Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.1 KB, 91 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH








NGUYỄN THỊ THU HUYỀN








GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Ở TỈNH PHÚ THỌ









LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Chuyên ngành: Quản lý kinh tế












Thái Nguyên, năm 2012



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH









NGUYỄN THỊ THU HUYỀN






GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Ở TỈNH PHÚ THỌ



Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số:
60.34.04.10




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Hùng Cường








Thái Nguyên, năm 2012


i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và mọi thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2012
Tác giả



Nguyễn Thị Thu Huyền

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình làm việc, nghiên cứu lý
luận và tích lũy kinh nghiệm từ bản thân. Để có được thành công này, tôi xin được
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với thầy giáo, TS.Vũ Hùng Cường, người
hướng dẫn khoa học. Thầy đã giúp đỡ tận tình tôi trong suốt quá trình nghiên cứu

và hoàn thiện bản luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ, đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi hoàn thành công trình này.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2012
Tác giả



Nguyễn Thị Thu Huyền


iii

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
MỞ ĐẦU 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3
1.1. Cơ sở lý luận 3
1.1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm phi nhân thọ 3
1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm phi nhân thọ 3
1.1.1.2. Đặc điểm cơ bản của bảo hiểm phi nhân thọ 5


1.1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm phi nhân thọ 5

1.1.1.4. Bản chất của bảo hiểm phi nhân thọ 6

1.1.1.5. Vai trò và tác động của bảo hiểm phi nhân thọ đối với phát triển kinh
tế - xã hội 7

1.1.2. Tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ 9

1.1.2.1. Tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 9

1.1.2.2. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm 11

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ 13

1.2. Cơ sở thực tiễn 18
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21

2.1. Phương pháp nghiên cứu 21
2.1.1. Phương pháp định tính 21

2.1.2. Phương pháp thống kê mô tả 21

2.1.3. Phương pháp phân tích SWOT 21

2.2. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 22
2.2.1. Chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm gốc 22


2.2.2. Chỉ tiêu tỷ lệ bồi thường 22


iv

2.2.3. Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm 22

2.2.4. Chỉ tiêu tỷ lệ kết hợp 23

2.2.5. Tỷ lệ nợ phí bảo hiểm 23

2.2.6. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh 23

Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ Ở TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2007 – 2011 24

3.1. Sơ lược đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ 24
3.1.1. Tổng quan điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Phú Thọ 24

3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ 24

3.1.3 Tình hình tham gia bảo hiểm phi nhân thọ tại tỉnh Phú Thọ 26

3.2. Hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ 27
3.2.1. Mạng lưới tổ chức hoạt động 27

3.2.1.1. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đang hoạt động tại tỉnh Phú Thọ 27

3.2.1.2. Mô hình tổ chức 28


3.2.2. Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ đang triển khai 29

3.3. Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2007 – 2011 30
3.3.1. Tổng quan thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 – 2011 30

3.3.2. Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ tại tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2007 - 2011 32

3.3.2.1. Chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm gốc 32

3.3.2.2. Chỉ tiêu tỷ lệ bồi thường 34

3.3.2.3. Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm 37

3.3.2.4. Chỉ tiêu tỷ lệ kết hợp 40

3.3.2.5. Tỷ lệ nợ phí bảo hiểm 41
3.3.2.6. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh 45

3.4. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 46
3.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân 46

3.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân 48


v


3.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở
tỉnh Phú Thọ giai đoạn qua 53

3.4.4. Tác động của hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ đối với phát triển
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 – 2011 56

Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Ở TỈNH PHÚ THỌ 58

4.1. Bối cảnh mới và yêu cầu đặt ra đối với hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ
tỉnh Phú Thọ 58
4.1.1. Mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 58

4.1.2. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiển “Quyết định 193/QĐ-Ttg về:
Chiến lược phát triển thị trường Bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ngày
15/02/2012 59

4.1.3. Bối cảnh mới trong và ngoài nước và những cơ hội và thách thức đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và ở tỉnh Phú Thọ nói riêng 60

4.1.4. Yêu cầu, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
tỉnh Phú Thọ 64

4.2. Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ 66
4.2.1 Những giải pháp ở tầm vĩ mô 66

