LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với tiến trình hội nhập và phát triển của cả nền kinh tế thị trường bảo
hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển rất tốt trong những năm gần đây và trở
thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đất nước. Trong đó bảo
hiểm vật chất xe cơ giới được xem là thị trường có nhiều tiềm năng tại Việt Nam,
đây là nghiệp vụ bảo hiểm mà hầu hết các DNBH phi nhân thọ đều muốn chiếm
lĩnh thị phần.
Là một DNBH phi nhân thọ, từ khi PTI được thành lập vào năm 1998, PTI
luôn tích cực triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và đã đạt được tốc
độ tăng doanh thu đáng kể trong thời gian qua.Tuy nhiên sau 2 năm gia nhập
WTO, sự xuất hiện của các DNBH quốc tế lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, trình
độ quản lý tốt và sự ra đời của các DNBH mới đã làm tăng sự cạnh tranh trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam, trong đó có bảo hiểm xe cơ giới. Điều này đã gây sức
ép lớn về bài toán hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới không chỉ với
PTI mà còn cả đối với các DNBH phi nhân thọ khác.
Xuất phát từ lý do đó nên sau một thời gian thực tập tại PTI em đã chọn đề
tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại
PTI giai đoạn 2005-2009” làm chuyên đề thực tập của mình.
Nội dung của đề tài gồm 3 phần:
Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ
GIỚI
Chương II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH BHVCXCG
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN PTI GIAI ĐOẠN (2005-2009)
1
Chương III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH DOANH BHVCXCG TẠI PTI
Em xin chân thành cảm ơn cô T.S Phạm Thị Định đã giúp đỡ và
hướng dẫn tận tình em trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành chuyên đề thực
tập tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị trong công ty Bảo
hiểm Bưu điện đã giúp đỡ chỉ bảo và tạo điều kiện cho em nghiên cứu, hoàn thành
chuyên đề này.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu do thời gian và kiến thức còn hạn chế
nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự
góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Vai trò của xe cơ giới đối với nền kinh tế
Giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi
nước, giao thông vận tải đường bộ góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh
tế đất nước. Bên cạnh đó nó còn đóng góp lớn cho ngân sách qua nhiều loại thuế
và những dịch vụ đi theo được phát triển tạo thêm hàng triệu việc làm cho người
lao động. Thông qua đó góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp và những tiêu cực xấu
trong xã hội. Sự phát triển của giao thông vận tải đường bộ cũng là sự huy động
nguồn vốn về đầu tư trong xã hội rất lớn mà không phải ngành nghề nào cũng có
được. Vì vậy, các nhà kinh tế học đã ví rằng: “Nếu nền kinh tế là một cơ thể
sống, trong đó hệ thống giao thông là các huyết mạch thì vận tải là quá trình đưa
các chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào của cơ thể sống đó”.
Trong giao thông vận tải đường bộ, xe cơ giới là phương tiện chủ yếu nhất
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bởi vì:
- Xe cơ giới là phương tiện có tính cơ động cao, việt dã tốt trong quá
trình tham gia vận tải, nó có thể tham gia vào quá trình vận chuyển giữa các vùng
miền, thậm chí ngay cả những nơi có địa hình xấu mà các phương tiện vận tải khác
không tham gia được.
- Nhờ tính cơ động của mình, xe cơ giới góp phần thúc đẩy hoạt động
3
kinh tế, văn hóa ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế,
tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước.
- Với chi phí rẻ hơn so với các loại phương tiện vận tải khác nên xe cơ
giới rất được ưa chuộng và ngày càng phát triển trong quá trình chuyên chở hàng
hóa, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được
thuận tiện.
