Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

HÌNH TƯỢNG RỒNG THỜI lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.11 KB, 18 trang )

HÌNH TƯỢNG RỒNG THỜI LÝ
Trên các hiện vật điêu khắc đá và gốm còn truyền cho đến nay , các
nhà khoa học chỉ thấy rồng tạc dưới dạng phù điêu , không thấy
chạm chìm và chạm tròn . Đó là những con rồng thân tròn lẳng ,khá
dài và không có vẩy , uốn khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến
chân , rất nhẹ nhàng và thanh thoát . Các nhà nghiên cứu gọi đây là
rồng hình giun hay hình dây và điều đập vào mắt mọi người là nó
mang hình dạng của một con rắn .
Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên , miệng thì há to , mép trên của
miệng không có mũi , kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại ,
vươn lên cao ,vuốt nhỏ dần về phía cuối . Một chiếc răng nanh mọc
từ cuối hàm trên , uốn cong và vắt qua vòi mép ở trên , có trường
hợp răng nanh rất dài , uốn lượn mềm mại để vươn lên , hoặc với vòi
lên bao lấy viên ngọc .
Thân rồng dài , dọc sống lưng có một hàng vẩy thấp tỉa riêng ra từng
cái , đầu vây trước tua vào hàng vây sau . Bụng là đốt ngắn như
bụng rắn , có bốn chân ,mỗi chân có ba ngón phía trước , không có
ngón chân sau . Vị trí của chân bao giờ cũng đặt ở một chỗ nhất định
.Chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất , chân đối xứng phía
bên kia nằm gần cuối khúc uốn này . Hai chân sau bao giờ bao giờ
cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba . cả bốn chân đều có khủy
phía sau và có móng giống chân loài chim .

Mỹ thuật thời kỳ phong kiến dân tộc độc lập
Mỹ thuật thời Lý
I. Tình hình xã hội thời lý
1. Sự trưởng thành của ý thức dân tộc
Một nghìn năm Bắc thuộc cũng là nghìn năm chống Bắc thuộc. Cuối thế kỷ III
trước CN nước Âu Lạc bị xâm lược và đô hộ, người Việt cổ bị cưỡng bức trực
tiếp nhận văn hoá phương Bắc, song với truyền thống Đông Sơn, ý thức dân
tộc không những không bị xoá bỏ mà còn cố kết mọi người trong các làng


quê. Trên cơ sở đó, từ đầu thế kỷ thứ nhất Hai Bà Trưng đã đàon kết được
nhân dân cả nước, nhanh chóng đánh thắng quan Hán, " đem lại nghiệp xưa
họ Hùng. Nhà nước độc lập đầu tiên ấy tuy chỉ đững vững có nghìn ngày ( 40
– 43) song đã khẳng định sự hình thành và phát triển bước đầu của ý thức
dân tộc.
Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2, bên cạnh quý tộc Việt, một số quý tộc
Hán sang ta nhiều đời đã Việt hoá. Các hào trưởng này ngày càng có uy thế ,
thực chất họ là các thủ lĩnh địa phương, giữ vai trò lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành độc lập. Đồng thời, phất giáo vào nước ta một cách hoà bình, lại
hoà nhập với tín ngưỡng bản địa, truyền bá tư tưởng yêu nước thương yêu
đùm bọc nhau, trở thành ngọn cờ tập hợp mọi người nổi dậy chống cường
quyền. Lý Bí đã phát động cuộc khởi nghĩa từ một ngôi chùa, nhanh chóng
thắng lợi, lập nên nhà nước Vạn Xuân vào năm biểu hiện sức bật mạnh mẽ
của dân tộc. Nước Vạn Xuân tồn tại trong tình hình mâu thuẫn nội và ngoại
đều rất phức tạp, song đã kéo dài được gần 60 năm ( 544 – 603), khẳng định
sự gắn bó cảu ý thức dân tộc với độc lập và tự do.
Sau đây, lịch sử lại thử thách dân tộc ta nhiều lần nứa. ý chí thà hy sinh chứ
không chịu làm nô lệ đã dấy lên nhiều phong trào đấu tranh cả vũ trang và
chính trị, bác bỏ dưới nhiều hình thức sự thống trị của phong kiến phương
Bắc trên đất nước ta. Sau những thắng lợi tạm thời ở các thế kỷ VII – VIII –
IX, từ đầu thế kỷ X trên thực tế nhân dân ta đã giành được quyền tự chủ.
Thế rồi, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, Ngô Quyền đã chính
thức giương cao ngọn cờ độc lập, chấm dứt hẳn đêm trường Bắc thuộc.
Độc lập đã có, nhưng chưa thoát ly được tính chất địa phương mà các thủ
lĩnh muốn hùng cứ, nên ngay sau khi Ngô Quyền mất ( 944) đất nước lại rơi
vào tình trạng hỗn loạn mười hai sứ quân. Phất cao ngọn cờ thống nhất, năm
968 Đinh Bộ Lĩnh thu giang sơn về một mỗi, lập nên nước Đại Cồ Việt với
kinh đô Hoa Lư. Độc lập và thống nhất đã xác lập song đều bị đe doạ, sau khi
Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, nhà Tống lại lăm le xâm lược. Lê Hoàn vừa được
suy tôn lên ngôi hoàng đế đã tổ chức ngay cuộc kháng chiến và giành thắng