4.2.1.1. Đối với Chính Phủ 66

4.2.1.2. Về phía các bộ ngành có liên quan 67


4.2.1.3. Đối với chính quyền tỉnh Phú Thọ 68

4.2.2. Một số giải pháp chủ yếu đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở
tỉnh Phú Thọ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh 69

4.2.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác bảo hiểm 69

4.2.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý 72

4.2.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 77

KẾT LUẬN 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO 81



vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DN : Doanh nghiệp
BH : Bảo hiểm
GDP : Tổng thu nhập quốc dân
CNTT : Công nghệ thông tin

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Trang
Bảng 3.1 - Tỷ lệ tham gia bảo hiểm năm 2011 của các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ở Phú Thọ 27

Bảng 3.2 – Doanh thu phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 33

Bảng 3.3 – Chi phí bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở
tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 34

Bảng 3.4- So sánh sự thay đổi doanh thu bảo hiểm thuần và bồi thường bảo
hiểm thuần của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2007 -2011 35

Bảng 3.5 – Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 37

Bảng 3.6 – Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 39

Bảng 3.7 Chỉ tiêu kết hợp của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 40
Biểu đồ 3.8 – Tỷ lệ chi phí bồi thường – Tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh –
Tỷ lệ kết hợp 40
Bảng 3.9 – Tình hình quản lý nợ phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 42

Bảng 3.10 – Phân loại nợ của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 43


Bảng 3.11 - Tỷ lệ nợ phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 44

Bảng 3.12 – Lợi nhuận và doanh thu phí bảo hiểm thuần của các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011 45

Biểu đồ 3.13- Hiệu quả kinh doanh 45



1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam bước sang một thời kỳ
phát triển mới. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường đã đem lại nhiều thành tựu kinh tế – xã hội to lớn cho đất nước. Nhiều
lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao.
Trong quá trình phát triển đó, bảo hiểm cũng đã trở thành một ngành kinh doanh
giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất nhiều lao động.
Sau gần 25 năm mở cửa nền kinh tế và hơn 19 năm hình thành và phát triển,
ngành bảo hiểm phi nhân thọ có những bước đổi mới và phát triển, đã thu được
những thành tựu không nhỏ trên nhiều mặt, bên cạnh đó, cũng có những hạn chế
cần được khắc phục trong đó bảo hiểm phi nhân thọ của tỉnh Phú Thọ cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Với đặc điểm Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi có tổng
diện tích là 3.532km
2
, dân số trên 1,3 triệu người, mật độ trung bình 373 người/km
2

,
trong đó 85% dân cư sống ở vùng nông thôn, miền núi, trình độ dân trí không đồng đều,
kinh tế chậm phát triển, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn nên bảo hiểm
phi nhân thọ ra đời đã tác động rất lớn đến đời sống người dân, góp phần giúp người
dân khắc phục những khó khăn, rủi ro xảy ra không thể lường trước được.
Trong quá trình phát triển, bảo hiểm phi nhân thọ đã và đang chứng minh được
vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh nói riêng cũng
như với cuộc sống nói chung ở tỉnh Phú Thọ. Với những bước tiến đáng kể và nếu
được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần rất tích cực vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Để có được cái nhìn toàn diện, chi tiết hơn, việc
xem xét cụ thể các mặt của hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú
Thọ là rất cần thiết, để từ đó đưa ra giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn tới, nhằm có những đóng góp
tích cực hơn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao chất
lượng đời sống của nhân dân. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, em xin được
chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ” cho luận văn của mình.


2

2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú
Thọ, làm rõ những tồn tại, hạn chế và những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp
nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ là đối tượng
nghiên cứu chính trong luận văn này.
4. Giới hạn của đề tài

Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu được giới
hạn là hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở 4 doanh nghiệp lớn đang hoạt
động trên địa bàn tỉnh như (Bảo Việt Phú Thọ, Bảo Minh Phú Thọ, PJICO Phú Thọ,
Bưu điện Phú Thọ) nhưng đặc biệt nghiên cứu sâu về Công ty Bảo Minh Phú Thọ ở
tỉnh Phú Thọ. Các số liệu được giới hạn từ năm 2007 đến năm 2011.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần tổng hợp một số lý luận về bảo hiểm phi nhân thọ, xây dựng hệ
tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2007 – 2011. Chỉ rõ vai trò và tác động của bảo hiểm phi nhân thọ
đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân tỉnh Phú Thọ thời gian qua;
những thành công, hạn chế, những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ ngành Trung ương, chính quyền
địa phương và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ giải pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn tới.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 4 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2007 - 2011
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ ở tỉnh Phú Thọ