Sự phát triển một cách nhanh chóng của nền kinh tế đã làm gia tăng nhu cầu
vận tải giữa các vùng. Chính vì vậy, lượng xe cơ giới tham gia lưu thông ngày
càng tăng, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên,
sự gia tăng xe cơ giới ngày càng nhiều đã làm nảy sinh một số vấn đề như: tai nạn
giao thông ngày càng tăng, tình trạng ách tắc giao thông…những vấn đề này đã
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.2. Tình hình giao thông đường bộ và hậu quả của tai nạn giao thông
Tai nạn giao thông hiện đang liên tục tăng trên toàn cầu, khu vực Đông Nam
Á cũng không ngoại lệ. Tại Việt Nam, ở nước ta, tình hình tai nạn giao thông từ
năm 2005 – 2009 được thống kê trong bảng 1.1:
Bảng 1.1 – Tình hình tai nạn giao thông nước ta từ 2005 - 2009
Năm Số vụ TNGT (vụ)
Số người chết
(người)
Số người bị thương
(người)
2005 14.141 11.184 11.760
2006 14.161 12.373 11.097
2007 14.642 13.200 10.546
2008 11.522 10.397 7.413
2009 12.492 11.516 7.914
4
( Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Đây là kết quả của sự gia tăng dân số, hiện đại hóa, khi lượng xe cộ tăng lên
đột biến không đồng hành với những biện pháp giao thông an toàn. Hạn chế về ý
thức của người dân, cũng như công tác tuyên truyền về an toàn giao thông chưa
mạnh mẽ khiến số vụ tai nạn giao thông không giảm nhiều.
Giao thông ở Việt Nam từ lâu đã được xem là vấn đề bức xúc vì gây tai nạn
chết người và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Theo thống kê, mỗi năm trung
bình tại Việt Nam, tai nạn giao thông khiến trên 12.000 người chết và gần 30.000
người bị chấn thương sọ não với nhiều di chứng để lại.
Tai nạn giao thông ngày càng tăng trên thế giới đã gây nên ngoài thiệt hại
khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho người
bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, tai
nạn giao thông còn gây nên những tác động tâm lý lâu dài đối với nhiều người.
Nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra tai nạn giao thông quá nhiều
sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
Ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á(ADB), tổn thất
vật chất hàng năm do tai nạn giao thông là khoảng 885 triệu USD. Con số này còn
cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84 triệu dân Việt Nam trong năm 2005
(817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu ngân sách cả nước được báo cáo tại
Quốc hội thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu ngân sách cả
nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do TNGT đường bộ khoảng 518 tỷ
USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số tổn thất gần 1 tỷ
USD/năm của Việt Nam là quá nghiêm trọng.
Ngày càng nhiều số vụ tai nạn giao thông thảm khốc và đe dọa đến sự phát
triển bền vững của đất nước. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do cơ sở
5
hạ tầng yếu kém không đạt tiêu chuẩn, luật pháp chưa nghiêm, nhất là do ý thức
chấp hành luật giao thông của quần chúng còn thấp. Trước tình hình đó, đã có
nhiều biện pháp ra đời để khắc phục tình trạng tai nạn giao thông như: tăng mức xử
phạt đối với những người vi phạm luật an toàn giao thông, tuyên truyền nâng cao ý
thức của người dân khi tham gia giao thông, bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi xe
máy. Tuy nhiên, những biện pháp này cũng chỉ góp một phần rất hạn chế, tình
trạng tai nạn giao thông ở nước ta vẫn ở mức cao. Bên cạnh các biện pháp nhằm
ngăn chặn, phòng ngừa tai nạn giao thông thì việc triển khai bảo hiểm vật chất xe
cơ giới lại là một biện pháp nhằm khắc phục và giảm thiểu một phần hậu quả của
tai nạn giao thông, nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông cũng đã
góp phần quan trọng trong công tác khắc phục tình trạng tai nạn giao thông, và đây
cũng là một phần trong lưới đảm bảo an sinh xã hội.
1.2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới
a) Góp phần ổn định tài chính, ổn định hoạt động kinh doanh của chủ xe
Tai nạn, rủi ro là điều mà không một cá nhân hay tổ chức nào mong muốn
bởi vì khi nó xảy ra sẽ gây nên những hậu quả khôn lường: thiệt hại về kinh tế, ảnh
hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của cá nhân, của tổ chức, và có
thể còn gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được công ty bảo hiểm trợ cấp hoặc
bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn
định đời sống, sản xuất kinh doanh.
b) Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông đường bộ
Khi đã tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới người dân sẽ nâng cao ý thức
chấp hành luật lệ giao thông của mình hơn bởi vì cùng việc triển khai nghiệp vụ
này các công ty bảo hiểm còn thực hiện các công tác tuyên truyền, quảng cáo giúp
người dân thấy được vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và những rủi ro thiệt
6
hại có thể xảy ra đối với bản thân và phương tiện từ đó nâng cao ý thức tự giác
chấp hành luật lệ giao thông vì lợi ích của bản thân.Bên cạnh đó các công ty bảo
hiểm còn đóng góp một phần tài chính của mình của mình để xây dựng, cải tạo cơ
sở hạ tầng, xây dựng các biển báo, tín hiệu… trên các tuyến đường hay xảy ra tai
nạn nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
c) Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe với phía nạn nhân trong các vụ
tai nạn.
Khi xảy ra tai nạn giao thông không chỉ có người điều khiển phương tiện bị thiệt
hại mà có khi còn gây thiệt hại cho người thứ ba khi đó DNBH sẽ đứng ra đóng vai
trò như là người đại diện cho bên tham gia bảo hiểm để thu xếp giải quyết tranh
chấp, quyền lợi giữa chủ xe và nạn nhân một cách khách quan, minh bạch và thỏa
đáng từ đó giảm bớt căng thẳng giữa các bên.
d) Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà Nước để từ đó có điều kiện
đầu tư trở lại để nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng mới cho giao thông, đồng thời
tạo thêm công ăn việc làm cho người dân.
Các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình kinh doanh có nghĩa vụ phải
đóng góp vào Ngân sách Nhà Nước thông qua các loại thuế:thuế thu nhập cá nhân,
thuế thu nhập doanh nghiệp…tức là tăng thu cho ngân sách.
Bên cạnh đó, nhờ có tham gia bảo hiểm mà Ngân sách Nhà nước không phải
chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro thay vào đó
DNBH sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ
giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính, nhanh chóng ổn định đời sống, ổn định hoạt
động sản xuất kinh doanh.
7
II.Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
2.1.Đối tượng được bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tất cả những chiếc xe còn có
giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đặc điểm của xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ
của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm rất
nhiều các loại xe khác nhau: xe môtô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ô tô chở người,
xe ô tô chở hàng hóa, xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng hóa và các loại xe
chuyên dùng khác.
Để có thể trở thành đối tượng bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm thiệt
hại vật chất xe cơ giới, những chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện về mặt
kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: Người chủ xe phải được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về an toàn
kỹ thuật và môi trường.
Khi tham gia bảo hiểm xe cơ giới, người ta thường chia xe cơ giới thành các
tổng thành. Chủ xe có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc tham gia từng bộ
phận xe.Thông thường đối với xe môtô nhà bảo hiểm tiến hành bảo hiểm toàn bộ
xe, còn đối với xe ôtô người tham gia có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc
bảo hiểm từng tổng thành của xe, xe ôtô được chia ra thành 7 tổng thành sau:
- Tổng thành thân vỏ
- Tổng thành động cơ
- Tổng thành hộp số
- Tổng thành cầu trước
- Tổng thành trục sau
8
- Tổng thành hệ thống lái
- Tổng thành săm lốp
2.2. Phạm vi Bảo hiểm
Trong quá trình xe cơ giới lưu hành có rất thể gặp rất nhiều rủi ro, tai nạn, và
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.Từ những yếu tố khách quan như là thời tiết, địa
hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe,
người tham gia giao thông (tình trạng quản lý, bảo dưỡng xe của chủ xe, ý thức,
kinh nghiệm, kỹ năng của lái xe…)
Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định phạm vi bảo hiểm và qui định
loại trừ trong những mẫu đơn bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm rất cần
thiết, để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
2.2.1. Rủi ro được bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường
bao gồm:
- Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật đổ
- Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy nổ…)
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: Bão, lũ, lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa đá…
- Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội: mất cắp, đập phá…
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được
bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty còn thanh toán cho chủ xe tham
gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
9
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi
ro được bảo hiểm
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm
2.2.2 .Rủi ro loại trừ
Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu nhiên,
khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe trong việc
quản lý, bảo dưỡng xe như:
- Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư
hỏng thêm do sửa chữa
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thiết bị, kể cả máy thu thanh, điều
hòa nhiệt độ, săm lốp bị hư hỏng mà không phải do tai nạn gây ra
Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật hoặc độ trầm trọng của rủi ro
tăng lên:
- Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe, lái xe không có bằng lái hoặc
có nhưng không hợp lệ.
