chọn các giống ngô năng suất cao và
các biện pháp kỹ thuật canh tác là một trong những giải pháp của nhân loại về vấn đề
lương thực.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



8
Ở nước ta, ngô là cây trồng nhập nội được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm và
đã trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ thống cây lương thực quốc
gia (Ngô Hữu Tình và cs, 1997)[24]. Cây ngô đã khẳng định vị trí trong sản xuất nông
nghiệp và trở thành cây lương thực quan trọng đứng thứ hai sau cây lúa đồng thời là
cây màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải quyết lương thực tại chỗ cho người
dân Việt Nam, nhờ những đặc tính sinh học ưu việt như khả năng thích ứng rộng, chịu
thâm canh, đứng đầu về năng suất, trồng được ở nhiều vùng sinh thái và ở các vụ khác
nhau trong năm, từ đó diện tích trồng ngô nhanh chóng được mở rộng ra khắp cả nước,
đặc biệt là các vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
Trong hơn 10 năm trở lại đây, những thành công trong công tác nghiên cứu và sử
dụng các giống ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực sự trong ngành sản xuất ngô ở
Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây ngô đã thay đổi sâu sắc tập quán trồng
ngô ở Việt Nam và đã có những đóng góp nhất định cho mục tiêu phát triển cây ngô ở
nước ta.
1991, diện tích trồng ngô lai ở nước ta chỉ đạt 1% tổng diện tích
trồng ngô, nhưng đến năm 2013, giống ngô lai đã chiếm khoảng 95% trong tổng số
hơn 1 triệu ha trồng ngô. Trong đó giống được cung cấp do các cơ quan nghiên cứu
trong nước chọn tạo và sản xuất chiếm khoảng 50 - 55%, còn lại là của các công ty hạt
giống ngô lai hàng đầu thế giới. Một số giống ngô lai được dùng chủ yếu ở vùng núi
hiện nay như LVN10, LVN4, LVN61, DK888, DK999, B9698, NK54, NK4300,
NK66, NK67, VN8960
Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình thế giới
trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ bằng 34% so với
trung bình thế giới, năm 1990 bằng 42%, năm 2000 bằng 59,8%, năm 2005 bằng
74,4% và năm 2013 đạt 80,8%. Năm 1990, sản lượng ngô vượt ngưỡng 1 triệu tấn,
năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và đến năm 2013 Việt Nam đạt diện tích, sản lượng
ngô cao nhất từ trước cho đến nay (diện tích đạt 1.172,6 nghìn ha và sản lượng 5.193,5
triệu tấn).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


9
Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử phát triển
ngô lai trên thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước trong vùng, kết quả
này đã được CIMMYT và nhiều nước đánh giá cao. Hiện nay nhiều tỉnh có diện tích
trồng ngô lai đạt gần 100% như; Đồng Nai, An Giang, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc,…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


10
1975 - 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
1975
276,6
10,42
278,4
1980
389,6
11,00
428,8

1985
392,2
14,90
584,9
1990
431,8
15,50
671,0
1995
556,8
21,30
1.184,2
2000
730,2
27,50
2005,9
2004
991,1
34,6
3430,9
2005
1.052,6
36,00
3787,1
2010
1.126,9
40,90
4.625,7
2011
1.117,2

42,90
4.799,3
2012
1.118,2
42,9
4.803,2
2013
1.172,6
44,3
5.193,5
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2014[26]
Số liệu bảng 1.3 cho thấy sản xuất ngô của nước ta tăng nhanh về diện tích,
năng suất và sản lượng trong giai đoạn 2004- 2013. Năm 2004 cả nước trồng được
991,1 nghìn ha, năm 2013 là 1.172,6 nghìn ha, tăng hơn 181,5 nghìn ha so với năm
2004. Việc tăng cường sử dụng giống ngô lai cho năng suất cao kết hợp với các
biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng những thành tựu khoa học đã khiến
cho năng suất ngô liên tục tăng trong giai đoạn 2004- 2013 (từ 34,6 tạ/ha lên 44,3
tạ/ha). Sản lượng ngô năm 2013 đã tăng so với năm 2012 lên mức 5.193,5 nghìn
tấn. Tuy diện tích, năng suất và sản lượng ngô của chúng ta đều tăng nhanh nhưng
so với bình quân chung của thế giới và khu vực thì năng suất ngô của nước ta còn
rất thấp (năm 2011 năng suất ngô của Việt Nam 46,8 tạ/ha, bằng 90,27% năng suất
bình quân của thế giới, nhưng đến năm 2013 năng suất ngô giảm nhẹ xuống còn
44,3 tạ/ha). Điều này đặt ra cho ngành sản xuất ngô Việt Nam những thách thức và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