3

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm phi nhân thọ
Cũng như các ngành khác, bảo hiểm ra đời do nhu cầu khách quan của đời
sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ
hoạn nạn khi rủi ro, tổn thất xẩy ra.
Bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng do tính
đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một định nghĩa đầy đủ và thích
hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quĩ tiền tệ (quĩ bảo hiểm), sự
hoán chuyển rủi ro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đơn vị đối tượng
riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm:
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít (Dennis Kessler, Risque No 17, Jan-Mars 1994).
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là
người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ
nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người
bảo hiểm. (Monique Gaultier,Geeesesneseeralite sur I assurance, Projet dassur,
Lescole superieur des finances et de la Comptabilite de HaNoi – 1994).
Trong hệ thống kinh tế - xã hội nói chung và hệ thống tài chính nói riêng,
bảo hiểm tồn tại như là một bộ phận cấu thành với hai hình thức chính là bảo hiểm
xã hội và bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm xã hội là một định chế pháp lý bảo vệ người lao động bằng cách
thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động, người



4

sử dụng lao động, cộng với sự hỗ trợ của Nhà nước, thực hiện trợ cấp vật chất, góp
phần ổn định đối tượng đời sống cho người tham gia bảo hiểm xã hội và gia đình họ
trong các trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội gặp rủi ro ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, rủi ro tuổi già, làm cho gia đình bị mất
hoặc giảm thu nhập bất ngờ.
Bảo hiểm thương mại là hoạt động bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức
kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại
chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ
sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp
bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước
trên hợp đồng.
Bảo hiểm thương mại được chia làm hai loại là bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ.
* Bảo hiểm nhân thọ (life insurance): Là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho
trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết. Thực chất đây là bảo hiểm tính
mạng hoặc tuổi thọ của con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một
khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị
thương tật toàn bộ, vĩnh viễn. Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ là việc bảo hiểm
các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối
tượng tham gia bảo hiểm nhân thọ rất rộng, bao gồm nhiều người ở các lứa tuổi
khác nhau.
* Bảo hiểm phi nhân thọ (non-life insurance): Là loại nghiệp vụ bảo hiểm
tài sản, trách nhiệm dân sự bảo hiểm xây dựng, lắp đặt, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm
du lịch, bảo hiểm trách nhiệm của người sử dụng lao động… và các nghiệp vụ bảo
hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ.
Mỗi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ đều đóng vai trò quan trọng trong đời
sống và sản xuất kinh doanh vì con người luôn luôn bị các rủi ro đe doạ gây thiệt
hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản không thể kiểm soát được trong đời sống cũng

như khiến hoạt động sản xuất kinh doanh không thu được kết quả như định trước.


5

Hậu quả là gây ra sự mất cân đối về tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh
hoặc làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân. Lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số ít người cho cả
cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại, bằng cách mọi người
trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó
bù đắp thiệt hại cho những thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do
những rủi ro đó gây ra.
1.1.1.2. Đặc điểm cơ bản của bảo hiểm phi nhân thọ
- Hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ là một hoạt động thỏa thuận.
- Sự tương hỗ trong bảo hiểm phi nhân thọ được thực hiện trong một cộng
đồng có giới hạn, một nhóm đông.
Bảo hiểm phi nhân thọ cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro
bản thân con người mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm.
1.1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm phi nhân thọ
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển cao ở
nhiều nước trên thế giới, với rất nhiều loại hình, cũng như đối tượng được bảo hiểm
ngày càng rộng mở và trở nên hết sức phong phú. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm
vẫn được tiến hành trên cơ sở một số nguyên tắc cơ bản của nó (Luật kinh doanh
bảo hiểm của Việt Nam năm 2000) .
- Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (fortuity
not certainty): Nguyên tắc này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm một rủi ro,
tức là bảo hiểm một sự cố, một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên,
ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương
nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ
không bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra.

- Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao dịch
kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực với nhau. Tuy
nhiên, trong bảo hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và
ràng buộc cao hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối


6

quan hệ bảo hiểm (người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung
thực với nhau, tin tuởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau.
- Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest): Nguyên
tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm chỉ ra rằng, người được bảo hiểm muốn mua
bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền
lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải, quyền lợi
có thể được bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm,
nhưng nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
- Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có
tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho
người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không
hơn không kém.
- Nguyên tắc thế quyền (subrogation): Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo
hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được
bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Thế quyền có
thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất. Trong trường hợp này,
người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên
quan. Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các
biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ… cần thiết cho người bảo hiểm.
1.1.1.4. Bản chất của bảo hiểm phi nhân thọ
Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro, quĩ sẽ
có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân hay

đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các Công ty bảo hiểm.
Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro được bảo
hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này
được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ
có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn
thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là
việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham


7

gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm muốn tiến hành được phải
có nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ hoạt động được trên cơ sở luật số
đông (the law of large numbers), càng nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi
ro đối với mỗi người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi.
Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm sẽ
giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi ro, tiết
kiệm được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất mối quan hệ
trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người
được bảo hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối quan hệ giữa những người
được bảo hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc hình thành và sử dụng quĩ bảo
hiểm. Quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua việc huy động phí bảo hiểm, số người
tham gia càng đông thì quĩ càng lớn. Quĩ được sử dụng trước hết và chủ yếu là để
bù đắp những tổn thất cho người được bảo hiểm, không làm ảnh hưởng đến sự liên
tục của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài
ra, quĩ còn được dùng để trang trải chi phí, tạo nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội.
Bảo hiểm thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, nhằm hình thành và sử dụng quĩ
bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo
hiểm, đảm bảo quá trình tái sản xuất được thường xuyên, liên tục.

Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế rất đa dạng
và phức tạp. Bảo hiểm phi nhân thọ, dưới mọi góc độ như doanh nghiệp bảo hiểm,
sản phẩm bảo hiểm, quản lý nhà nước, hiệp hội bảo hiểm, bức thiết phải được xây
dựng và hoàn thiện nhanh chóng nhằm phát huy chức năng vốn có của mình: Bảo
vệ con người, bảo vệ tài sản, bảo vệ của cải vật chất của xã hội.
1.1.1.5. Vai trò và tác động của bảo hiểm phi nhân thọ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Bảo hiểm phi nhân thọ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống
con người đặc biệt về mặt kinh tế - xã hội.
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, bảo hiểm phi nhân thọ đóng vai trò như
một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ


8

thể dân cư và tổ chức kinh tế; khuyến khích và nâng cao ý thức đề phòng – hạn chế
tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có vai trò là lá chắn kinh tế cho các
cá nhân/tổ chức. Điều này được thể hiện qua số liệu thống kê của các doanh nghiệp
bảo hiểm. Trong nhiều năm qua, số tiền chi trả bồi thường của các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ rất lớn và ngày càng tăng qua các năm. Thực tế cho thấy,
một số cá nhân/tổ chức kinh tế khi không may gặp rủi ro, tưởng như cá nhân/tổ
chức đó rơi vào tình trạng phá sản nhưng họ đã tham gia hợp đồng bảo hiểm đã
được công ty bảo hiểm bù đắp những thiệt hại tài chính, ổn định sản xuất và hỗ trợ
kinh tế.
Với thời đại ngày nay, cùng với công nghệ thông tin điện tử, công nghệ kinh
doanh trên mạng, vấn đề thương mại điện tử phát huy rất tích cực vào hoạt động
kinh doanh, các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp không cần phải gặp trực tiếp mà chỉ
cần vào mạng tra cứu là có thể tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy xuất hiện nhiều
(các doanh nghiệp ma, hoặc không đảm bảo uy tín về chất lượng cũng như sự tín
chấp để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh). Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam đem lại những cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nhiều thị trường mới
trên thế giới, nhưng cũng đem lại mối lo ngại cho các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước phải nỗ lực và phải thận trọng trong quan hệ giao dịch thương mại quốc tế, do
đó họ rất cần đến bảo hiểm. Để đảm bảo an toàn cho khách hàng, các nhà bảo hiểm
có trách nhiệm tìm hiểu, xem xét và đăng ký các dịch vụ về cung cấp, nắm bắt
thông tin về các doanh nghiệp và là nhà cung cấp dịch vụ cho các đơn vị doanh
nghiệp mà đơn vị bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho họ để biết được doanh nghiệp là các
nhà cung cấp dịch vụ ấy có thực không, có uy tín trên thị trường không, có rủi ro
trong giao dịch không. Điều đó thường chỉ các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp mới đủ
khả năng và có sự đầu tư, liên kết trên toàn cầu mới nắm bắt được các thông tin đó.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả đóng một vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế như giảm tỷ lệ thất nghiệp; tích tụ vốn để đầu tư trở lại nền kinh
tế. Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm, khi hoạt động có hiệu quả doanh nghiệp