- Lái xe sử dụng và bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích
thích khác trong khi điều khiển xe (nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi
thở của lái xe vượt quá quy định).
- Xe không có giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo vệ môi trường hợp lệ (giấy
chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường).
- Xe chở chất cháy, nổ trái phép.
- Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định.
- Xe đi vào đường cấm, đi đêm không đèn.
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
10
Loại trừ rủi ro có tính “chính trị” với hậu quả lan rộng: Chiến tranh.
Những quy định loại trừ khác.
Chẳng hạn như loại trừ những thiệt hại gián tiếp, tai nạn xảy ra ngoài lãnh
thổ nước CH XHCN Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng). Loại trừ thiệt
hại do mất cắp bộ phận của xe.Vấn đề này tùy thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của
người bảo hiểm, và những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.
Những thiệt hại là hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, mất giảm
thu nhập do ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Ngoài ra công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi
thường trong trường hợp chủ xe có những vi phạm sau:
Một là: Cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin ban đầu về đối
tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
Hai là: Khi xảy ra tai nạn, không thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Không áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý tháo dỡ,
sửa chữa xe mà không có sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm.
Ba là: Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây
ra thiệt hại cho cho chiếc xe được bảo hiểm.
2.3. Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, Phí bảo hiểm
2.3.1. Giá trị bảo hiểm
Trong nghiệp vụ BH VCXCG, xác định đúng giá trị thực tế của xe cơ giới là
một công việc rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của của
các bên trong hợp đồng bảo hiểm
11
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế của xe trên thị trường tại
thời điểm tham gia bảo hiểm. Xác định giá trị thực tế của xe thực chất là xác định
giá bán của nó trên thị trường vào thời điểm người tham gia mua bảo hiểm. Để có
thể đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm phải kiểm tra
xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của chiếc xe tham gia
bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định
giá trị xe:
Doanh nghiệp bảo hiểm cùng với chủ xe tiến hành kiểm tra xe để xác nhận
tình trạng của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm, xem chiếc xe này trong tình
trạng như thế nào? Đã bị thiệt hại, tổn thất lần nào chưa, việc kiểm tra này được
thực hiện bằng cách quan sát hiện trạng bên ngoài xe, các vết tỳ, xước va chạm
(nếu có) đồng thời nhân viên khai thác bảo hiểm sẽ hỏi thêm thông tin về tình trạng
của xe và chủ xe phải có nghĩa vụ trả lời trung thực.
Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng với chủ xe thảo luận để xác định giá trị của
xe, trong những trường hợp cụ thể doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện giám
định tình trạng thực tế của xe trong quá trình mà người chủ xe đã sử dụng chiếc xe
đó.
Đối với những xe mới bắt đầu đưa vào sử dụng, việc xác định giá trị của
chúng không quá phức tạp, doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào một trong
những giấy tờ sau đây để xác định giá trị bảo hiểm:
- Giấy tờ, hóa đơn mua bán giữa nhà máy lắp ráp, đại lý phân phối với người
mua, hoặc giữa những người bán nước ngoài và người nhập khẩu.
- Hóa đơn thu thuế trước bạ
Đối với xe nhập khẩu miễn thuế, giá trị bảo hiểm được tính như sau:
12
GTBH=CIF(100%+T1)(100%+T2)
Trong đó:T1 là thuế suất thuế nhập khẩu
T2 là thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
Đối với những xe đã qua sử dụng, việc xác định giá trị bảo hiểm đòi hỏi
nhiều công đoạn phức tạp hơn so với xe mới.Việc xác định giá trị của xe được căn
cứ theo các yếu tố sau đây:
- Giá mua xe lúc ban đầu
- Giá mua bán trên thị trường của những chiếc xe cùng chủng loại, có chất
lượng tương đương.
