Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vai trò của pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.69 KB, 28 trang )

I. PHN mở đầu
Ngày nay, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đang diễn ra nhanh
chóng, đời sống kinh tế của con ngời đã v đang đợc cải thiện đáng kể nhng
chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức của sự phát triển. Đó là
nguy cơ suy giảm từng ngày, từng giờ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự
suy thoái các yêu tố căn bản của môi trờng sống.
Tài nguyên rừng - một trong những nguồn tài nguyên có khả năng tự
tái tạo và có tính quyết định trong việc duy trì cân bằng sinh thái toàn cầu,
đang đứng trớc nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng cả về lợng và chất. Mỗi
năm có khoảng 17 triệu ha rừng bị tn phá v biến mất trên bề mặt trái đất.
Tại Đông Nam á, độ che phủ của rừng chỉ còn dới 20% vào năm 1982 và
con số này đang giảm theo tỷ lệ 0,6% mỗi năm. Các nhà khoa học đã cảnh
báo, mất rừng không chỉ đơn thuần là sự suy giảm một nguồn tài nguyên mà
nó còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng nh quá trình sa mạc hoá; các
thiên tai nh lũ lụt, lở đất, hạn hán; và các tác hại về môi trờng sinh thái nh
phá hoại sinh cảnh, tuyệt chủng các loài sinh vật, ô nhiễm nguồn nớc.
Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển cũng đang đứng trớc
những nguy cơ khủng hoảng về môi trờng sinh thái và tài nguyên thiên
nhiên. Cho đến nay, bên cạnh việc đem lại lợi ích kinh tế, chúng ta không thể
phủ nhận đợc vai trò cực kỳ quan trọng của rừng nớc ta trong việc giữ đất,
giữ nớc, điều hoà không khí và bảo vệ môi trờng sinh thái. Trớc những biến
đổi về môi trờng trong thời gian qua, chúng ta càng hiểu đợc tầm quan trọng
của rừng. Quản lý rừng bền vững đã đợc nhận thức nh một chiến lợc vì mục
tiêu tồn tại lâu dài của con ngời và thiên nhiên.
Tuy nhiên xuất phát từ những khó khăn về đất đai, t liệu sản xuất, tập
quán canh tác và cả nhận thức, hàng năm, hàng nghìn ha rừng vẫn bị chặt
phá, các sản phẩm từ rừng vẫn bị khai thác một cách bất hợp pháp. Đáng
nghiêm trọng là những vụ phá rừng tập thể nhằm chuyển đổi mục đích kinh
doanh vì mục tiêu trớc mắt, rồi những vụ buôn bán các sản vật từ rừng diễn
ra với quy mô lớn, bất chấp pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng. Do nhu cầu
phát triển kinh tế, nhiều diện tích rừng đã bị phá cho việc phát triển cơ sở hạ


tầng nh đờng sá, trang trại hoặc đất nông nghiệp, các đô thị và khu công
nghiệp, Hơn nữa, do cơ chế chính sách và quan trọng hơn là do hệ thống
pháp luật về quản lý rừng cha đồng bộ, cha theo kịp với tốc độ phát triển của
1
xã hội và cha đáp ứng đợc yêu cầu về quản lý bảo vệ rừng (QLBVR), đã dẫn
đến những hoạt động phá hoại rừng ở nhiều nơi mà không thể kiểm soát. Bên
cạnh đó, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống quản lý hành chính
lâm nghiệp, đội ngũ cán bộ công chức hành chính lâm nghiệp cha đáp ứng đ-
ợc yêu cầu đòi hỏi về qun lý bo v rng trong giai đoạn hiện nay làm cho
hệ thống pháp luật về qun lý bo v rng không phát huy đợc hiệu lực.
Với thực tế trên, việc đánh giá thực trạng vai trò pháp luật trong quản
lý nh nc (QLNN) đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở nớc ta là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác
giả đã tiến hành thực hiện đề tài: Vai trũ ca phỏp lut trong qun lớ nh
nc i vi lnh vc bo v rng Vit Nam hin nay nhằm đóng góp
một phần trong việc nâng cao hơn nữa vai trò của pháp luật trong quản lý và
bảo vệ rừng ở nớc ta hiện nay.
II. PHN NI DUNG
1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp
luật trong quản lý nhà nớc đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng
1.1. Rừng và quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng
1.1.1. Rừng và các khái niệm liên quan đến rừng
Theo quy định khoản 1 Điều 3 Luật BV&PTR năm 1991 (sửa đổi bổ
sung năm 2004) đợc định nghĩa nh sau:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật
rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trờng khác, trong đó cây
gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trng là thành phần chính có độ che phủ của
tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng
sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.

Nh vậy, theo khái niệm trên, rừng bao gồm các yếu tố: Thực vật rừng
tự nhiên hoặc do con ngời trồng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh trên đất trồng
rừng, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc thực vật đặc trng là những thực vật chính
chiếm u thế; động vật rừng sống hoang dã trong rừng; vi sinh vật rừng; quần
xã thực vật rừng phải có một diện tích đủ lớn để tạo ra hoàn cảnh rừng đặc tr-
2
ng và những yếu tố tự nhiên, môi trờng do rừng tạo ra khác với hoàn cảnh
bên ngoài, độ khép tán của quần xã thực vật phải lớn hơn 0,1.
Đất lâm nghiệp bao gồm: đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và
đất cha có rừng đợc quy hoạch để gây trồng rừng; trong phạm vi QLNN về
đất lâm nghiệp, thì đất lâm nghiệp chỉ giới hạn ở lớp đất mặt với độ sâu nhất
định phù hợp với canh tác lâm nghiệp, không bao gồm những tài nguyên,
khoáng sản và những vật thể nằm sâu trong lòng đất.
Đến nay, cha có một khái niệm đầy đủ nào về bảo vệ rừng, theo
quan điểm của chúng tôi bảo vệ rừng là tổng thể các hoạt động nhằm bảo
toàn, phát triển hệ sinh thái rừng hiện có, bao gồm thực vật, động vật rừng,
đất lâm nghiệp và các yếu tố tự nhiên khác; phòng, chống những tác động
gây thiệt hại đến đa dạng sinh học của rừng, bảo vệ nguồn nớc, bảo vệ môi
trờng sinh thái.
Nh vậy, bảo vệ rừng bao gồm những hoạt động sau:
- Tổ chức phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại đến
rừng nh: phá rừng, đốt rừng, lấn chiếm rừng, đất lâm nghiệp; khai thác, mua
bán, vận chuyển lâm sản; xuất nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng; săn
bắn động vật rừng, chăn thả gia súc vào rừng trái quy định của pháp luật.
- Thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy; phòng, trừ sâu bệnh hại.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Theo khái niệm trên bảo vệ rừng bao gồm cả phát triển rừng. Theo quy
định của khoản 3 Điều 3 Luật BV&PTR thì:
Phát triển rừng là việc trồng rừng mới, trồng lại rừng sau khi khai thác,

khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi rừng, cải tạo rừng nghèo và việc áp
dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh khác để tăng diện tích rừng, nâng cao
giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp lâm sản, khả năng phòng hộ và
giá trị của rừng [11, tr. 63].
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX thế giới đã quan tâm đến "phát
triển bền vững". Khái niệm "phát triển bền vững" hay "khả năng bền vững"
đợc đa ra trong "chiến lợc bảo tồn thế giới" nhằm đáp lại nhận thức và những
mối lo ngại ngày càng tăng về sự suy kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên
3
và sự xuống cấp môi trờng toàn cầu. Quan điểm chung của sự phát triển bền
vững là bảo đảm sao cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ hôm nay không
làm tổn hại đến việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau.
"Phát triển bền vững" có mối quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với việc
"quản lý rừng bền vững". Một định nghĩa về quản lý rừng bền vững đợc tổ
chức quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTO) đa ra nh sau:
Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý đất rừng cố định
để đạt đợc một hoặc nhiều mục tiêu đợc xác định rõ ràng của công
tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục các lâm phẩm và dịch vụ
rừng mà không làm giảm đi đáng kể những giá vốn có và khả năng
sản xuất sau này của rừng và không gây ra những ảnh hởng tiêu
cực thái quá đến môi trờng vật chất xã hội
Theo định nghĩa này thì quản lý rừng bền vững bao gồm việc bảo vệ,
phát triển, khai thác và sử dụng sản phẩm của rừng một cách hợp lý, khai
thác sử dụng để đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhng không làm cạn kiệt nguồn
tài nguyên cho tơng lai. Bảo vệ rừng là để cho rừng tiếp tục phát triển, ngợc
lại phát triển rừng cũng là cách để bảo vệ tài nguyên rừng. Do vậy, chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau không tách rời, quản lý rừng bền vững là một
mục tiêu nằm trong chiến lợc "phát triển bền vững" toàn cầu. Nhng trong
khuôn khổ của luận văn thạc sĩ tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu khía cạnh bảo
vệ rừng và vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.

1.1.2. Quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng
Trớc khi nghiên cứu pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng, đòi hỏi phải làm rõ khái niệm "quản lý" và "QLNN". Quản lý là một
hiện tợng xã hội, xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài ngời, đợc các nhà t tởng,
các nhà triết học và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau tìm
hiểu, nghiên cứu. Có ngời cho quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm bảo
đảm sự hoàn thành công việc qua nỗ lực của ngời khác. Có tác giả cho quản
lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của các cộng sự khác cùng
chung một tổ chức. Cũng có tác giả lại cho rằng quản lý là hoạt động thiết
yếu bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt đợc các mục đích của
nhóm.
Tác giả thống nhất với quan điểm đã đợc nhiều ngời công nhận do các
nhà khoa học về điều khiển học đa ra: Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ
4
thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tơng ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của ng-
ời quản lý nhằm đạt đợc những mục đích đã định trớc.
Đây có thể coi là một khái niệm chung về quản lý, vì khái niệm này
thích hợp với tất cả các trờng hợp từ sự vận động của một cơ thể sống, một
vật cơ giới, một thiết bị tự động hóa đến hoạt động của một tổ chức xã hội,
một đơn vị kinh tế hay cơ quan nhà nớc.
Trong hoạt động quản lý thì chủ thể quản lý là con ngời hay tổ chức
con ngời. Chủ thể quản lý phải là đại diện có uy tín, có quyền hạn và trách
nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân hớng tới
mục tiêu chung nhằm đạt đợc kết quả nhấn định trong quản lý. Còn khách
thể trong quản lý là trật tự - trật tự này đợc quy định bởi nhiều loại quy phạm
khác nhau nh: quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị, quy phạm tôn giáo,
quy phạm pháp luật.
Vậy khái quát lại: Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tợng quản lý nhằm đạt đợc mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi

trờng.
QLNN là một dạng của quản lý xã hội, đây là một quá trình phức tạp,
đa dạng nên trong nghiên cứu lý luận cũng nh thực tiễn, QLNN đợc hiểu
theo hai cấp độ: QLNN theo nghĩa rộng là đề cập đến chức năng của cả bộ
máy nhà nớc (từ hoạt động lập hiến, lập pháp, hoạt động hành pháp đến hoạt
động t pháp); còn tiếp cận theo nghĩa hẹp chỉ là hoạt động chấp hành, điều
hành của cơ quan QLNN. Hoạt động này chủ yếu giao cho hệ thống cơ quan
hành chính thực hiện. Đó là các chủ thể quản lý.
QLNN không phải là sự quản lý đối với nhà nớc, mà là sự quản lý có
tính chất nhà nớc, của nhà nớc đối với xã hội. QLNN đợc thực hiện bởi
quyền lực nhà nớc. Quyền lực đó đợc ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và
bảo đảm thực hiện bằng sự cỡng chế nhà nớc. Theo nghĩa hẹp, QLNN có
những đặc trng cơ bản sau: QLNN mang tính chất quyền lực nhà nớc, có tính
tổ chức cao và mang tính mệnh lệnh của nhà nớc; QLNN mang tính tổ chức
và điều chỉnh chủ yếu; QLNN mang tính tổ chức và kế hoạch; QLNN mang
tính liên tục.
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng là một lĩnh vực trong QLNN nên nó
có những đặc trng chung vốn có, ngoài ra nó có chủ thể, đối tợng quản lý
5
riêng, có thể khái quát nh sau: QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng là quá trình
các chủ thể QLNN xây dựng chính sách, ban hành pháp luật và sử dụng công
cụ pháp luật trong hoạt động QLNN nhằm đạt đợc yêu cầu, mục đích bảo vệ
rừng nhà nớc đã đặt ra.
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng có những đặc điểm sau:
Một là, rừng - đối tợng quản lý nhà nớc đặc thù.
Rừng là nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo và có tính quyết định
trong việc bảo vệ môi trờng sinh thái toàn cầu. Rừng bao gồm các yếu tố
thực vật, động vật, vi sinh vật, đất rừng, các yếu tố này có quan hệ liên kết
cùng tạo nên hoàn cảnh rừng đặc trng.
Rừng Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đời sống của hàng triệu ngời dân

sống trong rừng và gần rừng. Diện tích rừng Quốc gia đợc chia thành 3 loại
theo chức năng và công dụng của các yếu tố để quản lý gồm: Rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất. Vì vậy, quản lý nhà nớc trong lĩnh vực
bảo vệ rừng phải áp dụng những cơ chế, chính sách, các quy định pháp luật
khác nhau phù hợp với mục đích chủ yếu đối với từng loại rừng. Quản lý nhà
nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng phải tiến hành đồng bộ các công cụ quản lý,
phát huy sức mạnh của cộng đồng để đạt đợc mục tiêu và chơng trình hành
động bảo vệ rừng.
Hai là, đặc trng về chủ thể chịu sự quản lý.
Chủ thể chịu sự quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng là các tổ
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng. Các chủ thể chịu sự
quản lý rất đa dạng, thuộc nhiều thành phần kinh tế và mỗi loại hình chủ thể
có địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó, các chủ rừng là chủ thể chịu sự quản
lý chủ yếu bao gồm: các cộng đồng dân c, hộ gia đình, các nhân, các lâm tr-
ờng, công ty lâm nghiệp, Ban quản lý các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
trong nớc, các tổ chức, cá nhân nớc ngoài đợc nhà nớc giao, cho thuê rừng là
chủ thể chịu sự quản lý của nhà nớc trực tiếp và chủ yếu nhất.
Mỗi loại chủ thể nói trên có những đặc trng riêng nên quản lý nhà nớc
trong lĩnh vực bảo vệ rừng: Một mặt Nhà nớc phải chú trọng nghiên cứu, áp
dụng các biện pháp quản lý phù hợp với những đối tợng chủ thể cụ thể.
Trong quá trình tổ chức, xây dựng và thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng phải tôn trọng và phát huy giá trị tích cực của các
phong tục tạp quán, luật tục, hơng ớc truyền thống. Mặt khác, phải coi trọng
và tăng cờng biện pháp giáo dục, thuyết phục và giải thích pháp luật, chế độ,
6
chính sách của Đảng, Nhà nớc. Đồng thời, kết hợp bảo vệ rừng với phát triển
kinh tế văn hoá nông thôn miền núi [60, tr.20].
Ba là, khách thể của quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng là trật
tự quản lý nhà nớc về bảo vệ rừng. Trật tự này đợc quy định trớc hết và chủ
yếu trong các quy định của pháp luật về BV&PTR nhằm đạt đợc mục đích