9

bảo hiểm phi nhân thọ đảm bảo tính thanh khoản, giúp khách hàng an tâm với lá
chắn vững vàng trong hoạt động kinh doanh sản xuất.
Trong các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, một hoạt động không kém phần
quan trọng đó là hoạt động đầu tư tài chính. Trong khi hoạt động kinh doanh bảo
hiểm không mạng lại nhiều lợi nhuận, thậm chí có thể gây ra những khoản lỗ, thì
hoạt động đầu tư tài chính lại là cứu cánh cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Với
nguồn phí bảo hiểm chưa dùng đến, không ít DN bảo hiểm lựa chọn gửi tiết kiệm,
đầu tư bất động sản, là kênh hiệu quả nhất. Do đó các doanh nghiệp có lãi phần
lớn được bù đắp bởi hoạt động tài chính nó chính là vai trò quan trọng trong cơ cấu
doanh thu và lợi nhuận của DN bảo hiểm.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, quỹ dự phòng bồi thường
được thành lập ngay khi ký hợp đồng bảo hiểm, nhưng việc bồi thường chỉ xảy ra
khi có sự cố. Do đó, việc đầu tư vốn nhàn rỗi của DN bảo hiểm rất quan trọng đối

với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với các quỹ bảo hiểm khác, bảo hiểm phi nhân thọ là môi trường nghề
nghiệp của số lượng lớn lao động, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế.
1.1.2. Tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.2.1. Tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các qui định
khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
i, Các yêu cầu cần thiết của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Để đưa các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được hoạt động tốt cần phải
nâng cao về mọi mặt trên các tiêu chí sau:
- Yêu cầu về mặt kỹ thuật: Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải tổ chức
tốt việc thống kê, lựa chọn rủi ro, tính phí bảo hiểm, giải quyết các khiếu nại khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra.
- Yêu cầu về mặt hoạt động kinh doanh: Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ phải được tổ chức thành một bộ máy hoàn chỉnh để có thể vận hành, gồm các bộ


10

phận chức năng như quản lý, nghiệp vụ, kinh doanh, tài chính – kế toán, hành chính
nhân sự,
- Yêu cầu về mặt tài chính: Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tập trung
huy động nguồn vốn từ số đông khách hàng nên phải có sự đảm bảo về mặt tài
chính như ký quỹ, quỹ dự phòng, vốn điều lệ, hiệu quả đầu tư…để hoạt động và tạo
sự tin tưởng đối với khách hàng. Yêu cầu về mặt tài chính phải được giám sát chặt
chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà nước.
- Yêu cầu về mặt pháp lý: Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải được
thành lập và hoạt động đúng theo qui định của pháp luật địa phương hoặc quốc gia
mà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.