- Tình trạng hao mòn thực tế của xe. Sự hao mòn của xe được tính toán
dựa trên cơ sở sau: Số km mà chiếc xe đã lưu hành trên thực tế, số năm đã sử dụng
xe, mục dích sử dụng xe, đặc điểm địa hình của vùng mà xe thường xuyên hoạt
động…
- Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế.
Căn cứ vào các tiêu thức đã nêu ở trên, công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo luận và
đi đến thống nhất về giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên việc xác định giá trị bảo hiểm này
không thể nào nhận được một kết quả tuyệt đối chính xác. Giá trị bảo hiểm của xe
chỉ được xác định một cách tương đối chính xác, hợp lý.
Trong thực tế, để phục vụ cho việc xác định giá trị bảo hiểm của xe, hằng
năm các doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng bảng giá theo nguồn gốc sản xuất và
có cập nhật danh sách một số loại xe mới, mác xe, năm sản xuất, dung tích xi
lanh…
13
2.3.2. Số tiền bảo hiểm
Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta phân chia xe cơ giới thành
các tổng thành. Dựa vào cơ sở phân chia đó, công ty bảo hiểm có thể bảo hiểm cho
toàn bộ giá trị chiếc xe, bảo hiểm cho một phần giá trị của xe hoặc bảo hiểm bộ
phận cho chiếc xe được bảo hiểm.
Khi chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ giá trị thì số tiền bảo hiểm được xác
định căn cứ vào giá trị thực tế của chiếc xe vào thời điểm ký kết hợp đồng, đây là
trường hợp bảo hiểm đúng giá trị. Như vậy, để đảm bảo cho quyền lợi của doanh
nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thì việc xác định đúng giá trị thực tế
của xe có ý nghĩa rất quan trọng.
Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị cũng được các doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận, tuy nhiên thường kèm theo quy định về tỷ lệ tối thiểu
giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. Đối với xe tham gia bảo hiểm dưới giá
trị, trừ khi có thỏa thuận khác, nếu thiệt hại xảy ra thì quy tắc tỷ lệ sẽ được áp dụng
đẻ xác định số tiền bồi thường.
Còn nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị thực
của chiếc xe thì được gị là bảo hiểm trên giá trị.
Trên thực tế, không ít chủ xe tham gia bảo hiểm một hoặc một số tổng thành
cho chiếc xe của mình. Trong số các tổng thành của xe thì tổng thành thân vỏ
thường chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi
hậu quả của những vụ tai nạn vì thế nếu chọn một tổng thành để tham gia bảo
hiểm thì chủ xe thường chọn tổng thành này. Đối với trường hợp chủ xe tham gia
bảo hiểm bộ phận, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào tỷ lệ giữa giá trị của
bộ phận được bảo hiểm và giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này là khác nhau ở những chủng
14
loại xe khác nhau, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có những bảng tỷ lệ về giá trị của các
bộ phận so với giá trị của từng loại xe).
Ngoài việc bảo hiểm cho phần thiệt hại vật chất xảy ra đối với chiếc xe được
bảo hiểm, người bảo hiểm còn có thể đảm bảo cho một số chi phí liên quan như là
chi phí hạn chế tổn thất, chi phí cẩu xe, kéo xe từ nơi bị tai nạn tới nơi sửa chữa,
chi phí giám định tổn thất.
2.3.3. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe tham gia bảo hiểm có trách nhiệm
phải thanh toán cho bên bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người
tham gia bảo hiểm đóng phí hoặc chấp nhận đóng phí theo quy định.
Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định
bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm.
Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho thời hạn một năm hợp đồng cùng với
tỷ lệ phí cơ bản đó là quy định về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng có thời
hạn bảo hiểm dưới một năm.
P=STBH*R
Trong đó: STBH:Số tiền bảo hiểm
R:tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào các yếu
tố sau:
- Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra
- Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra
15
- Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn)
Nhìn chung tỷ lệ phí bảo hiểm cũng được xác định dựa trên phương pháp thống
kê, kết quả tính toán về tần suất xảy ra tổn thất và chi phí trung bình /1 vụ tổn thất
và định mức chi phí quản lý của người bảo hiểm.