lợi rực rỡ vào mùa xuân năm 981, gây niềm tự hoà dân tộc và niềm tin chắc
chắn ở tiền đồ đất nước. Nhưng sau khi Lê Đại Hành mất, nội tình triều đình
lục đục và mất niềm tin trong nhân dân thì tầng lớp trí thức xã hội đã tạo dư
luận để chuyển chính quyền hoà bình sang nhà Lý.
Vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng đất nước đàng hoàng ngay sau khi lên
ngôi đã chuyển kinh đô từ vùng Hoa Lư thủ hiếm ra giữa đồng bằng lấy tên
là Thăng Long để " mưu toan nghiệp lớn". Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là
Đại Việt thể hiện ý thức tự tôn, bình đẳng với Đại Tống khi phát hiện âm mưu
xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt đã hành động tự vệ tích cực là tấn
công triệt phá hậu cần địch rồi rút về phòng ngự ở tư thế chiến thắng, sau đó
ngay trong chiến đấu đã dõng dạc tuyên bố " Nam quốc sơn hà Nam đế cư"
khẳng định chủ quyền đất nước với quyết tâm của dân tộc bảo vệ chủ quyền
ấy, có giá trị là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên cảu dân tộc. Thắng lợi quân
sự rồi, trên cơ sở trưởng thành của dân tộc về mọi mặt, nhà Lý tiếp tục đấu
tranh ngoại giao đòi độc lập cả về pháp lý : Vua Lý Anh Tông không chịu
nhận chức " Giao chỉ quận vương", buộc nhà Tống thừa nhận là " An Nam
quốc vương", cũng có nghĩa phải công nhận nước ta là một vương quốc độc
lập.
Như vậy ngay trong buổi đầu Bắc thuộc, ý thức dân tộc đã hình thành để
luôn trườn khỏi mọi sự đồng hoá văn hoá và dân tộc, từng bước đấu tranh
với nhịp điệu ngày càng dồn dập, đi từ thắng lợi tạm thời đến thắng lợi dứt
khoát. ý thức dân tộc lại đòi hỏi Độc lập phải gắn với thống nhất, khắc phục
mọi trở lực bên trong và từ bên ngoài, ý thức áy ngày càng trưởng thành
càng đòi hỏi nhà nước luôn đặt dân tộc ở thế phát triển, thế chủ động, được
bình đẳng cả trong thực tế và pháp lý với quốc gia và mọi dân tộc khác. Đó là
chân lý không thay đổi, cũng là cơ sở để xây dựng đất nước cường thịnh.
2. Sự cường thịnh của nước Đại Việt.
Trong ngàn năm Bắc thuộc, sức sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Những
thời gian độc lập ngắn ngủi trước thế kỷ X luôn bị phương Bắc đe doạ. Các
nhà nước Ngô - Đinh – Tiền Lê quá ngắn ngủi, xã hội chưa ổn định, chính

quyền trung ương chưa đủ sức với tới cả nước, luôn tập trung cho sự nghiệp
giữ nước nên công cuộc dựng nước chưa làm được bao nhiêu.
Sang thế kỷ XI với vương triều Lý, nhà nước trung ương tập quyền hoàn toàn
thắng thế, liên tục phá Tống bình Chiêm, đưa uy tín nước Đại Việt lên đỉnh
cao. Đối với dân tộc, nhà Lý đóng vai trò rất tích cực, có nhiều chính sách
toàn diện để xây dựng một quốc gia độc lập vững chắc. Chính sách khuyến
nông được đặc biệt chú ý như giải phóng nô tì, gửi quân đội vào nhà nông
( ngự binh ư nông), bắt người đào cong về quê nhận ruộng sản xuất, tổ chức
khẩn hoang, xây dựng công trình thuỷ lợi, chăm sóc trâu bò để có sức kéo.
Chính vua Lý Thái Tông đã trực tiếp cày tịnh điền " để có xôi gạo cũng tổ tiên
và nêu gương cho thiên hạ", thân đi xem xét thuỷ lợi Do đó mặc dầu kỹ
thuật nông nghiệp còn thấp kém, song nông nghiệp phát triển khá mạnh, sử
cũ ghi nhiều lần được mùa to, lại còn những hiện tượng lạ như mua ra thóc,
mua ra gạo, lúa 9 bông, cau chín 9 buồng và chim thú quý xuất hiện liêu tục
đều biều hiện xã hội thái bình thịnh trị. Trái lại, về việc mất mùa đói kém,
triều Lý chỉ xảy ra có 4 lần và đều thuộc vào giai đoạn cuối ( các năm 1156,
1181, 1199, và 1208). Chẳng những vào những năm đại hạn hay lụt lội, mà
cả những năm được mùa lớn, nhà nước cũng xá tô thuế cho nhân dân, có khi
tới 3 năm " để yên ủi sự lặn lội khó nhọc". Chính vì thế nông dân rất yên tâm
làm ăn, không có yêu cầu khởi nghĩa, một vài cuộc nổi dậy là của các dân tộc
ít người và ở miền biên viễn.
Thủ công nghiệp cũng có nhiều tiến bộ Các nghề gắn với xây dựng như
làm gạch, ngói và chạm khắc gỗ, đá phát triển mạnh. Đồ gốm đạt tới trình độ
cao, nhất là gốm men ngọc. Công nghiệp khai thác thiếc, bạc, đồng, vàng
và kỹ thuật đúc đồng đạt được nhiều thành tựu. Theo thư tịch và truyền
thuyết, thời Lý có bốn khí vật cực lớn ( tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền,
phật Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh hay Phả Lại) đều được đúc bằng đồng. Với
sự phát triển của nghề dệt, các vua Lý thưởng tỏ ý không dùng gấm vóc của
Tống nứa. Nhiều sản phẩm thủ công đã trở thành hàng hoá. Nông thôn khắp
nơi có chợ, kinh đô Thăng Long phố xã tấp nập. Ngoại thương cũng được mở

rộng, lập cảng Vân Đồn để đón tàu buồn các nước. Và nhờ đó Việt Nam được
tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, càng có điều kiện tiếp nhận ảnh
hưởng bên ngoài để làm giàu văn hoá của mình.
Cơ sở kinh tế ổn định là nền tảng cho sự phát triển xã hội. Với nền kinh tế lúa
nước, người nông dân luôn phải " trông trời", thì trong thời Bắc thuộc đã hoà
nhập tín ngưỡng thờ các hiện tượng thiên nhiên với phật giáo, tạo ra một hệ
thống các chùa " Tự Tháp". Cho đến thời lý, trong phật giáo ngoài hai dòng
Thiền đã có là Tì NI Đa Lưu Chi và Quang Bích, giờ thêm dòng Thảo Đường
gắn kết được cả nho giáo với phật giáo, như vậy vừa tập hợp được toàn dân
vừa phục vụ được sự quản lý của triều đình. Vì thế nhà Lý ngay từ đầu và
trong suốt cả vương triều đã cho xây dựng rất nhiều chùa tháp. Bên cạnh đó,
nhà Lý cũng coi trọng Nho giáo, xây Văn Miếu, lập trường Quốc Tử Giám và
mở khoa thi cấp cao để đào tạo và tuyển lựa nhân tài cho bộ máy cai trị.
Năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình Thư là bộ luật thành văn
đầu tiên của nước ta, làm cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội ổn định.
Chính ý thức dân tộc trưởng thành đã thôi thúc xây dựng một nền văn hoá
nghệ thuật dân tộc đặc sắc và toàn diện. Mong muốn của toàn dân và cảu
triều đình nhà Lý lại được sự cường thịnh của đất nước tạo điều kiện để biến
hoài bão thành hiện thực.
II. Đặc điểm mỹ thuật thời Lý
1. Nghệ thuật kiến trúc.
Trên cơ sở" thức kiến trúc Đông Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc,
nhân dân ta lại tiếp thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa
tháp. Hẳn trình độ xây dựng của thợ Việt có tay nghề cao, nên thái thú Tôn
Tú đã bắt hơn nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc để giúp vua Ngô xây
dựng kinh đô Kiến Nghiệp. Ngay khi đất nước giành được độc lập, công việc
hàng đầu là phải " an cư" và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau
khi đã định đô thì phải dựng đô.
1.1. Kiến trúc thành Thăng Long
Nếu Ngô Vương Quyền mở đầu nên chính thống, để có chỗ làm việc ngay đã