ii, Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Ngành bảo hiểm Việt Nam hoạt động theo qui luật của thị trường kể từ sau
Nghị định số 100/1993/NĐ-CP vì đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định có nhiều
loại hình doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh nghiệp được
thành lập dưới các hình thức là doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, doanh nghiệp bảo
hiểm cổ phần và doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ.
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước là doanh nghiệp bảo hiểm mà quyền sở
hữu doanh nghiệp thuộc về Nhà nước.
Doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần được sở hữu bởi các cá nhân/tổ chức cùng
chia nhau nắm giữ những phần khác nhau trong vốn sở hữu của doanh nghiệp, được
gọi là cổ đông. Khi doanh nghiệp hoạt động có lãi, một phần lợi nhuận của doanh
nghiệp sẽ được chia cho mỗi cổ đông gọi là cổ tức.
Doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ là doanh nghiệp bảo hiểm do chính các chủ
hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp nắm quyền sở hữu. Nếu hoạt động có lãi, một
phần lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ được chia cho mỗi chủ hợp đồng dưới dạng bảo
tức. Một đặc điểm quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ là không chia
vốn chủ sơ hữu thành cổ phần nên không thể bị thôn tính vì cổ phần không được
phép mua bán.


11

Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm trên còn có các loại hình doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ khác như bảo hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100%
vốn đầu tư nước ngoài.
iii, Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Muốn hoạt động có hiệu quả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải
đưa ra được mô hình tổ chức để tạo được sự phối hợp giữa các bộ phận trong doanh
nghiệp với nhau. Tùy theo quy mô hoạt động, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm có các bộ

phận chức năng như: Bộ phận nghiệp vụ, bộ phận Marketing, bộ phận dịch vụ
khách hàng, bộ phận nghiên cứu và phát triển, bộ phận tài chính- kế toán, bộ phận
pháp lý, bộ phận nhân sự, hệ thống thông tin.
Đa số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đều có kết cấu tổ chức theo
mô hình kim tự tháp. Quyền lực bắt đầu từ đỉnh tháp với một người hoặc một nhóm
người. Quyền hạn sau đó được phân bổ đến những nhóm người có thứ bậc thấp hơn.
1.1.2.2. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có hai mảng chính là
hoạt động bảo hiểm và hoạt động đầu tư tài chính.
i, Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hoạt động gồm có hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gốc và hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm.
* Hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc: thông qua các bộ phận chức năng.
- Định phí bảo hiểm: Doanh nghiệp bảo hiểm cần xác định được giá sản
phẩm trước khi cung cấp ra thị trường, công việc đó được gọi là định phí bảo hiểm.
Việc định phí bảo hiểm được thực hiện bởi các định phí viên, những người này có
trách nhiệm tính toán và đưa ra mức phí cho từng loại sản phẩm.
- Khai thác bảo hiểm: Việc khai thác bảo hiểm ở các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ là quá trình đánh giá rủi ro và ra quyết định về việc chấp nhận hay
không chấp nhận rủi ro hoặc chấp nhận rủi ro đến mức độ nào.
Với các kênh phân phối thì kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối trung
gian đối với các doanh nghiệp bảo hiểm luôn giữ vai trò quan trọng.


12

- Khai thác bảo hiểm thông qua đại lý: Là hoạt động giới thiệu chào bán sản
phẩm bảo hiểm, giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc khác nhằm thực hiện
hợp đồng bảo hiểm theo ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đại lý bảo hiểm là người được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền, đại diện

doanh nghiệp bảo hiểm chào bán sản phẩm bảo hiểm và được hưởng thù lao từ kết
quả kinh doanh. Đại lý bảo hiểm thường cung cấp các dịch vụ đơn giản và phổ biến.
- Hoạt động môi giới đại lý: Hoạt động môi giới bảo hiểm là cung cấp thông
tin tư vấn cho bên mua bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức
phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các điều kiện có liên quan đến việc đàm
phán và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
Môi giới bảo hiểm là người được người bảo hiểm ủy quyền, có nhiệm vụ tìm
kiếm trong số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đang hoạt động trên thị
trường một doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đảm bảo cung cấp bảo hiểm với sự
tương thích tốt nhất giữa phí bảo hiểm và chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp bảo
hiểm đó.
- Giải quyết khiếu nại chi trả bồi thường:
Khi có khiếu nại yêu cầu giải quyết từ phía khách hàng, doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ sẽ tiến hành thực hiện các công việc xác minh, xác định tổn thất
và giải quyết quyền lợi trong phạm vi trách nhiệm đã cam kết trong hợp đồng.Việc
giải quyết khiếu nại trong những trường hợp phức tạp có thể cần đến sự tham gia
của các tổ chức giám định độc lập hoặc sự can thiệp của cơ quan pháp luật.
- Các hoạt động khác: Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng có các hoạt động như Marketing, nhân sự, tài
chính, kế toán, pháp lý, dịch vụ khách hàng, hệ thống thông tin, giám sát. Tuy nhiên,
do đặc thù quy định chung của Ngành nên hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ phải có những quy định riêng cho hoạt động kinh doanh như trích lập
dự phòng, chi trả hoa hồng, giám định tổn thất, đề phòng hạn chế tổn thất.
* Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó
một tổ chức bảo hiểm chuyển cho một tổ chức bảo hiểm khác một phần rủi ro mà tổ
chức đó đã chấp nhận bảo hiểm.