Như vậy phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe cũng có thể
được tính theo công thức sau:
P=f+d
Trong đó: P: phí thu đầu mỗi xe
f: phí bồi thường
d: phụ phí
Tuy nhiên, việc tính mức phí cụ thể cho các hợp đồng,phải bao quát được
mọi yếu tố có ảnh hưởng đến lớn đến khả năng phát sinh trách nhiệm của người
bảo hiểm. Vì vậy việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản
sau:
Một là: Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe gồm
có:
- Loại xe (xác định bởi mác và năm sản xuất…): Loại xe sẽ liên quan đến
trang thiết bị an toàn, chống mất cắp, giá cả chi phí sửa chữa, phụ tùng thay
thế…
- Mục đích sử dụng xe
- Phạm vi địa bàn hoạt động
- Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe
Hai là: Những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều khiển xe:
16
- Giới tính,độ tuổi lái xe
- Tiền sử của lái xe (liên quan tới các vụ tai nạn phát sinh, các hành vi vi
phạm luật lệ an toàn giao thông)
- Kinh nghiệm của lái xe
- Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm
Ba là: Việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo hiểm và
có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Cơ chế thưởng bằng việc
giảm phí bảo hiểm cũng được áp dụng như là một biện pháp chăm sóc khách hàng.
Các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung.
Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho
những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỉ lệ giảm giá này
cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Ở việt Nam hiện nay, tỷ lệ phí của
các công ty bảo hiểm nhìn chung đều có sự phân biệt giữa xe mô tô và xe ô tô,
giữa cách thức bảo hiểm toàn bộ và bộ phận xe. Tỷ lệ phí cũng được điều chỉnh
cho những trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm (ví dụ cho rủi ro mất cắp bộ
phận xe, bảo hiểm không khấu trừ khấu hao thay mới, bảo hiểm thân xe theo rủi ro
đầu tiên…); trường hợp áp dụng mức miễn thường tăng lên và theo số năm xe đã
qua sử dụng.
Biểu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI (tỷ lệ phí bao gồm cả
VAT) được áp dụng theo bảng 1.2, 1.3 và 1.4
17
Bảng 1.2:Biểu phí bảo hiểm toàn bộ xe
(trường hợp bồi thường khấu hao thay mới)
(Đơn vị:%)
STT
Mức miễn thường
không khấu trừ
(VND)
Tỷ lệ phí (% của số tiền bảo hiểm)
Xe không kinh doanh Xe kinh doanh
1 500.000 1.35 1.50
(Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI)
Bảng 1.3:Biểu phí bảo hiểm VCXCG
(trường hợp không tính khấu hao thay mới)
(Đơn vị: %)
Phạm vi bảo hiểm
Đặc điểm xe
Bảo hiểm toàn bộ Bảo hiểm bộ phận
Xe đã sử dụng dưới 03
năm, còn 85% GT trở lên
1.5 2.5
Xe đã sử dụng từ 03-06
năm, còn 65-85% GT
1.7 2.7
Xe đã sử dụng từ 06-09
năm, còn 50-65% GT
1.9 2.9
Xe đã sử dụng trên 09
năm, còn 50% GT
2.3 3.3
(Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI)
18
Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm tổng thành thân vỏ, phí bảo hiểm cho tổng
thành thân vỏ được PTI tính như sau:
- Xe ca, xe con: Giá trị thân vỏ 53.5%
- Xe tải: Giá trị thân vỏ 31%
Bảng 1.4:Biểu phí bảo hiểm tổng thành thân vỏ
(Đơn vị: %)
STT Loại xe Tỷ lệ phí
1 Xe không kinh doanh 2.0
2 Xe kinh doanh 2.5
(Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI)
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động
một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó
theo công thức sau:
Phí bảo
hiểm
=
Mức phí cả
năm
*
Số tháng xe đã hoạt động trong năm
12
Hoàn phí bảo hiểm: Đó là trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm,
nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó.Trong
trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những
tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe.Số phí hoàn lại được tính như sau:
Phí hoàn = Phí cả * Số tháng không hoạt động * Tỷ lệ phí
19
lại năm hoàn lại
12
Tùy theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí khác
nhau.Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%.