11
khó khăn to lớn, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay. Đòi
hỏi đội ngũ chuyên môn cũng như các nhà khoa học trong cả nước tiếp tục lỗ lực,

nghiên cứu ra những giống ngô va biện pháp kỹ thuất canh tác hiệu quả để nâng cao
năng suất và chất lượng của sản xuất ngô Việt Nam, góp phần vào sự phát triển của
ngành nông nghiệp Việt Nam (FAOSTAT, 2014) [35].
Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được CIMMYT và FAO cũng như các nước
trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp các nước trong khu vực về trình độ
nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi vào công nghệ cao (công nghệ
gen, nuôi cấy bao phấn và noãn) (Ngô Hữu Tình, 2003)[25].
Một thực trạng đặt ra hiện nay là mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng ngô
của nước ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới năng suất ngô
nước ta còn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngô của Việt Nam ngày càng lớn.
Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết cho các cơ quan nghiên cứu
chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô có năng suất cao, chống chịu tốt đồng thời đáp
ứng được cả yêu cầu về chất lượng.
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ bao gồm 14 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ,
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình) là một trong các vùng trồng ngô có diện tích
lớn ở Việt Nam. Diện tích trồng ngô năm 2013 của vùng này là 505,8 nghìn ha, sản
lượng đạt cao nhất 1.904,2 nghìn tấn, tuy diện tích lớn nhưng phân bố rải rác, đất
trồng ngô có địa hình phức tạp, chủ yếu là đất phiên bãi, thung lũng, thềm sông suối,
độ cao so với mặt nước biển thay đổi từ vài trăm mét (Lạng Sơn) đến hơn nghìn mét
(cao nguyên Đồng Văn – Lạng Sơn) nên năng suất đạt thấp nhất so với các vùng khác
trong cả nước đạt 37,6 tạ/ha. Khí hậu của vùng thường khắc nghiệt, hạn và rét kéo
dài, lượng mưa không phân bố không đều trong năm, đã ảnh hưởng không nhỏ đến
sản xuất ngô của vùng.
Mặc dù sản lượng ngô của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ chiếm tới 36,66%
sản lượng ngô cả nước nhưng mới chỉ cung cấp được cho nhu cầu ngô của vùng, sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



12
xuất ngô hàng hóa chưa nhiều. Phần lớn diện tích trồng ngô của vùng là trồng trên đất
dốc và nhờ nước trời, đầu tư thâm canh thấp, một số tỉnh có tỷ lệ giống ngô địa phương
và giống ngô thụ phấn tự do cao, là nguyên nhân làm cho năng suất ngô đạt thấp hơn
các vùng khác. Các giống ngô địa phương và giống thụ phấn tự do tuy năng suất thấp
nhưng lại có chất lượng và khả năng chống chịu tốt. Mặt khác đồng bào miền núi vẫn
canh tác theo tập quán cũ không thu hoạch ngô khi chín mà để “treo đèn” ngoài đồng,
nên các giống ngô lai tuy có năng suất cao nhưng lại không thích hợp với tập quán
canh tác này do dễ bị sâu bệnh sau thu hoạch tấn công, gây hại.
Bảng 1.4. Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngô vùng Đông Bắc từ 2011 – 2013
TT
Tỉnh
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2011
2012
2013
2011
2012
2013
2011
2012
2013
1
Hà Giang

49,9
52,5
53,0
31,1
31,8
33,7
155,3
167,2
178,5
2
Cao Bằng
39,0
39,3
39,0
32,0
32,5
33,8
124,8
127,7
131,7
3
Bắc Kạn
16,9
16,5
16,4
38,3
37,2
40,9
64,7
61,4

67,0
4
Tuyên Quang
16,5
14,0
16,2
43,9
43,1
43,8
72,4
60,4
70,9
5
Thái Nguyên
18,6
17,9
19,0
43,2
42,2
42,6
80,4
75,5
81,0
6
Lạng Sơn
20,9
21,8
22,0
48,2
47,8