dùng lại kinh đo Cổ Loa vốn xây dựng từ hơn nghìn năm trước; Đinh Tiên
Hoàng thống nhất đất nước xây dựng kinh đô Hoa lư ở gần quê hương có núi
sông hiểm trở, và vua Lê Đại Hành vừa thắng ngoại xâm vẫn cần đến Hoa Lư
để thủ thế, thì vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng một quốc gia đàng
hoàng, sau khi hỏi ý kiến và được quần chúng đồng tình, đã quyết định xây
dựng kinh đô mới là Thăng Long.
Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010 đến mùa xuân
năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung vào năm 1029 và 1203. Với dấu
tích hiện còn bờ đê và những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép
kín dài trên 20km, được xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi giữa
đồng bằng, các núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước bằng
đường bộ hoặc bằng đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự đều thuận
lợi, từng được khai thác từ đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ X đã trở thành
trung tâm kinh tế – văn hoá " muôn vật cực kỳ giàu tịnh đông vui".
Vòng thành đất đắp trên là giới hạn hoàn bộ kinh thành cũng là phòng thành
chống lụt và ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị
thần bảo hộ cho kinh thành : phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại
vương là thần núi, phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là thần
sông. Các thần núi, thần sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sông chính là
biểu hiện củaTổ Quốc. Phía Đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là
biểu trưng của mặt trời, được tiếp nhận từ văn hoá ấn Độ, phía Bắc có đền
Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa có
tài trừ ma quỷ.
Bên trong phòng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hoàng thành và khu
dân cư ngăn cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các
tên nhằm cầu phúc cho dân tộc : cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quang
Phúc ở phía tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở phía bắc. Trong
hoành thành, ngay lần mới xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn
Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng
Võ là nơi làm việc của vua. Phía sau dựng điện Long An và Long Thuỵ làm

chố nhà vua nghỉ ngơi, hai bên phải trái có điện Nguyệt Minh và điện Nhật
Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa và Long Thuỵ để cung nữ ở. Năm 1029
làm lại điện Càn Nguyệt và bị sét đánh, đổi tên là điện Thiên An, hai bên phải
trái có điện Diên Phúc và Tuyên Đức, phía đông có điện Văn Minh và phía tây
có điện QuảngVũ, hai bên có gác chuông để dân kêu việc thì đánh. Trước
thềm rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để báo giờ giấc.
Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long Đồ để ngắm cảnh.
Giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân là dựng điện Thiên Khánh để vua
nghe chính sự. Đợt xây dựng năm 1203 xây một loạt cung điện ở phía tây
tẩm điện, có cả ao nuôi cá dưỡng ngư nước thông với dòng sông. Lần bổ
sung này, các cung điện được " chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ
mộc đẹp đẽ xưa chưa từng thấy" ( Việt sử lược). Trong Hoàng thành còn có
đài Chúng Tiên lợp ngói vàng và ngói bạc, có chùa Hưng Thiên với quả
chuông bằng 310 lạng vàng, chùa Vạn Tuế, chùa Chân Giáo và nhiều hồ
ao, vườn ngự để vừa tôn cảnh trí vừa điều hoà khí hậu, đảm bảo môi trường
xanh, đẹp.
Ngoài Hoàng thành là nơi sinh hoạt cảu đủ tầng lớp xã hội, về cơ bản cũng
quy hoạch theo bốn phía. Phía bắc có hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) là thắng cảnh
nổi tiếng với đền Đồng Cổ tổ chức hội Thề hàng năm, đền Quáng Thánh,
cung Từ Hoa để công chúa cùng các cung nữ trồng dâu nuôi tằm, có các làng
hoa Nhật Chiêu, Nghi Tàm, Quảng Bá cung cấp hoa cho kinh thành. Phía nam
có phủ đệ của các thái tử, hoang tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn
miếu và trường Quốc Tử Giám, chùa Thắng nghiêm với lầu Thiên Phật và quả
chuông 800 lạng bạc, đàn Xã Tắc để cầu được mưa và đàn Hoàn Khâu để tế
giáo, có trường bắn để đua ngựa, bắn cung và tập võ. Phía Đông là nơi buôn
bán nhộn nhịp, có hồ Lục Thuỷ với tháp Báo Thiên là đài chiến thắng, sông
Hồng thường mở hội đua thuyền. Phía Tây là khu nông nghiệp, có 13 trại mới
được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi, các vua Lý thường tổ chức
lễ mừng sinh nhật ở đây.
Khi thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông

To Lịch là con rồng vươn mình từ sông Nhuệ, ngoi lên sông Hồng đón ánh
dương và nhận nước, có rốn là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp
vào hồ Trúc Bạch và hồ Gia Ngư.
Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân
bố cân đối hai bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân ( sĩ – nông – công –
thuông ) có một hku vực hoạt động riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng
cảnh và di tích, nhiều sinh hoạt văn hoá của triều đình.
1.2. Kiến trúc tôn giáo
Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và một số nơi còn để
lại dấu tích chùa tháp, mà tháp mới là công trình trung tâm.
a. Tháp phật
Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp
phật Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long Riêng tháp chùa Báo Thiên
với tên Đại Thắng Tư Thiêm lại mang tư cách đài chiến thắng báo công với
trời.
Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện
vuông, tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng
lên cao càng thu nhỏ dần, theo những hình tháp in trên gạch và tháp thời
Trần thì chiều cao tháp thường bằng chu vi chân tháp. Một số tháp đã khai
quật có cạnh chân dài từ 8m đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn
30 m đến hơn 70m, phù hợp với tháp cảu BảoThiên được sử cũ ghi là cao vài
mươi trượng và văn học xây dựng thành hình tượng cột trụ chống trời. Nền
móng tháp phải vững chắc, xây tường dầy và dất cấp, trong nền trộn đất sét
với sỏi đá. Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ biểu thị sự phát triển, dấu
tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9 thậm chí 13 tầng, riêng
tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn ( 12 hay 30 tầng) lại biểu thị sự ổn
định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tuỳ tháp mà thuần gạch, thuần đá
hoặc xem kẽ gạch với đá, cả đồng nữa, có cả tháp gốm men. Mặt ngoài tháp
được khắc rạnh, những hình rồng, vòng sánh đức phật. Những bộ phận nhô
ra được gắn tượng người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên

bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên nhiên mà vẫn nổi trội, là
điểm tựa tâm linh cảu mọi người.
b. Chùa
Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngồi nào còn đến nay, một số ít chỉ để
lại nền móng ( như các chùa phật Tích, Vĩnh Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh,
chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà
Nam ), số khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim
Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ở Thanh
Hoá), chùa Một Cột ( Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều,
chỉ có thể biết qua thư tịch và ý đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa
trong nước làm ba loại là Đại – Trung và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số
ruộng và số người giúp việc nhàchùa, song dưới góc độ nghệ thuật có thể
chia làm bốn loại:
- Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có " Lầu chuông một
cột, sáu cạnh, hình hoa sen " trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh
Hoá) có toà sen trối lên mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng
rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu tự được bia và sử cũ miêu tả:
chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh và cầu cong đi vào,
riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn cách sen. Đỉnh cột dựng
ngôi chùa mang hình bông sen là " y theo mưu mới, lại đưa vào dấu tích
xưa". Dấu tích xưa là là kiểu nhà mái tròn khắc trên trống đồng Đông Sơn, là
cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên cành cây Trên cơ sở đó đã
sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ cảu vua Lý Thái Tông được Quan Âm dắt
lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 20m, vậy ngôi chùa trên
đó phải lớn và toàn cảnh rất rộng.
- Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà
vua ghé thăm, để lên chùa, tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được
xây ở nơi thắng cảnh, gần với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng
thời cũng hay có tháp phật để trải rộng lại vươn cao.Hình điêu khắc ở những
chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho vua.

Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường long, Long Đọi, Chương Sơn.
- Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng thương tham gia đóng
góp, có thể dựng ở các sườn núi ( như chùa Vĩnh phúcm chùa Tĩnh Lự ở Bắc
Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi đầu làng ( như chùa Bà Tấm ở Hà Nội,
chùa Hương Lãng ở Hưng Yên), mặt bằng khá rộng, điều khắc không có hình
rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử đội toà sen mà
dân gian gọi là " ông Sấm" gắn liền với việc cầu đảo cần cho nông nghiệp lứa
nước.
- Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo ở
Bắc Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây), quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi,
không được thư tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá.
Đôi khi có sự tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
Kiến trúc chùa thời Lý tuy không còn, song thư tịch đương thời đôi khi có
miêu tả, chẳng hạn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh cho biết : cầu nhà
cong cong như cầu vồng nhô ra sau cơn mua tạnh, mái đắp uyên ương xập
xoè múa lượn trong gió, nóc nhà uốn như chim trí xoè cánh, hình phạm trên
đầu như phượng múa lại chầu, mái cong lấp lánh dưới nắng và hiên quanh co
trước gió, hành lang bao quang tường vách sạch bụi Lại sắm chiếc giường
cho khách lỡ đường nghỉ trọ, còn xây bếp núc giúp người phương tiện. Thực
là cảnh chùa ngăn nắp, tượng phật trang nghiêm.
Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý có quy mô lớn, được
xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng
thể kiến trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hoà nhập với môi trường để
hài hoà với tự nhiên và nâng quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn
với quý tộc cũng gắn với toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân
an lạc.
2. Nghệ thuật điêu khắc
Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây
tháp cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp vàng cao 6
thước, trước thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng

có bia đề cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí.
2.1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương người chim và tượng
thú. Mỗi loại còn được vài pho
a. Tượng phật Thế Tôn
Các chùa Phật Tích, Ngô Xá ( Chương Sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để lại mỗi
chùa một pho tượng Phật. Các chùa Thầy, chùa Chèo và chùa Sùng Nghiêm
Diên Thánh không còn tượng nhưng còn bệ tượng và toà sen thích hợp với
một pho tượng Phật ngồi trên.Các chùa Một Cột, Long Đọi, Linh Xứng được
văn bia xác nhận có tượng Phật.
Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền cao
1m85 ( tương đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm
lại toà sen cao thêm 0m84 nữa, vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp
vàng. Đã từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ phần lõi được chạm rất
cẩn thận và hoàn chỉnh. Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng, ngồi
thiền khuỳnh hai đầu gối, lưng thẳng đứng, mắt hơp cúi xuống, do đó từ trên
cao có sự giao cảm với các Phật tử đang chiếm bái. Toàn thân tượng khuôn
trong đường viền khép kín, nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ chập chờn
– nhất là khi được chiếu sáng. Tượng mang vẻ đẹp quý phái cảu người phụ
nữ Việt Nam. Mặt trái xoan, cổ cao 3 ngấn, thân hình dong dỏng, mình mỏng.
Đỉnh đầu có nhục kháo nhô cao, tóc xoăn, tai dài là những quý tướng. Đôi
mắt đăm chiêu khép hở, cặp lông mày thanh cong giao tế nhị, các ngón tay
thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả vai phải, rồi lượn
theo các nếp áo như trôi chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân mình vì bị "
vướng". Tượng được tạo bằng những mảng khối óng mượt, đường nét minh
triết, từng chi tiết tao nhã và trí tụê. Tất cả toát lên vẻ đẹp cổ điển về một
tâm hồn từ bi, vị tha. Khối tượng tính lặng, trang nghiêm nhưng được đặt
trên toà sen nửa khối cầu lại toạ ấn tượng chao đảo. Toà sen này làm lại ở
thời sau, hơi nhỏ so với khuỳnh chân ngồi thiền. Đối chiếu với bức bệ tượng
các chùa khác cùng thời kỳ dưới toà sen còn thiếu khối tượng sư tử hay đôi