quản lý bảo vệ rừng của nhà nớc.
Bốn là, nội dung quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng là hoạt động đa dạng và
phức tạp. Để điều khiển, chỉ đạo các hành vi xã hội trong lĩnh vực này phải
đặt trong mối quan hệ biện chứng với cac lĩnh vực khác nhằm huy động sức
mạnh vật chất của cộng đồng để đạt đợc mục đích bảo vệ rừng của nhà nớc
trong quản lý nhà nớc trong thời kỳ nhất định, quản lý nhà nớc trong lĩnh vực
bảo vệ rừng có những nội dung cụ thể sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về bảo vệ rừng;
- Tổ chức điều tra, xác định ranh giới các loại rừng trên bản đồ và trên
thực địa;
- Thống kê, kiểm kê rừng theo định kỳ, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng;
- Giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng
rừng, tổ chức đăng ký sở hữu, quyền sử dụng rừng.
- Tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ hệ sinh thái rừng, bảo vệ thực
vật rừng, động vật rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật hại
rừng và kinh doanh, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất,
tạm xuất tái nhập, quá cảnh thực vật rừng, động vật rừng.
- Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ bảo vệ rừngtiên tiến,
đào tạo nguồn nhân lực cho bảo vệ rừng; hỗ trợ và bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ rừng.
- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học
và kiểm soát buôn bán quốc tế các loài động thực vật rừng.
- Bảo đảm các điều kiện vật chất và các cân đối khác cho hoạt động
quản lý nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật trong quản lý nhà n-
ớc đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
7
1.2.1. Khái niệm

Theo học thuyết Mác - Lênin về nhà nớc và pháp luật, pháp luật là một
hiện tợng lịch sử vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội, chỉ phát sinh,
tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, do nhà nớc ban hành và bảo
đảm thực hiện, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nớc, nhằm duy trì địa
vị và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị.
Cũng giống nh bất kỳ một kiểu pháp luật nào trong lịch sử, pháp luật
XHCN cũng có chức năng tổ chức, điều chỉnh nhằm thiết lập, duy trì trật tự
xã hội và chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội, giải quyết các tranh chấp và
xung đột xã hội, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật, nó bao
gồm toàn bộ những hoạt động của cơ quan QLBVR, ngời đại diện cho cơ
quan QLBVR, những đối tợng tham gia vào quan hệ bảo vệ rừng: Bộ
NN&PTNT, Sở NN&PTNT, Cục Kiểm lâm, Hạt Kiểm lâm, Hạt Phúc kiểm
lâm sản, những ngời tham gia QLBVR. Giữa các đối tợng này có rất nhiều
mối quan hệ, nh quan hệ giữa cơ quan QLBVR cấp trên và cấp dới, giữa cán
bộ kiểm lâm với ngời tham gia bảo vệ rừng, giữa ngời đại diện của cơ quan
QLBVR với những ngời có hành vi vi phạm pháp luật. Theo Điều 2 của Nghị
định số 23/2006/NĐ - CP quy định nh sau:
Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nớc, tổ chức; cộng đồng
dân c thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, hoặc đơn vị tơng đơng (sau đây
gọi tắt là cộng đồng dân c thôn) hộ gia đình, cá nhân trong nớc, ngời Việt
Nam định c ở nớc ngoài, tổ chức, cá nhân nớc ngoài có liên quan đến việc
bảo vệ rừng tại Việt Nam.
Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải quy định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các chủ thể trong công tác bảo vệ rừng.
Để thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ rừng đòi hỏi nhà nớc phải
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định cụ thể những vấn
đề: cơ cấu tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ rừng; công tác thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong bảo vệ rừng
Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật bảo vệ rừng

nh sau: Pháp luật bảo vệ rừng là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa các cơ quan QLNN, các tổ chức, cá nhân và những ngời có liên
8
quan trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ rừng và bảo đảm thực hiện
bằng cỡng chế nhà nớc.
1.2.2. Đặc điểm
Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam
nên nó mang những đặc trng chung của pháp luật XHCN. Trớc hết, pháp luật
bảo vệ rừng có tính quy phạm, nó chứa đựng những quy tắc xử sự của con
ngời, là khuôn mẫu đợc mọi ngời làm theo, là tiêu chuẩn để đánh giá tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong công tác bảo vệ rừng; các quy tắc xử sự
trong bảo vệ rừng do các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận
hoặc phê chuẩn nên có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, thể chế hóa đờng lối, chủ trơng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, là công cụ quản lý hành chính nhà nớc trong lĩnh vực bảo vệ rừng;
các quy phạm pháp luật trong bảo vệ rừng do cơ quan QLNN ban hành có
tính thống nhất nội tại cao và có mối quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã
hội khác.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật bảo vệ
rừng cũng có đặc trng riêng đợc thể hiện cụ thể nh sau:
Thứ nhất, pháp luật trong QLNN về lĩnh vực bảo vệ rừng do các cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành, trong đó chủ yếu là các cơ quan
QLNN về bảo vệ rừng ban hành.
Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói
chung nên các quy phạm pháp luật này ban hành để điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong quản lý nhà nớc về lĩnh vực bảo vệ rừng. Các quy
phạm pháp luật này do các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành nh
Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ quốc hội: Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật
Đất đai, Luật Bảo vệ môi trờng, Luật hình sự do Quốc hội ban hành; Nhng

các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực bảo vệ rừng khác chủ yếu do các
cơ quan quản lý nhà nớc ban hành nh Chính phủ, UBND các cấp, Bộ
NN$PTNT để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực này.
Thứ hai, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
- Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang
9
quyền và nghĩa vụ nhất định với một bên có nhiệm vụ phục tùng theo quy
định của pháp luật hành chính.
Từ khái niệm đó, chúng ta có thể hiểu chủ thể của quan hệ pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân đợc Nhà nớc giao
quyền nhân danh nhà nớc tham gia vào quan hệ QLNN đối với lĩnh vực bảo
vệ rừng với các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ bảo vệ rừng và những đối
tợng vi phạm pháp luật QLBVR. Chủ thể quan hệ pháp luật trong QLNN đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng cụ thể là: Một bên là các cơ quan quản lý hành
chính nhà nớc thẩm quyền chung các cấp và các cơ quan QLNN có thẩm
quyền chung môn các cấp; cá nhân đợc Nhà nớc trao quyền quản lý về bảo
vệ rừng theo quy định của pháp luật, một bên là những đối tợng tham gia bảo
vệ rừng hoặc những ngời có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng. Theo quy
định hiện hành của pháp luật nớc ta hiện nay, các chủ thể này là: Chính phủ,
UBND các cấp, Bộ NN&PTNT, các bộ ngành có liên quan; hệ thống cơ quan
quản lý chuyên ngành tại địa phơng, hệ thống cơ quan kiểm lâm; công chức
của cơ quan này đợc giao nhiệm vụ thi hành công vụ trong QLNN đối với
lĩnh vực bảo vệ rừng và các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, buôn làng, bản,
ấp tham gia bảo vệ rừng và những ngời có hành vi vi phạm pháp luật bảo
vệ rừng.
- Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính là các lợi ích trực tiếp
thúc đẩy các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật
hành chính. Chúng có thể là lợi ích của Nhà nớc hay quyền và lợi ích chính