2.4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất
2.4.1. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ. Trình tự
của các bước công việc được tiến hành như sau:
Bước 1: Tiếp nhận, xử lý thông tin về vụ tai nạn
Ngay sau khi xảy ra tai nạn, chủ xe hoặc đại diện cho chủ xe cần phải thông
báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm hoặc đơn vị đại diện của công ty
bảo hiểm ở nơi gần nhất về tình hình tai nạn, đồng thời chủ xe, lái xe phải thực
hiện các biện pháp để hạn chế thiệt hại có thể gia tăng.
Sau khi nhận được thông báo tai nạn của người được bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ cử cán bộ đại diện của mình xuống hiện trường, phối hợp với
chủ xe để giải quyết hậu quả của vụ tai nạn. Những thông tin ban đầu mà nhân viên
giám định bảo hiểm cần phải nắm bắt dược là:
- Số xe, loại xe
- Thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn
- Tên lái xe, số giấy phép lái xe
- Số giấy chứng nhận bảo hiểm , đơn vị bảo hiểm, nội dung bảo hiểm (trách
nhiệm dân sự, vật chất xe…)
- Diễn biến tai nạn
- Nội dung đang được cơ quan nào giải quyết, địa chỉ, số điện thoại liên lạc…
20
- Đánh giá sơ bộ về thiệt hại
Bước 2: Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai nạn.
Việc giám định này chia làm 2 giai đoạn, đó là giám định sơ bộ tổn thất ban đầu và
giám định chi tiết.
Ngay sau khi xảy ra tai nạn, đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chủ
phương tiện (hoặc người đại diện cho chủ phương tiện) tiến hành giám định ban
đầu để xác định thiệt hại sơ bộ
Việc giám định chi tiết thiệt hại của xe sẽ được công ty bảo hiểm và chủ xe
thực hiện trước khi tiến hành sửa chữa xe. Sau khi đã xác định được một cách chi
tiết về những thiệt hại xảy ra , hai bên sẽ xây dựng phương án sửa chữa, xác định
rõ ràng từng bộ phận cần phải thay thế hoặc sửa chữa tùy theo mức độ hư hỏng và
khả năng phục hồi của từng bộ phận hư hỏng đó. Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ
xe sẽ thống nhất lựa chọn nơi sửa chữa với chi phí hợp lý và đảm bảo chất lượng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp
của các giấy tờ, hồ sơ có liên quan đến chiếc xe bị tai nạn như:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Giấy đăng ký xe
- Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường
- Bằng lái xe của người điều khiển xe
Trong quá trình giám định, nhất thiết phải có mặt cả đại diện của doanh
nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm.Nhân viên giám định bảo hiểm phải
chụp ảnh hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn, đồng thời phải phối hợp với công an để
thu thập tư liệu, sau đó lập biên bản giám định.
21
Biên bản giám định là tài liệu chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả
bảo hiểm và truy đòi người thứ ba. Vì vậy, nội dung văn bản này phải đảm bảo tính
trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và
không được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ khác có liên quan. Tuy nhiên
đối với những trường hợp phức tạp thì ngoài biên bản giám định ban đầu cồn phải
có các biên bản giám định bổ sung bổ sung phát sinh trong quá trình sửa chữa.
Quy trình giám định như vậy là để cho công việc giám định đạt được mục
đích cơ bản đó là xác định được chính xác về nguyên nhân xảy ra tai nạn , mức độ
thiệt hại làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo
hiểm.
2.4.2. Bồi thường tổn thất
Trước khi bồi thường cho chủ xe , doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành
thực hiện các khâu công việc sau:
Bước 1: Kiểm tra bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường
Trước khi bồi thường cho người được bảo hiểm , doanh nghiệp bảo hiểm phải
kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khiếu nại bồi
thường bộ hồ sơ này bao gồm các loại giấy tờ chủ yếu sau:
- Giấy yêu cầu bồi thường
- Bản sao các giấy tờ sau:
+Giấy chứng nhận bảo hiểm
+Giấy đăng ký xe
+Giấy phép lái xe
+Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
22
+Giấy đăng ký kinh doanh đối với các loại xe tham gia vận tải hành khách hoặc
hàng hóa.
- Bản kết luận điều tra tai nạn của cơ quan công an
- Quyết định của tòa án (nếu có)
- Các giấy tờ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba khác (nếu có)
- Các giấy tờ chứng minh thiệt hại vật chất của phương tiện.