lân chầu ngọc. Phần dưới cùng là bệ bát giác khối nón gồm nửa dưới là
những lớp sóng vừa dàn ra lại vươn lên, từng đợt mênh mông vô tận, nửa
trên là hai tầng bậc cấp thu vào, có mặt nằm chạm hoa dây như cúc cuống
hoa có người bé tí leo trèo, có mặt đứng chạm rồng rắn thoắt đuôi nhau,
Ngược với khôi tượng trơn, phần bệ phủ kín hoa văn với kỹ thuật tỉ mỉ, chính
xác như chạm vàng bạc.
Chùa Ngô Xá ở chân núi cũng có pho tượng Phật đưa từ phế tích tháp
Chương Sơn ở đỉnh núi xuống, lớn bằng người thực, cấu tạo chung giống như
tượng chùa Phật Tích, nhưng khuôn mặt thực hơn với người Việt ( long mày
không giao nhau, mũi hơi gãy, mặt hơi xếch, tai không chảy). Tượng Phật
chùa Kim Hoàng bị mất đầu, thân hình cso thô hơn tượng Phật Tích một chút
nhưng về tổng quát lại rất gần gũi.
b. Tương Kim Cương
Thư tịch nói rõ bốn cựa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương
trấn giữ. Tượng Kim Cương chùa phật Tích dược đưa về Bảo Tàng Lịch Sử
Việt Nam. Tượng Kim Cương chùa Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là
tượng tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm. Tượng to băng người thực,
đẹp khoẻ mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đồn hậu, là võ tướng
nhưng không ở các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước
bụng, trên y phục được chạm nhưng bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm
giác toàn thân tượng như phập phồng thở. Tấm đá nền sau tượng, ở diềm
đứng chạm các ô tròn hoa sen to và nối với nhau bằng hình người bé ti trong
ô tròn nhỏ.
c. Tượng người chim
Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được một
số tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng mái.
Đây là nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn thêm
đôi cánh, nửa dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh chũm
choẹ, còn ở Phật Tích có người chim đánh trống cơm, có người chim gẩy đàn
nguyệt. Là nhân vật thần thoại song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ

thuật sôi nổi, nét mặt tập trung vào âm thanh cảu những nhạc cụ đang biểu
diễn, đôi canh cũng như vỗ theo và những túm lông đuôi uốn lượn bay lên
mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc công thiên thần.
d. Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là "
ông Sấm", thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú
dàn thành một hành ngang hai bên cửa đối nhau.
ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai con đội chung một toà sen, ở
thế nằm cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một
con chạm cả phần đuôi, dài 2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình
dáng là con sư tử phủ phục đội toà sen, trán có chữ Vương là chúa rừng
xanh. Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hang
hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bông hoa nhiều cánh,
phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng
do ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là " ông Sấm"
Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê
giác – ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là
những con vật thiêng cảu thế giới nhà Phật.
Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật
thần thoại gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng,
chạm tinh tế, thống nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5
loại thú đề là những con vật thực, từ con vật rất thân thuộc ( trâu) đến
những con vật hầu như không có ở Việt Nam ( sư tử) nhưng đều được chạm
rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, cso phần xa với phong cách Lý
mà đến thời Trần mới phát triển.
2.2. Chạm khắc trang trí
Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh
khéo như chạm vàng, bạc. ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ
nữ và hoa lá.
a. Hình rồng rắn

Có một số con rồng rất lớn, thân đuôi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa
Dạm, đế bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật
Tích), song phần lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số
đồ án gọn xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá đề, nửa lá đề nhưng
luôn thống nhất về cấu tạo : đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn
xoắn với môi trên lại có thêm đường viền thành chiếc mào phập phồng như
ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co dãn, lông mày cuộn vòng lên cả hai đầu và
cạnh đó là hình trang trí chứ S không bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về
nguồn nước.
Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng
sức bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì không
phân biệt được thân với đuôi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và dưới
bụng là dãy nếp gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân trước
mọc lệch chố và2 chân sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn, chân
nào cũng như múa rất dẻo, mỗi chân có ba ngón với móng cong nhịn sắc như
của chim. Một số người quên gọi là rồng giun, nhưng ngay ở đương thời
người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bản
rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con vật thần thoại mà thân thuộc
như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có khí là hoa lá. Trong
cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và lương tĩnh, tuy
đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng nguồn
nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư dân gắn
vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc và
con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt Nam, có tiếp
nhận mộ số yếu tố văn hoá Đông Sơn và văn hoá phương Nam, rất khác rồng
Trung Quốc trước và cùng thời với nó.
b. Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột cảu thời Lý được dừng lại, mặt
trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn
nhạc giống nhau.

Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra
một khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải
dấu móc tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại
chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm
để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông
hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng
cho đức Phật. Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang
múa tiến vào vòng sáng, động tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn
những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào giữa là trống cơm và
trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp
phách nở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vặn ba
khúc, từ búi tóc cao và cổ chân còn toát ra nhưng dải lụa bay lượn nhịp
nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể tròn lẳn.
Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ
lớn bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ công đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả
2 mặt giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng
hoa mặt trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì
để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình
vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình đều to, rõ và dáng chung như các
nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả
hoa và lá sen cuộn tròn.
c. Hình hoa lá
Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường chạm
hoa lá theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa với
nhữg lá nhỏ toả về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy
từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có
khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại
hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc),
song trong văn hoá tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần

Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu
trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết.
Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí
dương. Còn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là
dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen
nhau còn là sự hoà hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và
do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí trèo sống động.
3. Nghệ thuật hội hoạ
Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách cảu công trình
kiến trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó
bảo quản và bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa do
con người và thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể
chút ít về tranh, và một phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố
hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý " ở trên lầu bốn tầng Tất cả cung điện ở
Thăng Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ". Các chùa lại càng hay
dùng tranh vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có " cung sơn
điện vẽ san sát trong núi" có " cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng" có " góc cao vẽ
sao ngưu và sao đẩu sáng láng". Nếu những hình vẽ trên chủ yếu để trang
trí, thì ở một số chùa khác lại mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa
Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn ( Thanh Hoá) dựng khi khánh thành chùa cho
biết: " Quang tường thuê vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương,
cùng với mọi hình tướng biến hoá muôn hình vạn trạng không sao kể xiết".
Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người
học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục
khối vuông, được viết đẹp cũng là những bức trang chữ thuộc loại " thư hoạ".
Thư tịch cho biết vua Lý Nhân Tông " viết bút lông rất khéo, chữ như rồng
múa phượng lượn, phép theo tay nghọc của ngài như chim loan vòng, chim
thước nhảy". Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa
và viết chữ ban cho để khắc vào bia.

Nhưng hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này còn
giữ được một số hình khắc chìm, tức vẽ bằng vật cứng khi xương gốm mới
làm xong, sau đó tô men và nung. Những hình vẽ này thường chỉ là hoa lá,
đôi khi có cả chuồn chuồn, ong, bướm và em bé nữa, chưa thành bức tranh,
nhưng cho thấy các yếu tố hội hoạ, nó bắt nguồn từ cuộc sống và được thể
hiện một cách hiện thực.
Mặc dù nhà Lý quản lý đất nước sau khi thoát khỏi Bắc thuộc đã hơn 70 năm,
sog hầu như không được thừa hưởng thành quả mỹ thuật của các triều Ngô -
Đinh – Tiền Lê. Nhưng mỹ thuật Lý vừa xuất hiện đã đạt được vẻ đẹp cổ điển
chuẩn mực, nó là biểu hiện cảu ý thức muốn xây dựng một quốc gia đàng
hoàng có nền văn hoá riêng, nên trên cái nền xã hội thái bình thịnh trị, được
Phật giáo gợi hứng đã biết sáng tạo trên cơ sở sự hứng khởi của đất nước,
khai thác yếu tố thích hợp từ trong vốn cổ Đông Sơn và qua giao lưu lại tiếp
nhận một phần thành quả của các nền văn hoá láng giềng. Đó là hướng đi
đúng, tạo phẩm chất nghệ thuật cao cho mỹ thuật Lý.
III. ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội tới sự phát triển mỹ thuật thời
Lý.
Ngày 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 21 tháng 11 năm 1009) Lý Công Uẩn
lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Sau khi chọn Đại La để kinh
đô, tháng 8 năm 1010 Lý Công Uẩn rời Hoa Lư ta Đại La. Do sự kiện "có rồng
vàng hiện lên thuyền ngự" nên thành Đại La được đổi tênlà thành Thăng
Long. Từ đây Thăng Long trở thành nơi định đô cho nhiều triệu đại phong
kiến Việt Nam. Lúc đầu, tên nước vẫn giữ là Đại Cổ Việt, nhưng đến thời Lý
Thánh Tông, tên nước được đổi thành Đại Việt. Điều này một lần nữa khẳng
định ý thứcdân tộc tự chủ. Trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta
đãliên tục đấu tranh giành độc lập, không chịu sự đồng hoá của phương Bắc.
Bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) đã khẳng định sự tồn
tại của dân tộc, sánh vai với các nước khác. Đến thời Lý, với tên nước Đại
Việt, điều này càng được khẳng định.
Sau khi lên ngôi, để phát triển kinh tế nông nghiệp, nhà vua đã ban chiếu

khuyến nông bắt những người đào vong trở về bản quán làm ăn. Mặt khác đã
tăng cường lực lượng sản xuất nông nghiệp Nhà nước còn ban hành chính
sách " ngụ binh u nông" các quân được thay phiên nhau về làm ruộng. Ngoài
ra Nhà nước còn chú ý đến việc đắp đê và các công trình thuỷ lợi, bảo vệ trâu
bò, sức kéo trong nông nghiệp. Nhờ những chính sách tích cực đó đời sống
của các cư dân dần được ổn định, tạo cơ sở vật chất cho nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền. Các vua nhà Lý vẫn giữ lệ cày tịch điền của thời
tiền Lê. Điều này cũng góp phần khuyến khích nông nghiệp phát triển. Ngoài
ra các hoạt động thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển như dệt vải
lụa, đồ gốm, đúc đồng, khai thác vàng, nghề in, nghề khắc gỗ… Thương
nghiệp mở rộng buôn bán cả nội ngoại thương. Cảng biểnVăn Đồn phát triển.
Nhiều thuyền buôn từ Xiêm La (Thái Lan), Thảo oanh (Đào Java - Indonexia)
… đến dâng lễ vật, xin cư trú buôn bán.
Vào đời Lý, nhất là trong khoảng thế kỷ XI, công cuộc xây dựng đất nước bắt
đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát
triển của dân tộc và quốc gia phong kiến độc lập. Triều đình nhà Lý đứng đầu
là vua rồi các chức năng văn võ được chia thành chín phẩm cấp. Năm 1070
nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử và mở Quốc Tử Giám ở kinh
thành làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc, quan lại. Năm 1075 Nhà
nước bắt đầu mở khoa thi để chọn lựa nhân tài cho bộ máy nhà nước. Quốc
Tử Giám được coi là trường đại học đầu tiên của đất nước ta, mở đầu cho
hoạt động giáo dục - đào tạo.
Cùng với sự phát triển của chế độ trung ương tập quyền, đến đời Lý hoạt
động lập pháp của Nhà nước bắt đầu phát triển. Năm 1042 Lý Thái Tông cho
ban hành bộ Hình thư. Đây là bộ sách gồm 3 quyển, trong đó định luật lệnh
thích hợp với thời thế, mọi người lấy đó làm theo. Mặc dù nay đã thất truyền,
song với sự ra đời của Hình thư cho thấy rõ chất chất pháp luật thời Lý. Đây
có thể coi làbộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Sau Hình thư vua còn
quy định thể lệ chuộc tội bằng tiền, nhiều ít tuỳ theo độ nặng nhẹ của tội….
Mặc dù vậy, tất cả những hoạt động trên mới chỉ là bắt đầu. Nó chứng tỏ một