đáng của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, các lợi ích đó chỉ đợc bảo đảm nếu
chúng phù hợp với các trật tự quản lý hành chính nhà nớc.
Khách thể quan hệ pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng
là trật tự QLNN về bảo vệ rừng. Trật tự này đợc quy định trớc hết và chủ yếu
trong các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, ngoài ra nằm
rải rác trong một số văn bản pháp luật khác nh Luật bảo vệ môi trờng, Luật
Bảo vệ tài nguyên, Luật Đất đai nhằm đạt đợc mục đích QLBVR của Nhà
nớc.
- Pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng quy định địa vị
pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật bảo vệ rừng.
10
Thứ ba, pháp luật bảo vệ rừng là công cụ quản lý hành chính nhà nớc
trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nớc biểu
hiện sức mạnh QLNN bằng khả năng can thiệp trực tiếp của Nhà nớc thông
qua công cụ kế hoạch tập trung mà bỏ quên các công cụ quản lý khác, còn
trong thời kỳ đổi mới nhà nớc mở rộng quyền tự do kinh doanh cho các
doanh nghiệp.
Trong đó, mất rừng gây nên diễn thể suy thoái các kiểu thảm thực vật
rừng, các loài chim thú rừng mất nơi c trú, số lợng quần thể suy giảm nghiêm
trọng, các loài cây có giá trị dới tán rừng cũng mất theo, ảnh hởng sâu sắc tới
các điều kiện sinh thái và cảnh quan của nhiều vùng rộng lớn, đặc biệt là tại
các cửa sông, ven biển, các hệ sinh thái rừng ngập mặn
Mất rừng, các vùng canh tác ven biển sẽ thờng xuyên phải gánh chịu
nạn cát bay; thủy triều sẽ làm xói lở các vùng đất ven biển; ma và gió sẽ làm
xói mòn đất mặt Những năm gần đây những trận lũ lịch sử diễn ra ở các
vùng Tây Bắc, vùng ven biển miền Trung và bão lớn ở Nam Bộ gây tác hại
lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân các địa phơng này là những minh
chứng của lịch sử về hậu quả tai hại của sự mất rừng.
Mất rừng còn kéo theo những mất mát vô giá mà hiện nay không thấy

hết đợc. Đó là các hệ sinh thái tối u và các nguồn gen mà thiên nhiên đã
hoàn thành qua hàng chục triệu năm phát triển và tiến hóa.
Với vai trò và tác dụng to lớn của rừng đối với môi trờng sống nói
chung và sự tồn vong của loài ngời nói riêng cho thấy việc bảo vệ rừng cần
thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi Nhà nớc phải sử dụng đồng bộ các công cụ kế
hoạch, chính sách, pháp luật và các công cụ quản lý khác. Trong hệ thống
các công cụ và biện pháp nhà nớc sử dụng để quản lý hành chính nhà nớc
trong lĩnh vực bảo vệ rừng thì pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất và không
thể thiếu đợc ở bất kỳ quốc gia nào.
1.2.3. Nội dung
Pháp luật bảo vệ rừng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
bảo vệ rừng, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để mở rộng dân chủ, bảo đảm cho cá
nhân, tổ chức, cơ quan nhà nớc cùng tham gia vào công tác bảo vệ rừng; đồng
11
thời bảo vệ đợc quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối với tài nguyên rừng.
Chính vì mục đích đó pháp luật bảo vệ rừng có những nội dung cơ bản sau:
Một là, pháp luật bảo vệ rừng quy định một hệ thống chính sách trong
quản lý đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, biểu hiện cụ thể nh sau:
- Nhà nớc có chính sách đầu t cho việc bảo vệ rừng gắn liền, đồng bộ
với các chính sách kinh tế - xã hội khác, u tiên đầu t xây dựng cơ bản cơ sở
hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, định canh, định c ổ định và cải thiện đời
sống nhân dân miền núi.
- Nhà nớc đầu t cho các hoạt động bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng
hộ, rừng giống Quốc gia; bảo vệ các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy
cấp, quý hiếm; nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển
công nghệ và nguồn đào tạo nhân lực cho việc bảo vệ rừng; xây dựng hệ
thống quản lý rừng hiện đại, thống kê rừng, kiểm kê rừng và theo dõi diễn
biến tài nguyên rừng; xây dựng lực lợng phòng cháy rừng chuyên ngành; đầu
t cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị phơng tiện phục vụ chũa cháy rừng,
phòng trừ sinh vật gây hại rừng.

- Nhà nớc có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ rừng sản xuất là rừng tự
nhiên nghèo.
Muốn bảo đảm chính sách trên, đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý
vững chắc để thiết lập lâm phận quốc gia ổn định, thông qua: Đẩy mạnh rà
soát, xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm về quản lý, bảo vệ phát
triển và sử dụng rừng; luật tục và phong tục, tập quán của các địa phơng và
các dân tộc ít ngời cần đợc xem xét, kết hợp với pháp luật nhà nớc để xây
dựng các quy ớc bảo vệ rừng.
Hai là, pháp luật bảo vệ rừng quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa
vụ của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Ba là, pháp luật bảo vệ rừng quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
Các quyền và nghĩa vụ của chủ rừng đợc Luật BV&PTR quy định từ
Điều 59 đến Điều 78 và còn nằm rải rác ở một số văn bản pháp luật khác,
nhng nó dợc biểu hiện cụ thể nhng sau:
Quyền chung của chủ rừng:
- Đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng,
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
12
- Đợc sử dụng rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng,
cho thuê rừng và thời hạn gioa đất, cho thuê đất.
- Đợc sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ng nghiệp kết hợp với quy
chế quản lý rừng, trừ rừng đặc dụng.
- Đợc hởng thành quản lao động, kết quản đầu t trên diện tích đợc
giao, cho thuê; bán thành quả lao động, kết quả đầu t cho ngời khác.
- Đợc kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dỡng,
du lịch sinh thái - môi trờng theo dự án đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền
phê duyệt.
- Đợc bồi thờng thành quả lao động, kết quả đầu t để bảo vệ rừng theo
quy định của Luật BV&PTR và các quy định khác của pháp luật có liên quan
khi nhà nớc có quyết định thu hồi rừng.