13


- Kinh doanh tái bảo hiểm bao gồm: Chuyển một phần trách nhiệm đã nhận
cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác; Nhận bảo hiểm lại một phần hay
toàn bộ trách nhiệm mà doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm.
ii, Hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động tài chính chiếm vai trò quan trọng trong cơ cấu doanh thu và lợi
nhuận của DN bảo hiểm. Hiện tại, hoạt động tài chính đang là thế mạnh của một số
DN (Doanh nghiệp) lớn như Tập đoàn Bảo Việt, Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh,
Tổng CTCP Bảo hiểm Dầu khí (PVI)… Một mặt, các DN này có nguồn phí bảo
hiểm lớn và nguồn thặng dư vốn dồi dào (sau khi thực hiện IPO) nên có thể đa dạng
hóa việc đầu tư. Mặt khác, với quy mô của một tập đoàn thì các DN này có đội ngũ
chuyên gia phân tích đầu tư đủ lớn, chuyên nghiệp để tham gia đầu tư trên thị trường.
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm vốn
điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, các khoản lãi của các năm trước chưa sử dụng hết,…
Các lĩnh vực đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là mua
trái phiếu Chính phủ, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản,
góp vốn vào các doanh nghiệp, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính – tín dụng.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ
Hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ chịu ảnh hưởng
trực tiếp sâu sắc bởi các nhân tố cụ thể như sau:
i, Trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và địa phương.
- Điều kiện kinh tế là cơ sở phát triển bảo hiểm nói chung, bảo hiểm phi
nhân thọ nói riêng. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh giúp nâng cao thu nhập bình quân
và cải thiện đời sống của người dân, người dân đẩy mạnh mua sắm tài sản, cùng với
đó người dân đã có ý thức bảo vệ tài sản có giá trị đắt tiền để yên tâm sử dụng,…
Đây chính là những yếu tố rất quan trọng để tăng trưởng kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ đạt kết quả cao và là cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ theo luật số đông bù số ít.
- Về văn hóa, Việt Nam là một nước có nền văn hóa phương Đông, lại chịu
sự ảnh hưởng lớn của Nho giáo, với tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá



14

rách. Hơn thế nữa, người Việt Nam còn có nét đặc trưng về tính cách đó là tiết
kiệm, “lo xa” để đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân mình và những người thân
trong tương lai nên họ hiểu được tầm quan trọng của bảo hiểm. Nhưng lại khó khăn
khi tiếp nhận cái gì mới, gây cản trở cho việc cung cấp các loại hình dịch vụ bảo
hiểm mới.
- Công nghệ thông tin đang góp phần hiện đại hóa doanh nghiệp bảo hiểm, vi
tính hoá quá trình dịch vụ, giảm bớt tính cồng kềnh của cơ cấu tổ chức doanh
nghiệp bảo hiểm, góp phần đa dạng hoá kênh phân phối và các hình thức dịch vụ,
tăng cường dịch vụ khách hàng bằng các dịch vụ phụ trợ kỹ thuật cao,
- Mở cửa và hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho bảo hiểm phi nhân thọ phát
triển. Việc mở cửa nền kinh tế trong những năm qua đã tạo ra nhiều cơ hội phát
triển cho các lĩnh vực, các ngành nghề trong đó có lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ,
sự tham gia vào thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam của các doanh nghiệp
bảo nước ngoài, có tiềm năng tài chính hùng mạnh, có kinh nghiệm trong kinh
doanh bảo hiểm đã tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ trong nước tái cấu trúc, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Môi trường pháp lý và chính sách của Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
bảo hộ cho thị trường phát triển lành mạnh
Trong suốt thời kỳ từ 1965 đến 1993, Nhà nước thực hiện độc quyền về kinh
doanh bảo hiểm với một doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất là Bảo Việt, vừa tiến
hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
bảo hiểm. Hiện nay, Nhà nước và Chính phủ đã có những cơ chế, chính sách để
ngành bảo hiểm phát triển theo quy luật thị trường:
+ Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000 tại kỳ
họp thứ 8 Quốc hội khoá X, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển lành