Bước 2:Xác định cơ sở để tính toán thiệt hại
Việc bồi thường thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm được dựa theo các cơ sở sau
đây:
- Căn cứ vào thiệt hại thực tế và chi phí sửa chữa hợp lý mà hai bên đã
thỏa thuận trong khi thực hiện phương án giám định chi tiết để thống nhất các điều
kiện sửa chữa cho chiếc xe bị tai nạn.
- Căn cứ vào các khoản chi phí khác được chấp nhận bồi thường như
chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí cẩu , kéo xe từ nơi bị tai nạn tới nơi sửa
chữa.
- Căn cứ vào cách thức tham gia bảo hiểm của chủ xe(tham gia bảo
hiểm toàn bộ, tham gia bảo hiểm bộ phận hay tham gia bảo hiểm dưới giá trị và
xem xét chủ xe có tham gia thêm các điều khoản bảo hiểm mở rộng hay không?)
- Căn cứ vào các khoản đòi bồi thường từ người thứ ba gây nên tai nạn.
Bước 3: Trình tự và cách tính toán bồi thường
Quá trình này được thực hiện theo các bước công việc sau đây:
23
Một là: Xác định giá trị thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo
hiểm.Thiệt hại thực tế thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm được tính theo
công thức sau:
Thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm bảo hiểm=Tổng chi phí sửa chữa hợp lý đã
thống nhất+Các khoản chi phí được chấp nhận bồi thường khác-Chi phí sửa chữa
thiệt hại không phụ thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Hai là: Tính toán số tiền bồi thường
- Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ (đúng giá trị thực tế) thì số tiền bồi
thường bằng với giá trị thiệt hại thực tế.
Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi:
+Xe bị thiệt hại trên 75% hoặc đến mức không thể sửa chữa, phục hồi để đảm
bảo lưu hành an toàn hoặc chi phí sửa chữa bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế
của xe.
+Xe bị mất cắp, mất cướp (có kết luận của cơ quan chức năng)
Trong trường hợp này STBT lớn nhất bằng STBH và phải trừ khấu hao cho thời
gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi
xảy ra tổn thất.
- Nếu xe tham gia bảo hiểm bộ phận thì số tiền bồi thường được căn cứ
theo giá trị thiệt hại của bộ phận được bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường giới
hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe.
- Nếu xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì số tiền bồi thường được xác
định như sau:
24
Số tiền bồi
thường
=
Giá trị thiệt hại thực tế thuộc
trách nhiệm của bảo hiểm
*
Số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vi phạm những quy định trong
hợp đồng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể khấu trừ một phần của khoản
tiền bồi thường.Trên thực tế việc giải quyết bồi thường có thể áp dụng theo 3 cách
thức sau đây:
- Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa , khôi phục lại xe
- Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại
- Bồi thường toàn bộ sau đó thu hồi và xử lý xe
Việc lựa chọn cách thức bồi thường phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể
trên thực tế và phải dựa vào mức độ thiệt hại của xe, khả năng khôi phục lại của xe,
chất lượng của nơi sửa chữa , phụ tùng thay thế. Việc lựa chọn cách thức bồi
thường luôn phải đảm bảo tính thống nhất giữa soanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe
để lựa chọn phương án kinh tế nhất, có lợi nhất cho cả hai bên.
Sau khi số tiền bồi thường được xác định, DNBH sẽ thông báo chấp nhận
bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. Và thường có 3
cách bồi thường: thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay thế mới tài sản.
Nếu số tiền bồi thường hoặc chi trả quá lớn, DNBH có thể thỏa thuận với khách
hàng về kỳ hạn thanh toán, thời gian và lãi suất trả chậm…
Cuối cùng là truy đòi người thứ ba nếu như họ có liên đới trách nhiệm trong
trường hợp tổn thất xảy ra hoặc với các nhà bảo hiểm khác trên thị trường tái bảo
hiểm. Thực hiện truy đòi cũng phải nhanh chóng, kịp thời để quản lý tốt các nghiệp
vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan nhiều đến kết quả truy đòi.
25