- Đợc hớng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nớc
để bảo vệ rừng và đợc hởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ, cải
tạo rừng mang lại.
- Đợc Nhà nớc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối vói rừng đợc
giao, cho thuê.
Nghĩa vụ chung của chủ rừng:
- Bảo toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững; sử dụng rừng đúng
mục đích, đúng ranh giới đã quy định trong quyết định giao, cho thuê rừng
và theo quy chế quản lý rừng.
- Tổ chức bảo vệ rừng theo quy hoạch, kế hoạch, dự án, phơng án đã
đợc phê duyệt.
- Định kỳ báo cáo cơ quan nhà nớc có thẩm quyền về diễn biến tài
nguyên rừng và các hoạt động liên quan đến khu rừng cảu các cơ quan có
trách nhiệm thống kê, kiểm kê theo dõi diễn biến tài nguyên rừng.
- Giao lại rừng khi nhà nớc có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết
thời hạn sử dụng rừng.
- Thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật.
- Thực hiện quy định của Luật BV&PTR và các quy định khác của pháp
luật; không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
13
Bốn là, pháp luật bảo vệ rừng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.
2. Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà n-
ớc đối với lĩnh vực bảo vệ rừng
Thực tiễn sản xuất và đời sống đòi hỏi phải có các chuẩn mực trong
mọi hành vi ứng xử, giao tiếp cho mọi thành viên trong xã hội tuân theo.
Những văn bản quy định những quy tắc xử sự chung đó đợc gọi là văn bản
pháp luật, đợc nhà nớc tạo mọi điều kiện bảo đảm việc thực hiện. Các văn
bản quy phạm pháp luật về bảo vệ rừng cũng chính là những quy tắc xử sự

chung nằm trong khuôn khổ của hệ thống văn bản pháp luật của một quốc
gia. Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật bảo vệ
rừng có các vai trò của pháp luật nói chung, và cũng có những vai trò riêng,
đó là pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý cho
việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nuớc đối với lĩnh
vức bảo vệ rừng; là cơ sở pháp lý cho việc quy định cơ cấu hoạt động của cơ
quan QLNN về bảo vệ rừng; là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng; là cơ sở pháp lý
cho xã hội hóa công tác bảo vệ rừng.
Một là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở pháp
lý quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Để tồn tại và phát triển con ngời buộc phải liên kết với nhau thành
những cộng đồng có tổ chức. Có thể nói, cộng đồng là môi trờng tồn tại của
mỗi cá nhân trong xã hội. Tính cộng đồng của đời sống loài ngơì xuất hiện
nhu cầu phải phối hợp, quy tụ hoạt động của những cá nhân riêng rẽ theo
những hớng nhất định, để đạt đợc mục đích nào đó, nghĩa là nhu cầu điều
chỉnh những mối liên hệ giữa con ngời với con ngời. C. Mác đã nhấn mạnh:
Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô
tơng đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều những hoạt
động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập
của nó [45, tr. 480]. Vì vậy, tổ chức quản lý là yếu tố cần thiết tất yếu của
đời sống cộng đồng xã hội. Khi xã hội phát triển tính chất xã hội hoá các
hoạt động xã hội ngày càng cao thì yếu tố tổ chức quản lý càng cần đợc đề
cao và nâng lên thành luật trên từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
14
Lĩnh vực QLBVR cũng không nằm ngoài quy luật đó, pháp luật trong
QLBVR có một vai trò quan trọng trong việc quy định cơ cấu tổ chức của cơ
quan QLNN đối với lĩnh vực bảo về rừng. Hệ thống cơ quan QLBVR nằm
trong hệ thống cơ quan QLNN nói chung và đợc tổ chức thống nhất từ trung

ơng tới địa phơng; với hệ thống cơ quan QLNN có thẩm quyền chung và cơ
quan QLNN có thẩm quyền chuyên môn.
Hệ thống cơ quan QLNN có thẩm quyền chung trong lĩnh vực bảo vệ
rừng bao gồm Chính phủ và UBND các cấp. Chính phủ là cơ quan đứng đầu
của hệ thống cơ quan hành pháp, thống nhất quản lý thực hiện nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà
nớc. Chính phủ có toàn quyền giải quyết, quyết định những vấn đề liên quan
tới hoạt động QLNN trên phạm vi toàn quốc trong quyền hạn của mình,
trong đó có lĩnh vực bảo vệ rừng; UBND là cơ quan có thẩm quyền chung,
thông qua hoạt động chấp hành - điều hành của mình thực hiện chức năng
QLNN trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, hành chính - chính trị trong
phạm vi địa phơng, là cơ quan giúp việc chính phủ trong việc QLNN đối với
lĩnh vực bảo vệ rừng.
Hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ rừng
bao gồm: Bộ NN&PTNT, sở NN&PTNT, cục kiểm lâm.
Bộ NN&PTNT là cơ quan chỉ đạo chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ
rừng, là cơ quan chịu trách nhiệm trớc chính phủ trong hoạt động QLBVR,
đứng đầu là Bộ trởng Bộ NN&PTNT. ở địa phơng có các Sở NN&PTNT, có
các giám đốc và phó giám đốc sở là ngời giúp việc cho Bộ trởng Bộ
NN&PTNT trong lĩnh vực bảo vệ rừng; bên cạnh đó có một hệ thống chuyên
trách phụ trách việc QLBVR, đó là lực lợng kiểm lâm, đợc coi là lực lợng
nòng cốt giúp Bộ trởng Bộ NN&PTNT quản lý và bảo vệ rừng, cơ cấu tổ
chức đợc thể hiện nh sau:
ở Trung ơng: Cục Kiểm lâm trực thuộc Bộ NN&PTNT.
ở cấp tỉnh nơi có rừng: Chi cục Kiểm lâm trực thuộc UBND tỉnh.
ở cấp huyện: Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm.
ở các đầu mối giao thông quan trọng: Hạt Phúc Kiểm lâm sản trực
thuộc Chi cục Kiểm lâm.
Nh vậy, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng có một vai
trò quan trọng trong việc quy định cơ cấu tổ chức của ngành Kiểm lâm, lực l-

ợng này đợc tổ chức thành hệ thống, đặt dới sự lãnh đạo toàn diện của Bộ tr-
15
ởng Bộ NN&PTNT và sự chỉ đạo, kiểm tra của UBND các cấp. Cơ quan
Kiểm lâm là một hình thức cơ quan nhà nớc đặc thù, vừa có tính chất của cơ
quan hành chính nhà nớc vừa có những hoạt động t pháp.
Từ khi hệ thống Kiểm lâm đợc thành lập đến nay, quy định của pháp
luật đã có nhiều điều chỉnh về cơ cấu tổ chức đối với hệ thống này. Từ năm
1973 đến năm 1979, hệ thống Kiểm lâm đợc tổ chức theo hệ thống ngành
dọc thống nhất: Cục Kiểm lâm Trung ơng, Chi cục Kiểm lâm các Tỉnh, Hạt
kiểm lâm cấp huyện đặt dới sự lãnh đạo thống nhất của Bộ Lâm nghiệp và
chịu sự điều hành, giám sát của cơ quan quản lý hành chính nhà nớc (Uỷ ban
hành chính các cấp). Từ năm 1980 đến năm 1994 ở Địa phơng hệ thống
Kiểm lâm chuyển giao từ trực thuộc UBND sang trực thuộc cơ quan QLNN
chuyên ngành (Sở, Ty, Ban Lâm nghiệp các cấp). Từ năm 1994 đến 2005,
tiếp tục sự điều chỉnh: ở Trung ơng, Cục Kiểm lâm trực thuộc Bộ NN&PTNT; ở
cấp Tỉnh Chi cục Kiểm lâm trực thuộc UBND cấp tỉnh; ở cấp Huyện Hạt Kiểm
lâm trực thuộc Chi cục kiểm lâm; ở đầu mối giao thông vận chuyển lâm sản lớn
có Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm. Ngoài ra, ở các khu rừng đặc
dụng và khu rừng phòng hộ có diện tích lớn cũng có Hạt Kiểm lâm trực
thuộc Giám đốc vờn quốc gia hoặc Trởng Ban quản lý khu rừng đặc dụng.
Luật BV&PTR ra đời đã hơn 20 năm qua, công tác tổ chức bảo vệ
rừng đã đạt đợc những thành tựu đáng kể, khắc phục đợc một số tồn tại, yếu
kém. Nhng cơ cấu tổ chức của cơ quan QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng
trong những năm qua cha thống nhất và không ổn định, đặc biệt là lực lợng
kiểm lâm nên hiệu lực quản lý bị hạn chế, việc tách ra nhập vào, thậm chí có
nơi bị giải thể làm cho khả năng hành động và hiệu quả QLNN trong lĩnh
vực bảo vệ rừng bị giảm sút, coi nhẹ. Tài nguyên rừng vẫn tiếp tục giảm sút
về diện tích và chất lợng, tình hình thiên tai, lũ lụt đã gây hậu quả không nhỏ
ảnh hởng đến đời sống nhân dân, đây thực sự là mối quan tâm của toàn xã
hội. Chính vì vậy pháp luật trong qủan lý nhà nớc đối với lĩnh vực bảo vệ