47,6
100,7
104,3
104,8
7
Quảng Ninh
6,3
6,0
5,8
37,8
37,3
38,6
23,8
22,4
22,4
8
Bắc Giang
10,8
8,6
9,3
37,7
39,1
38,8
40,7
33,6
36,1
9
Phú Thọ
21,4
17,4

18,6
44,1
45,5
45,4
94,3
79,1
84,4
Vùng Đông Bắc
200,3
194,0
199,3
39,6
39,6
40,6
757,1
731,6
776,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2014 [26]
Bắc Kạn là tỉnh có diện tích trồng ngô thấp so với các tỉnh thuộc vùng này và có
xu hướng giảm nhẹ trong những năm qua từ 16,9 nghìn ha (2011) xuống còn 16,4
nghìn ha (2013), năng suất cũng đạt thấp hơn so với nhiều tỉnh và so với trung bình của
cả nước, đạt 40,9 tạ/ha (Tổng cục thống kê, 2014) [26]. Tại vùng này các tỉnh đạt năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


13
suất ngô cao là những tỉnh có diện tích trồng ngô lai trên 95% như Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Phú Thọ. Tuy nhiên các tỉnh này lại ít có khả năng mở rộng diện
tích, do đó sản xuất ngô của vùng Đông Bắc đã và đang phát triển chậm hơn so với các

vùng ngô khác.
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn
Cùng với sự phát triển ngô trong cả nước, tỉnh Bắc Kạn trong những năm gần đây
tỉnh cũng rất quan tâm phát triển sản xuất ngô và đã thu được nhiều kết quả nhất định
nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, được nông dân ứng dụng mạnh mẽ vào
sản xuất ngô cho nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô trên địa bàn toàn tỉnh tăng
nhanh trong những năm gần đây.
Bảng 1.5. Sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001 - 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2001
10,2
23,6
24,1
2002
11,1
24,8
27,5
2003
13,2
26,5
35,0
2004
13,6
26,6

36,2
2005
14,6
27,3
39,8
2006
14,2
24,9
35,3
2007
16,1
34,5
55,6
2008
16,7
35,0
58,4
2009
16,0
34,8
55,7
2010
15,9
36,0
57,3
2011
16,9
38,8
65,5
2012

16,5
37,2
61,4
2013
16,4
40,9
67,0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


14
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn, 2014 [5]
Qua bảng 1.5 cho thấy: Từ năm 2001 đến năm 2013 diện tích ngô của tỉnh Bắc
Kạn tăng từ 10,2 nghìn ha đến 16,9 nghìn ha. Năng suất ngô của tỉnh tăng đều từ 23,6
tạ/ha năm 2001 lên 40,9 tạ/ha vào năm 2013, tăng 17,3 tạ/ha so với năm 2001. Sản
lượng tăng từ 24,1 nghìn tấn năm 2001 lên 67,0 nghìn tấn vào năm 2013, tăng 42,9
nghìn tấn so với năm 2001. Năng suất ngô của tỉnh Bắc Kạn bằng 92,3% năng suất
ngô của cả nước. Năm 2013, tuy diện tích trồng có giảm nhẹ nhưng năng suất và sản
lượng đều tăng và đạt cao nhất từ trước tới nay, năng suất đạt 40,9 tạ/ha, sản lượng
đạt 67,0 nghìn tấn. Điều này chứng tỏ trong những năm gần đây tỉnh Bắc Kạn cây
ngô đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh đặc biệt chú trọng quan tâm và đầu tư phát
triển đã đạt được những thành tựu như vậy đó chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật mới vào sản xuất ngô như: Sử dụng các giống mới, kỹ thuật canh tác.
Tuy nhiên sản xuất ngô ở Bắc Kạn cần được quan tâm và đầu tư phát triển
nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng diện tích gieo trồng ngô xuống ruộng 1 vụ, gieo
trồng ngô trên đất đồi, đất bãi ở vụ Hè Thu. Sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng
suất nhằm khai thác tối đa tiềm năng đất sẵn có của tỉnh.
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường sử dụng
các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở nhưng vùng khó khăn, nhằm tăng năng suất,

sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm
nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu các tổ hợp phân bón cho ngô
lai, kết hợp nghiên cứu các phương thức trồng xen và mở rộng những nghiên cứu ra
sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực, đồng thời nâng cao được chất
lượng lương thực cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, đặc biệt góp phần giảm giá
thành sản phẩm ngành chăn nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế của tỉnh.
Trong những năm gần đây Bắc Kạn đã chuyển đổi cơ cấu giống, sử dụng các
giống ngô lai năng suất cao như: LVN10, LVN11, LVN12, LVN99… ngoài ra còn
một số giống ngô nhập nội như: Biosed 9698, DK 999, DK 888, NK 4300, NK 66,
C919, DK 9901, DK 9955 các giống này đã được áp dụng và đưa vào sản xuất trên địa
bàn toàn tỉnh
1.2.5. Tình hình sản xuất ngô của huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