bước tiến trong tổ chức quản lý nhà nước, song chủ yếu là bảo vệ quyền lợi
cho nhà nước phong kiến, quan lại, quý tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội, và
hiệu lực của nó còn hạn chế
Trong xã họi thời Lý, nhất là trong các làng xã, tín ngưỡng dân gian với các
tục lệ thờ cúng… vẫn được duy trì và ăn sâu trong nếp nghĩ của người dân.
Với việc mở mang thi cử, học hành, nho giáo cũng bắt đầu thâm nhập, được
truyền bá vào Việt Nam. Trước đây trong xã hội tầng lớp có học là các nhà
sư, thời nay có thêm tầng lớp nho sĩ được đào tạo theo ý thức hệ phong kiến.
Phật giáo được phát triển và có ảnh hưởng lớn trong nhân dân, quý tộc… Tuy
vậy, để có thể ăn sâu trogn quần chúng nhân dân, tất cả các tôn giáo ngoại
nhập trên đều phải hoà hợp pha trộn với tín ngưỡng dân gian. Nhiều công
trình kiến trúc chùa pháp được xây dựng phục vụ cho nhu cầu tôn giáo.
Nhưng về mặt kiểu dáng, cấu trúc lại hoàn toàn mang tính dân tộc sâu sắc.
Như vậy Phật giáo chỉ ảnh hưởng và được truyền bá vào Việt Nam bằng nội
dung, tinh thần còn nghệ thuật Phật giáo Việt Nam mang một phong cách
sáng tạo riêng, độc đáo và đặc sắc. Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài
hoà nhiều yếu tố tôn giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo) với tín ngưỡng
phong tục, tập quán dân gian. ở thời Lý, đạo Phật phát triển mạnh "nhiều vua
nhà lý nhưng lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Công và Lý Huệ Tông đã
từng đi tu. Vua Lý Thánh Tông còn lập ra một phái thiền tông mới ở Việt
Nam, phái thảo đường. Các sư tăng có địa vị trong xã hội, thậm chí một số vị
sư còn giữ nhiều trọng trách trong điều đình và tham gia vào nhiều hoạt
động chính trị.
Tất cả mọi điều kiện xã hội đã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
mỹ thuật thời Lý. Sự phát triển và ổn định của kinh tế, chính trị đều điều kiện
đầu tiên, quan trọng cho rất nhiều công trình kiến trúc được xây dựng. Trang
tríd trong các công trình kiến trúc cung đình, phật giáo là các tác phẩm điêu
khắc, hội hoạ phù hợp được sáng tác. Từ năm 1079 sau khi cuộc khánh chiến
chống quân xâm lược nhà tống thắng lợi hoàn toàn, nhà Lý bước vào giai
đoạn hoà bình xây dựng đất nước. Bài thơ bất hủ "Nam quốc sơn hà" của Lý

Thường Kiệt được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta,
khẳng định tự chủ của dân tộc ta, khẳng định ranh giới, địa phận của đất
nước ta, một đất nước có thể sánh vai với các cường quốc khác trên thế giới.
Đất nước đó đã đi vào con đường xây dừng và tự chủ. Về mặt nghệ thuật tạo
hình, thời Lý cũng để lại nhiều tác phẩm kiến trúc, điêu khắc hội hoạ… có giá
trị. Đồng thời góp phần khẳng định phong cách mỹ thuật mang đậm đà bản
sắc dân tộc vẫn được duy trì và ngày càng rõ nét.
IV. Phân tích 1 số tác phẩm tiêu biểu
1. Chùa một cột - Diên Hựu Tự
Chùa Diên Hựu được xây dựng năm 1049 gồm ngôi chùa vàđài Liên Hoa xây
giữa hồ vuông Linh Chiểu. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Phía ngoài là ao
Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng đi vào (theo bia cổ)
Chùa được xâydựng để giải một giấc mơ vuaLý Thái Tông (1028 - 1054)
mong được kéo dài tuổi thọ. Ngôi chùa được xây dựng giống như một bông
hoa sen vươnlên từ mặt hồ Linh Chiểu. Cột đá dựng ở giữa ao, trên đặt toà
sen củaPhật giống như trong giấc mơ của vua. Theo cố Giáo sư Chu Quang
Trứ cho biết " Truyền rằng riêng cột đá đã cao hơn 30m, và chạm đủ ngàn
cánh sen". Ngày nay, chùa được xây dựng vào đời Lý không còn. Song qua
những điều nói trên, ta có thể hình dung ngôi chùa có quy mô như thế nào
để có thể cân xứng, hài hoà với cây cột với không gian và cảnh quan xung
quanh. Năm 1080 chùa Một Cột được đúc và còn có tên là chuông Quy Điền,
một trong tứ đại khí của Việt Nam cùng với Tháp Báo Thiên, tượng Phật của
chùa Quỳnh Lâm và Vạc Phổ Minh. Năm 1100, chùa được mở rộng thêm về
quy mô từ đó đến nay đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa và đến nhà Trần
được xây dựng lại.
Ngày 11 tháng 9 năm 1945 trước khi đúc khỏi Hà Nội, quân Pháp đã cho nổ
min phá huỷ đài Liên Hoa. Sau khi Chính phủ ta đã làm lại. Công trình được
hoàn thành vào tháng 4 năm 1945 và vẫn quen gọi là Chùa Một Cột.
Chùa Một Cột là một công trình kiến trúc độc đáo của dân tộc ta. Nó chứng tỏ
sự sáng tạo trong nghệ thuật kiến trúc. Chùa Một Cột ngày nay là ngôi chùa