rừng có một vai trò quan trọng tạo hành lang pháp lý cho việc quy định cơ
cấu tổ chức của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng để đảm bảo
sự phân công, phối hợp việc thực hiện quyền lực nhà nớc trong QLBVR, tạo
địa vị pháp lý độc lập cho các cơ quan quản lý tiến hành hoạt động bảo vệ
rừng khách quan, hiệu quả.
16
Hai là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở
pháp lý quy định hoạt động của cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Cơ quan hành chính nhà nớc là một bộ phận của bộ máy nhà nớc do
Nhà nớc thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nớc thông
qua hoạt động chấp hành, điều hành. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan hành chính nhà nớc do Hiến pháp, luật, pháp lệnh và nhiều văn bản dới
luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành
chính nhà nớc do vị trí, tính chất của nó trong hệ thống các cơ quan quyết
định. Quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nớc là phơng tiện pháp lý
cần thiết mà nhà nớc quy định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ đợc giao.
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nớc là bộ phận cấu thành của bộ máy
nhà nớc, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nớc một cách trực tiếp hay gián
tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành -
điều hành và tham gia vào các chức năng quản lý nhân danh quyền lực nhà
nớc [32, tr.179].
Cơ quan hành chính nhà nớc có hệ thống thống nhất từ Trung ơng đến
địa phơng.
Theo sự phân tích và trên cơ sở pháp luật quy định, tác giả trình bày
khái quát về hệ thống hoạt động của cơ quan QLNN (cơ quan hành chính)
trong lĩnh vực bảo vệ rừng theo cấp độ quản lý từ Trung ơng đến địa phơng ở
Việt Nam hiện nay.
Cơ quan QLNN có thẩm quyền chung bao gồm Chính phủ và UBND
các cấp.
Theo Điều 109 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định:

"Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nớc
cao nhất của nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [32, tr.182].
Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp, thống
nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nớc; đảm bảo hiệu lực của bộ máy
nhà nớc từ Trung ơng đến địa phơng, đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp
luật; đảm bảo việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và ổn định, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nh vậy, Chính phủ có toàn quyền
giải quyết, quyết định các vấn đề liên quan tới hoạt động QLNN trên phạm vi
toàn quốc trong phạm vi quyền hạn của mình. Quyền hạn và nghĩa vụ của
17
Chính phủ đợc quy định trong Điều 115 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001).
Trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, Chính phủ thống nhất
QLNN trong phạm vi toàn quốc thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
- Phê duyệt quy hoạch bảo vệ rừng trên phạm vi toàn quốc.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (nghị định, nghị quyết của
Chính phủ; chỉ thị; quyết định của Thủ tớng Chính phủ để hớng dẫn Luật
BV&PTR).
- Các quy định của Nhà nớc về bảo vệ rừng và phân cấp QLNN về bảo
vệ rừng cho toàn bộ hệ thống các cơ quan QLNN có liên quan;
- Quyết định xác lập, giao, thu hồi rừng, đất trồng rừng đối với các
khu rừng phòng hộ, đặc dụng có một tầm quan trọng quốc gia, các khu sản
xuất quan trọng trong trờng hợp cần thiết; chỉ đạo và điều hành hoạt động
bảo vệ rừng trong phạm vi toàn quốc.
ủy ban nhân dân:
Theo Điều 123 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định
"UBND do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nớc ở địa phơng, chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nớc cấp trên và Nghị

quyết của Hội đồng nhân dân" [32, tr.185].
UBND là cơ quan có thẩm quyền chung, thông qua hoạt động chấp
hành - điều hành của mình UBND thực hiện chức năng QLNN trên mọi lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội và hành chính - chính trị trong phạm vi lãnh thổ
nhất định. UBND là cơ quan hành chính nhà nớc ở địa phơng nên phải chịu
trách nhiệm tổ chức quản lý hành chính nhà nớc ở địa phơng; đảm bảo bộ
máy hành chính đó hoạt động thông suốt. Nghĩa vụ và quyền hạn của UBND
đợc quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và Luật tổ chức
HĐND và UBND.
Từ đó, pháp luật bảo vệ rừng có vai trò quy định chi tiết và cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND trong lĩnh vực bảo vệ rừng. UBND có
trách nhiệm trớc Chính phủ hoặc UBND cấp trên trực tiếp về bảo vệ rừng ở
địa phơng. Theo Điều 38 Luật BV&PTR (sửa đổi, bổ sung 2004) và Quyết
định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tớng Chính phủ chức
18
năng QLNN về các cấp về rừng và đất lâm nghiệp thì UBND các cấp có chức
năng, nhiệm vụ QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng nh sau:
- Lập quy hoạch và kế hoạch bảo vệ rừng trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp thông qua trớc khi trình Chính phủ và UBND cấp trên trực tiếp;
- Tổ chức phòng cháy, chữa cháy và phòng trừ sâu bệnh hại rừng ở địa
phơng, tổ chức việc điều tra, phân loại rừng, thống kê diện tích và trữ lợng
của từng loại rừng, lập bản đồ rừng và đất trồng rừng trên địa bàn tỉnh, theo
dõi diễn biến tài nguyên rừng và công tác bảo vệ rừng.
- Giao, cho thuê, thu hồi đất lâm nghiệp, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật (trừ UBND xã).
- Tổ chức quản lý bảo vệ các khu rừng phòng hộ và khu rừng đặc dụng
trên địa bàn.
- Tổ chức mạng lới bảo vệ rừng, huy động các lực lợng phối hợp với lực
lợng kiểm lâm ngăn chặn mọi hành vi hủy hoại rừng trong phạm vi toàn tỉnh;
- Ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền hớng dẫn hoặc cụ thể hóa

các quy định của pháp luật, chính sách, chế độ, thể lệ của Nhà nớc về bảo vệ
rừng phù hợp với yêu cầu quản lý tại địa phơng.
- Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ rừng trên địa bàn;
- Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ rừng theo quan điểm
của pháp luật.
- Chỉ đạo, tổ chức công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về bảo vệ rừng.
- Chỉ đạo các thôn, bản và đơn vị tơng đơng xây dựng và thực hiện quy
ớc bảo vệ rừng trên địa bàn phù hợp với quy định của pháp luật;
- Giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng rừng, đất trồng rừng theo
quy định của pháp luật.
Các cơ quan QLNN chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Bộ NN&PTNT là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn ở Trung ơng, là
cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn.
Bộ NN&PTNT giúp Chính phủ thực hiện QLNN về rừng và đất rừng
trên phạm vi cả nớc trên cơ sở pháp luật hiện hành, theo quy định tại Điều 3
19
Nghị định 23/2006/NĐ-CP thì Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm trớc Chính
phủ thực hiện thống nhất QLNN về bảo vệ rừng trong phạm vi cả nớc. Hoạt
động QLNN của Bộ NN&PTNT trong những năm qua đã đạt đợc nhiều
thành tựu trên cơ sở quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ
NN&PTNT trong Nghị định 73/CP ngày 01/11/1995. Để đáp ứng với nhu cầu
hội nhập phát triển và xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN, hệ thống pháp
luật luôn luôn phải thay đổi để phù hợp với thực tế cuộc sống. Ngày
18/7/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 86/2003/NĐ-CP quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ NN&PTNT.
Hệ thống cơ quan Kiểm lâm: theo quy định của Luật BV&PTR năm
1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004 tại Điều 79, 80, 81), "Kiểm lâm là lực lợng
chuyên trách" có chức năng QLNN về rừng và bảo vệ rừng, đợc tổ chức