15
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển cây lương thực nói chung của
huyện Pác Nặm, cây ngô cũng rất được quan tâm phát triển sản xuất và đã thu được
nhiều kết quả nhất định. Nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới được nông dân
ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô cho nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô trên
địa bàn toàn huyện cũng đã tăng nhanh.

Bảng 1.6. Sản xuất ngô của huyện Pác Nặm giai đoạn 2001 - 2012
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng

(tấn)
2004
1879
26
4885
2005
2038
25,18
5132
2006
2177
26,20
5704
2007
2282
30,94
7061
2008
2340
31,18
7296
2009
2387
33,05
7877
2010
3584
23,68
8487
2011

2700
34,33
9269
2012
2929
30,89
9047
Nguồn: Niên Giám thống kê huyện Pác Nặm, 2013[21]
Qua bảng 1.6 cho thấy: Từ năm 2004 đến năm 2012 diện tích ngô của huyện Pác
Nặm tăng từ 1879 ha đến 2929 ha. Năng suất ngô của huyện tăng đều từ 26 tạ/ha lên
đến 30,89 tạ/ha vào năm 2012, tăng 4,3 tạ/ha so với năm 2004. Sản lượng tăng từ 4885
tấn năm 2004 lên đến 9047 tấn vào năm 2012, tăng 4162 tấn so với năm 2004. Điều
này chứng tỏ trong những năm gần đây ở tỉnh Bắc Kạn nói chung, huyện Pác Nặm nói
riêng cây ngô đã được Đảng bộ và chính quyền huyện đặc biệt chú trọng đầu tư phát
triển. Đạt được những thành tựu như vậy đó chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật mới vào sản xuất ngô như: Sử dụng một số tập đoàn các giống mới, áp dụng
kỹ thuật canh tác tốt. Tuy nhiên sản xuất ngô ở huyện Pác Nặm cần được quan tâm và
đầu tư phát triển nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng diện tích gieo trồng ngô xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


16
ruộng 1 vụ, gieo trồng ngô trên đất đồi, đất bãi ở vụ Hè Thu. Sử dụng giống mới, thâm
canh tăng năng suất nhằm khai thác tối đa tiềm năng đất sẵn có của huyện từ sự phát
triển đó đã phần nào đảm bảo được cuộc sống cho đồng bào vùng sâu, đảm bảo được
an ninh lương thực cho toàn huyện.
Trong những năm gần đây huyện Pác Nặm đã chuyển đổi cơ cấu giống, áp dụng
các biện pháp luân canh, sử dụng các giống ngô lai năng suất cao như: LVN10,
LVN11, LVN12, LVN99… ngoài ra còn một số giống ngô nhập nội như: DK 999,