hình vuông, mỗi chiều 3m được dựng trên một cây cột có đường kính 1.20m,
cao 4m.
Chùa Một Cột xưa và nay đều xứng đáng là một trong nhiều tác phẩm tiêu
biểu cho Thăng Long - Hà Nội. Điều này sẽ giải thích tại sao ở khu "Cửa sổ
nhìn ra thế giới" (Thâm Quyến - Trung Quốc) lại có chùa Một Cột, biểu trưng
cho Việt Nam bên cạnh các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho các quốc gia
khác như Kim Tự Tháp (Ai Cập), tháp ép phen (Pháp)
2. Chùa Phật Tích (Vạn Phúc Tự - Xã Phượng Hoàng - Huyện Tiến Sơn -Bắc
Ninh).
Dòng chữ ghi trong lòng viên gạch đào được ở nền chùa đã cho biết: Vào
năm thứ tư của ông vua thứ ba đời Lý có hiệu là Long THuỵ Thái Bình, chùa
được xây dựng. Đó là năm 1057 (Lý gia đệ Tam đế - Long Thuỵ Thái Bình tứ
niên tạo) chùa cổ nay không còn. Trên nền chùa xưa, năm 1991 một ngôi
chùa mới khang trang, đẹp đẽ đã được dựng lên. Song các lớp nền chùa và
39 cây tháp còn tồn tại đến ngày nay đã cho biết nhiều điều về ngôi chùa
được xây dựng vào thế kỷ XI, đời Lý. Chùa Phật Tích được dựng dưới chân
núi, Phật Tích gắn với sự tích về cây tháp cao và pho tượng phật trong lòng
tháp. Trên nền tầng ba có 5 đối tượng thú sắp thành hai hàng ngang đối
xứng nhau trước cửa chùa. Các tượng thú gồm : Sư tử, trâu, tê giác, ngựa….
Theo cuốn "Mỹ thuật của người Việt" cho biết tấm bia "Vạn Phúc Đại Thiên tự
bi" hiện gãy làm đôi trên nền chùa, khắc năm chính hoa thứ bảy (1686) xác
nhận "Vua thứ ba đời Lý, năm Long Thuỵ Thái Bình thứ tư (1057) cất lên cây
tháp quý cao ngàn thượng. Trên đỉnh núi mở ra một toà nhà đá, các cấp điện
sáng như ngọc Lưu li, Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại lớn. Trên thềm bậc
đẳng trước có bày 10 con thú, phía sau có ao rồng, gác cao vẽ chim phượng
và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng tay rồng với trời cao.
Đến thế kỷXII chùa được dựng lại theo kiểu nội công ngoại quốc, song lại bị
phá huỷ hoàn toàn vào năm 1947 trước thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Pho
tượng tuyệt đẹp của thời Lý bị lộ rangoài trời cùng mưa nắng. Mãi sau này,
chùa mới được dựng lại và tồn tại đến ngày nay.

3. Chùa Dạm (Nam Sơn - quế Vo - Bắc Ninh)
Chùa còn có nhiều tên gọi khác như Cảnh Long Đồng Khánh hay chùa Thần
Quang, chùa Tấm Cám, được xây dựng vào năm 1086 dưới triều Lý Nhân
Tông. Đến nay vẫn còn dấu vết của bốn lớp nền cao dần kéo trên trục dâu
117m, chiều ngang 65m. ở giữa có kê đá cao hơn 5m, chạm rồng ô đất bên
phải hình vuông, xung quanh được kê đá chạm sông nước. Như vậy các
nghệnhân thời này đã bố cục theo lối nhịp nhàng, cân xứng giữa phải và trái.
Đồng thời vuông tròn còn mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, giàu tính triết học
Phương Đông như Trời - Đất xung quanh là sông nước, tích tụ khi thiêng của
đất nước.
Đến nay Chùa Dạm cũng đã được dựng lại trên nền cũ, nhắc nhỏ mọi người
về ngôi chùa có quy mô to lớn, đẹp đẽ của thời Lý.
4. Tượng phật
Đây không biết có phải là pho tượng mình vàng cao sấu thước cùng với cây
tháp quý cao ngàn trượng được nhắc tới trong Vạn phúc đại thiên tự bi khắc
năm 1686 không? Nhưng kích thước thật của tượng phật không kể bệ là
1.85m và theo cố giáo sư Chu Quang Trữ kích thước này tương đương với
sau thước của thời Lý. Nay ở chùaPhật Tích còn tượngPhật cùng với 10 pho
tượng thú. ở đây có nhiều điều trùng hợp cho thấy tính chính xác trong dự
đoán của các nhà nghiên cứu, phê bình nghệ thuật về pho tượng Phật ở chùa
Phật Tích.
Pho tượng gồm hai phần: Tượng Phật và bệ tượng được làm bằng đá. Tuy
vậy phần bệ tượng đá thô hơn, hạt đá nổi rõ hơn so với đá làm tượng Phật.
Toàn bộ pho tượng như được quy vào trong hai khối nón chồng lên nhau,
giữa hai khối đó là toà sen được tạo bởi hai lớp canhsen ngửa, nằm trong
khối chỏm cầu. Bệ hoa sen thường nhỏ hơn một chút so với bề rộng của pho
tượng. Tất cả đã tạo cho pho tượng có vẻ động, độc lập với dáng ngồi tĩnh
nghiêm trangcủa đức Phật. Đôi mắt được tác rất khéo như lim dim nửa mở,
nửa khép, bộc lộ sự suy tư và phát hiện được điều lý thú. Thân thẳng mỏng,
đường nét, khối khoẻ dức khoát kết hợp với sống áo nổi cao.

Tất cả tạo cho pho tượng có vẻ đẹp vừa hiện thực, sống động vừa sâu lắng
thần bí. Trong không gian chùa với khói hương trầm, ánh sáng huyền ảo của
đèn, nền càng làm pho tượng thêm vẻ sống động, nhẹ ngàng vượt lên sự
nặng nề của đá khối. Phần bệ tượng càng tôn thêm vẻ đẹp cho pho tượng.
Dưới toà sen là hai bậc cấp của bệ bát giác được trang trí bằng các con rồng
chầu lá đề. Dưới cùng là sáu tầng sóng nước cách điệu cao, đường nét mềm
mại, dày đặc trưng phản với nét nổi cao, thoáng, cách đều trang trí trên thân
tượng.
Pho tượng Phật chùa Phật Tích là tác phẩm quý giá của thời lý để lại. Tác
phẩm đã thể hiện đức Phật theo tinh thần thẩm mỹ của người Việt. Do đó
tượng mang đặc điểm riêng biệt, khác với các pho tượng cùng loại ở các nước
châu Âu khác. Tượng được biểu hiện là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố
tôn giáo và hiện thực. ở tượng Phật chùa Phật Tích vừa có sự nghiêm trang
sâu lắng trầm tư, lại vừa phúc hậu, sôi nổi, tươi mát tràn đầy sức sống./.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×