thành hệ thống, đặt dới sự lãnh đạo thống nhất của Bộ NN&PTNT và sự chỉ
đạo, kiểm tra của chính quyền địa phơng, là cơ quan thừa hành pháp luật về
bảo vệ rừng, là cơ quan tham mu cho các cấp chính quyền địa phơng thực
hiện công tác bảo vệ rừng trên lãnh thổ.
Ngày nay, khi đất nớc đã bớc vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và điều đó có ý nghĩa quan trọng nhất là từng bớc thực hiện hiện đại hóa
nông thôn. Đặcbiệt là ở miền núi, giảm dần khoảng cách phát triển giữa
miền núi và đồng bằng, thực hiện xóa đói giảm nghèo ở nông thôn miền núi,
phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Hơn lúc nào hết, công tác bảo vệ rừng vốn đang đứng trớc những thách
thức mới. Trách nhiệm đó không phải của riêng ai, trong Luật BV&PTR quy
định: bảo vệ rừng thuộc về toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mà lực lợng nòng
cốt chuyên trách là lực lợng kiểm lâm.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên của các cơ quan
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng đợc thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, tránh
những quy định chồng chéo, mâu thuẫn thì vai trò của pháp luật trong QLNN
đặc biệt quan trọng. Việc QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng của các cơ quan
nhà nớc rất nhiều vấn đề khác nhau và pháp luật có vai trò trong việc bảo
đảm cho các hoạt động QLBVR có hiệu quả, nội dung quản lý nhà nớcvềđối
vói lĩnh vực bảo vệ rừng đợc quy định trong Điều 7 Luật bảo vệ và phát triển
rừng.
20
Ba là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở
pháp lý cho việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ rừng.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, các yêu cầu của pháp luật thờng đợc
các chủ thể pháp luật: công dân, cán bộ công chức, cơ quan, tổ chức, nhà n-
ớc, xã hội tự giác nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong xã hội vẫn xảy ra nhiều hành vi vi phạm pháp luật. Để

đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật đó thì pháp luật là cơ sở
pháp lý hữu hiệu nhất.
Vi phạm pháp luật đợc hiểu là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện xâm hại các quan hệ xã hội đợc
pháp luật bảo vệ [31, tr. 485]. Các quy phạm hiện hành về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng bao gồm hai mức độ hành chính và hình
sự.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ đợc áp dụng trong tr-
ờng hợp cá nhân, tổ chức trong và ngoài nớc có hành vi cố ý hay vô ý vi
phạm các quy định của nhà nớc về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
trên lãnh thổ nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các hành vi này có
thể đã gây hoặc cha gây thiệt hại cụ thể đối với rừng, lâm sản, môi trờng và
hệ sinh thái rừng mà cha đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật.
Lâm sản ở đây đợc hiểu bao gồm: thực vật rừng, động vật rừng (chim,
thú, lỡng c, bò sát, côn trùng; sau đây gọi là động vật hoang dã) và các sản
phẩm của chúng. Lâm sản gồm lâm sản thông thờng và lâm sản quý hiếm hiếm.
Gỗ: gồm gỗ tròn, gỗ xẻ, gỗ đẽo; có đơn vị tính khối lợng là mét khối (m
3
).
Nghị định số 77/CP ngày 29/1/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nay
đợc thay thế bằng Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/06/2004 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản. Theo tinh thần của Nghị định này thì các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ rừng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: phá
rừng trái phép; khai thác rừng trái phép; phát đốt rừng trái phép; vi phạm quy
định về phòng cháy, chữa cháy rừng; vi phạm quy định về phòng trừ sâu hại
21
rừng; chăn thả trái phép gia súc vào rừng; săn bắt trái phép động vật rừng;

gây thiệt hại đến vùng đất; vận chuyển mua bán trái phép lâm sản, vi phạm
quy định QLNN về chế biến gỗ và lâm sản; vi phạm thủ tục trình kiểm lâm
sản. Hình thức xử phạt chủ yếu là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền tùy thuộc vào
từng loại và mức độ vi phạm.
Pháp luật quy định cho ngành kiểm lâm những quyền hạn lớn, song lại
có những trói buộc trong phạm vi thẩm quyền. Chẳng hạn khi phát hiện thấy
dấu hiệu vi phạm pháp luật về QLBVR, đợc quyền kiểm tra hiện trờng. Nhng
trong nhiều trờng hợp, những tang vật, phơng tiện vi phạm đợc cất giấu trong
nhà ở thì kiểm lâm các cấp lại không đợc thẩm quyền ra lệnh khám nơi cất
giấu mà chỉ có Cục trởng Cục cảnh sát kinh tế, trởng phòng cảnh sát kinh tế,
trởng phòng cảnh sát hình sự cấp tỉnh, trởng công an cấp huyện, đội trởng
đội quản lý thị trờng.
Theo quy định của Điều 22 của Nghị định 139/2004/NĐ-CP Nghị định
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản quy định thẩm quyền phạt hành chính của
nhân viên kiểm lâm đang thi hành nhiệm vụ có quyền phạt cảnh cáo, phạt
tiền đến 100.000đ, báo cáo lên thủ trởng trực tiếp xử lý; trạm trởng trạm
kiểm lâm, trạm phúc kiểm lâm sản có quyền phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 2.000.000đ, tịch thu tang vật, phơng tiện sử dụng để vi phạm hành chính
có giá trị đến 10.000.000đ; Hạt trởng Hạt kiểm lâm, Hạt phúc kiểm lâm sản,
Hạt kiểm lâm vờn quốc gia, Hạt kiểm lâm khu bảo tồn thiên nhiên, Đội trởng
Đội kiểm lâm cơ động, có quyền phạt cảnh cáo hay phạt tiền đến 10.000.000
đồng, tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng vi phạm hành chính có giá trị
đến 20.000.000 đ, buộc khắc phục hu quả; Chi cục trởng Chi cục kiểm lâm
có quyền phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 20.000.000đ, tớc quyền sử dụng
giấy phép quy định (tớc quyền sử dụng giấy phép khai thác lâm sản, giấy
phép sử dụng súng săn, giấy phép lái xe, giấy phép vận chuyển đặc biệt, giấy
phép vận chuyển động vật hoang dã thông thờng, giấy phép hành nghề kinh
doanh nhà hàng, khách sạn), tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng vi
phạm hành chính, buộc khắc phục hậu quả; Cục trởng cục kiểm lâm có