mạnh và bền vững của thị trường bảo hiểm Việt Nam, phù hợp với xu thế hội nhập
quốc tế.
+ Hệ thống các văn bản pháp Luật về kinh doanh bảo hiểm đã tương đối
hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Bộ Tài chính thực hiện việc giám sát các doanh


15

nghiệp bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh, từ khâu tuyển dụng, đào tạo đại lý
đến hệ thống các chỉ tiêu giám sát hoạt động kinh doanh.
+ Phát triển thị trường bảo hiểm ổn định và đúng hướng; bảo đảm tính chủ
động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; tạo lập và
duy trì một môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng và thuận lợi, trước hết ở việc
xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế; thu hút các nguồn lực cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội.
ii, Chiến lược kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và
mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Đối với một Công ty bảo hiểm, năng lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý,
kinh doanh,… là những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh. Nếu không tự hoàn
thiện và nâng cao năng lực, các doanh nghiệp sẽ khó có thể đứng vững và thành
công trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay.
Các doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ vào tình hình thực tế trong nước và quốc
tế để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ tạo cho mình một vị thế vững
chắc, duy trì và mở rộng thị phần, tạo niềm tin ở khách hàng.
- Đa dạng hoá sản phẩm, phát triển các sản phẩm bảo hiểm mới, đặc biệt là
sản phẩm dành cho cá nhân đang bùng nổ, vì như bảo hiểm sức khỏe con người, bảo
hiểm trách nhiệm, sản phẩm bảo hiểm tài chính, có thêm sản phẩm bảo hiểm cho
nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ - đối tượng khách hàng được đánh giá là rất tiềm
năng sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng chiếm lĩnh thị phần trong thị trường bảo hiểm,

nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Thực tế các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở nước ta chưa phát triển
trong nhiều lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt
động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán,… Bảo hiểm cháy và
các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai
nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu
tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản


16

pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển lành mạnh của ngành bảo hiểm.
- Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang ở
tình trạng báo động, do cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp bảo hiểm đã hạ phí
bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh.
- Khả năng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin vào quá trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh
cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được cơ sở
dữ liệu phần mềm quản lý bảo hiểm nên việc sửa đổi phí bảo hiểm, điều kiện điều
khoản bảo hiểm để giao kết bảo hiểm khó quản lý được chặt chẽ,… Đây cũng là kẽ
hở để vấn trục lợi bảo hiểm phát sinh. Ngoài ra, việc thiếu số liệu thống kê cũng là
một thử thách không nhỏ đối với các công ty bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp
nước ngoài. Ở Mỹ, mọi số liệu về khách hàng đều được thống kê đầy đủ, ví dụ như
lịch sử lái xe, số lần va quệt, các loại xe, đời xe khách hàng đã sở hữu,… Trong khi
đó, tại Việt Nam không thể tìm ra cơ sở dữ liệu này để có thể tính phí bảo hiểm một
cách chính xác nhất.
- Khả năng tận dụng tối đa các công cụ đầu tư tài chính, năng lực thẩm định
của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả kinh doanh của doanh

nghiệp khi hoạt động đầu tư là kênh đem lại lợi nhuận không nhỏ đối với doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, xúc tiến thương mại là một
trong những yếu tố cơ bản tạo nên thành công của một doanh nghiệp. Trong lĩnh
vực bảo hiểm, yếu tố này có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay,
khi mà nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh tế,
cũng như đối với đời sống xã hội vẫn còn hạn chế. Đây là một cơ hội tốt để các
doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm, đồng thời
xây dựng được hình ảnh của công ty mình trong những khách hàng tiềm năng.
- Mức độ liên kết, hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, thông qua Hiệp

×