DK 888, NK 66, C 919, DK 9901, DK 9955 các giống này đã được áp dụng và đưa
vào sản xuất trên địa bàn toàn huyện.
1.3. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới
Lợi dụng ưu thế lai đã có từ lâu trong sản xuất nông nghiệp đối với cây ngô, từ xa
xưa những người thổ dân da đỏ ở Châu Mỹ đã biết cách gieo các giống ngô khác nhau
bên cạnh nhau, cho lai tự nhiên để nâng cao năng suất.
Trong quá trình nghiên cứu và sản xuất hiện tượng ưu thế lai ở cây ngô được các
nhà khoa học quan tâm từ rất sớm. Thực hành tạp giao đầu tiên ở ngô với mục đích
nâng cao năng suất hạt có lẽ là John Lorain, năm 1812 ông đã nhận thấy rằng việc trộn
lẫn các loài ngô khác nhau như người da đỏ đã làm sẽ cho năng suất ngô cao. Tuy
nhiên người đầu tiên đưa ra lý thuyết về hiện tượng ưu thế lai là Charles Darwin vào
năm 1871. Bằng cách nghiên cứu hàng loạt các cá thể giao phối và tự phối ở nhiều loài
khác nhau như đậu đỗ, ngô, ông nhận thấy sự hơn hẳn của các cây giao phấn với các
cây tự thụ phấn về chiều cao, tốc độ nẩy mầm của hạt, số quả trên cây và cả sức
chống chịu với điều kiện bất thuận và năng suất hạt.Sử dụng ưu thế lai trong tạo giống
ngô lai được nhà nghiên cứu Wiliam, Janes Beal người Mỹ bắt đầu nghiên cứu từ năm
1876, Ông thu được những cặp lai hơn hẳn các giống bố mẹ về năng suất từ 10 - 15%.
Shull là nhà khoa học dẫn chứng và nêu khái niệm về ưu thế lai khá hoàn chỉnh trên
ngô. Năm 1904 ông đã tiến hành tự thụ cưỡng bức ở ngô để thu được các dòng thuần
và tạo ra các giống lai từ các dòng thuần này. Năm 1913, nhà khoa học này đã chính
thức đưa ra thuật ngữ “Heterosis” để chỉ ưu thế lai, những công trình nghiên cứu về
ngô lai của Shull đã đánh dấu bắt đầu thực sự của chương trình chọn tạo giống ngô
(Hallauer, 1988) [38].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


17
Ngoài Shull, các nhà khoa học người Mỹ như East, Heyes cũng đã nghiên cứu ưu

thế lai ở ngô. Từ năm 1918, khi Jones đề xuất sử dụng lai kép trong sản xuất để giảm
giá thành hạt giống thì việc áp dụng ưu thế lai vào trồng trọt, chăn nuôi được phát triển
nhanh chóng. Ngô lai đơn đã đem lại năng suất và lợi nhuận cao cho người trồng ngô.
Nhờ việc sản xuất lượng lớn hạt giống với giá thành hạ nên đã tạo điều kiện cho cây
ngô lai phát triển mạnh mẽ ở Mỹ và các nước có kỹ thuật trồng ngô tiên tiến trên thế
giới. Năm 1966, Trung tâm cải tiến ngô và lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT) [23] được
thành lập tại Mêxicô. Nhiệm vụ của Trung tâm là nghiên cứu và đào tạo về ngô, lúa mỳ
tại các nước đang phát triển. Trung tâm đã đưa ra giải pháp là tạo giống ngô thụ phấn
tự do (OPV), làm bước chuyển tiếp ngô địa phương và ngô lai. Hơn 30 năm hoạt động
Trung tâm đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng, phát triển và cải tiến hàng loạt vốn
gen, quần thể và giống ngô trên 80 quốc gia trên thế giới. Dòng thuần là nguyên liệu
được sử dụng trong chọn tạo giống ngô lai cũng được chú trọng, theo điều tra của
Bauman năm 1981, ở Mỹ các nhà tạo giống đã sử dụng 15% quần thể có nguồn di
truyền rộng, 16% từ quần thể có nên di truyền hẹp, 14% từ quần thể của các dòng ưu
tú, 39% từ tổ hợp lai của các dòng ưu tú và 17% từ quần thể hồi giao để tạo dòng
(Bauman,1981).
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai ở Việt Nam
Việt Nam tiếp cận với ngô lai không phải là muộn, ngay từ những năm 60 chúng
ta đã có những nghiên cứu về chọn tạo và sử dụng ngô lai vào sản xuất. Song do vật
liệu khởi đầu của chúng ta còn nghèo nàn và không phù hợp, vì vậy ngô lai đã không
phát huy được vai trò của nó. Phải đến những năm đầu của thập kỷ 90 công tác chọn
tạo giống ngô lai được các nhà khoa học coi là nhiệm vụ chiến lược chủ yếu.
Trong nhưng năm 1992-1994, Viện nghiên cứu ngô đã lai tạo ra các giống ngô lai
không quy ước là: LS-5, LS-6, LS-7, LS-8. Bộ giống ngô lai này gồm những giống
chín sớm, chín trung bình và chín muộn, có năng suất từ 3-7 tấn/ha và đã được mở
rộng trên phạm vi toàn quốc, mỗi năm diện tích gieo trồng trên 80.000 ha tằn năng suất
1 tấn/ha so với giống thụ phấn tự do (Trần Hồng Uy, 1997) [28].

×