quyền phạt cảnh cáo hay phạt tiền đến 30.000.000đ, tớc quyền sử dụng giấy
phép (giống Chi cục trởng Chi cục kiểm lâm), tịch thu tang vật, phơng tiện đ-
ợc sử dụng vi phạm hành chính, buộc khắc phục hậu quả [18, tr.20].
22
UBND xã có quyền phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 500.000đồng.
UBND huyện có quyền phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ
20.000.000đồng.
UBND cấp tỉnh có quyền phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 30.000.000đồng
[18, tr.21].
Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng trong vi phạm hành chính,
buộc khắc phục hậu quả.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng nh cảnh sát nhân dân, hải quan,
thuế, quản lý thị trờng, thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ với cơ quan kiểm lâm trong việc kiểm tra, thanh tra, ngăn chặn các vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm
sản; khi phát hiện hành vi vi phạm thì lập biên bản, chuyển giao hồ sơ, tang
vật cho cơ quan kiểm lâm xử lý theo quy định của pháp luật.
Kiểm lâm tiếp thu hồ sơ xử lý chịu trách nhiệm thanh toán những chi
phí hợp lý trong quá trình bắt giữ, bảo quản tang vật cho cơ quan chuyển
giao hồ sơ.
Trờng hợp một ngời cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính thuộc lĩnh vực xử lý của các ngành khác thì chuyển toàn bộ hồ sơ
vụ vi phạm đến UBND cấp có thẩm quyền ở xảy ra vi phạm xử lý.
Truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ rừng đợc áp dụng
đối với các chủ thể có năng lực, trách nhiệm hình sự đã mắc lỗi cố ý hoặc vô
ý vi phạm các quy định của Nhà nớc về quản lý, bảo vệ rừng trên lãnh thổ n-
ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà vợt quá mức xử phạt vi phạm
hành chính.
Bộ luật hình sự năm 1985 sau một thời gian tồn tại đã có những đóng
góp quan trọng trong việc bình ổn các quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ rừng,

góp phần quan trọng vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ đợc
tài nguyên, nâng cao thêm một bớc về ý thức trong quần chúng nhân dân đối
với bảo vệ tài nguyên, môi trờng, ý thức tuân thủ pháp luật. Đó là một thực
tiễn không thể phủ nhận trong suốt 15 năm qua.
Tuy nhiên trong điều kiện đất nớc đang chuyển mình với nhiều biến
động mới về kinh tế - xã hội thì Bộ luật hình sự năm 1985 đã bộc lộ những
23
hạn chế cần phải sửa đổi ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6
thông qua chuyên đề về Bộ luật hình sự mới và hiệu lực vào ngày 1/7/2000.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tội "vi phạm các quy định về quản lý
và bảo vệ rừng" đợc quy định tại Điều 181 nay đợc chuyển thành điều 175 và
176 trong Bộ luật hình sự 1999, Điều 175 tội "vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng", Điều 176 tội "vi phạm các quy định về quản lý rừng".
Việc tách Điều 181 là hết sức cần thiết. Nó quy định rõ ràng hơn tránh trờng
hợp hiểu thế nào cũng đợc, xử thế nào cũng đợc. Điều đó, chứng tỏ pháp luật
ngày càng đi vào chính sách, dễ nắm bắt, dễ vận dụng hơn. Do vậy, việc đấu
tranh phòng chống tội phạm sẽ đợc nâng cao một bớc đặc biệt trong lĩnh vực
bảo vệ rừng hiện nay. Tại Điều 189 quy định tội "hủy hoại rừng", tại Điều
190 quy định về tội "vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý
hiếm", tại Điều 191 quy định về tội "vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với
khu bảo tồn thiên nhiên". Có thể nhận thấy rằng về hình thức, việc phân định
các tội danh trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở trong Bộ luật hình sự năm 1999 đã
bao quát hơn phạm vi các đối tợng liên quan đến rừng cần đợc pháp luật bảo
vệ.
Trong quy định của Điều 189 khung hình phạt đối với tội hủy hoại
rừng từ 10.000.000đ đến 100.000.000 đồng, cải tạo không giam giữ đến 3
năm hoặc bị phạt tù trừ sáu tháng đến 5 năm; trờng hợp có tình tiết tăng nặng
thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm; trờng hợp hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
thì bị phạt tù từ bảy năm đến mời lăm năm. Điều 190 quy định khung hình
phạt đối với các tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý

hiếm là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cải tạo không
giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm; trờng hợp có tình
tiết tăng nặng thì phạt tù từ 2 năm đến bảy năm. Điều 191 tội vi phạm chế độ
bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên quy định khung hình phạt cơ
bản là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cải tạo không giam
giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm; trờng hợp gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng thì phạt tù từ hai năm đến năm năm. Ngoài ra, ngời
phạm tội trong các trờng hợp nêu trên còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ một năm đến năm năm [5, tr.35].
Nhìn chung pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số
139/2004/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
24
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản và Bộ luật hình sự 1999 cùng nhiều văn bản
pháp luật khác là hành lang pháp lý cho công tác xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Bốn là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở
pháp lý cho xã hội hóa công tác bảo vệ rừng
Trong vài thập kỷ gần đây, đờng lối phát triển Lâm nghiệp Việt Nam
đã có những chuyển hớng quan trọng từ Lâm nghiệp nhà nớc sang Lâm
nghiệp nhân dân mà nội dung chủ yếu là giao đất giao rừng cho dân để họ
chủ động quản lý, sử dụng và sản xuất Lâm nghiệp nhằm mang lại lợi ích
cho chính họ và cho nhà nớc. Cùng với thuật ngữ Lâm nghiệp nhân dân,
trong hơn chục năm gần đây xuất hiện thuật ngữ Lâm nghiệp xã hội hay
Lâm nghiệp cộng đồng. Thuật ngữ này đang đợc hiểu theo nhiều cách khác
nhau, nhng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu và phơng thức hoạt động của
lâm nghiệp cộng đồng. Đó là lâm nghiệp có sự tham gia tích cực của ngời
dân nhằm trớc hết thoả mãn những lợi ích của dân và cộng đồng dân c địa
phơng. Nh vậy, theo cách hiểu trên thì Lâm nghiệp nhân dân, Lâm nghiệp xã
hội hay Lâm nghiệp cộng đồng đều có những nét tơng đồng nên trong đoạn

văn này tác giả sử dụng thuật ngữ Lâm nghiệp xã hội, Lâm nghiệp nhân dân,
Lâm nghiệp cộng đồng đều có ý nghĩa nh nhau.
Điều đó đã đợc khẳng định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ IX: Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ
của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất giao rừng ổn định và lâu dài
theo hớng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách đảm bảo cho ngời làm rừng
sống đợc bằng nghề rừng [28, tr.171].
Nh vậy, ngành Lâm nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi từ Lâm
nghiệp nhà nớc sang Lâm nghiệp xã hội, chính trong quá trình chuyển đổi
mang tính chiến lợc này đã xuất hiện nhiều nhân tố mới trong lĩnh vực quản
lý bảo vệ tài nguyên rừng. Vì vậy, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực
bảo vệ rừng có vai trò quan trọng trong việc quy định các qui phạm pháp luật
để thúc đẩy tiến trình xã hội hoá công tác bảo vệ rừng, phù hợp với xu thế
của các quốc gia, các dân tộc trên thế giới - coi trọng vai trò của cộng đồng
trong QLBVR. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong khu
vực các nớc Đông Nam á, một tổ chức mạng lới về Lâm nghiệp xã hội đã đ-
ợc hình thành để t vấn, điều phối hoạt động Lâm nghiệp cộng đồng giữa các
25

×