Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM XUÂN THIỀU
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT
GIAI ĐOẠN 2006-2009 VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
CHO GIAI ĐOẠN TỚI NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý Đất đai
Mã số: 60 62 16
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢƠNG VĂN HINH
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện nghiên cứu đã được cám ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày tháng 11 năm 2010
Tác giả
Phạm Xuân Thiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận dược sự giúp đỡ tận tình của
nhiều cơ quan, nhiều tổ chức cá nhân. Tôi xin trân trọng bày tỏ lời cảm ơn
với tất cả tập thể và các cá nhân đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
PGS. TS. Lương Văn Hinh, đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, các thầy cô giáo trong Khoa Tài nguyên & Môi trường và Khoa
Sau Đại học trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu và giúp tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND thành phố Thái Nguyên,
Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các xã phường, các phòng ban đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu và kiểm nghiệm kết quả
nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày tháng 11 năm 2010
Tác giả
Phạm Xuân Thiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Mục đích của đề tài 2
1.4. Yêu cầu của đề tài 2
1.5. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 4
1.1.1. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 4
1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai 6
1.1.3. Tầm quan trọng của sử dụng đất đai 8
1.1.4. Cơ sở lý luận của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 9
1.1.5. Cơ sở thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất 10
1.1.6. Các loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 10
1.1.7. Hệ thống các văn bản liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 11
1.2. Tình hình sử dụng đất trên thế giới 11
1.3. Tình hình sử dụng đất đai tại việt nam 14
1.3.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước 14
1.3.2. Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong
phạm vi cả nước 15
1.4. Tình hình sử dụng đất đai tại địa bàn nghiên cứu 18
1.4.1. Tình hình thực hiện quy hoạch sử dụng đất tỉnh Thái Nguyên 18
1.4.2. Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại TPTN 18
Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20
2.2. Địa điểm nghiên cứu của đề tài 20
1
2.3. Nội dung nghiên cứu 20
2.3.1. Điều tra về điều kiện tự nhiên, Kinh tế xã hội thành phố Thái Nguyên 20
2.3.2. Điều tra về hiện trạng sử dụng đất và công tác quản lý đất đai
trên toàn địa bàn thành phố Thái Nguyên 21
2.3.3. Đánh giá công tác thực hiện quy hoạch sử dụng đất của thành
phố Thái Nguyên giai đoạn 2006-2009 21
2.4. Phương pháp nghiên cứu 21
2.4.1. Điều tra thu thập các tài liệu, số liệu sơ cấp, thứ cấp 21
2.4.2. Phương pháp khảo sát thực địa 22
2.4.3. Thừa kế các tài liệu sẵn có 22
2.4.4. Phương pháp dự báo 22
2.4.5. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo 22
2.4.6. Thống kê xử lý số liệu 22
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23
3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 23
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 23
3.1.1.1. Về vị trí địa lý và khí hậu, thuỷ văn 23
3.1.1.2. Các nguồn tài nguyên [3] 25
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên 28
3.1.2.1 Đặc điểm về tình hình kinh tế 28
3.1.2.2. Đặc điểm về dân số, lao động và chất lượng nguồn lực 31
3.1.2.3. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng 32
3.1.3. Đánh giá tiềm năng, cơ hội và hạn chế của điều kiện tự nhiên,
kinh tế- xã hội đến sự phát triển của thành phố Thái Nguyên 34
3.2. Hiện trạng sử dụng đất và tình hình quản lý đất đai 35
3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất 35
2
3.3. Thực trạng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố
Thái Nguyên 38
3.3.1. Thực trạng công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 38
3.3.2. Thực trạng thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành
phố Thái Nguyên giai đoạn 2006-2009 39
3.3.2.1. Những nội dung chính trong phương án quy hoạch sử dụng đất
thành phố Thái Nguyên 39
3.3.2.2. Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất
nông nghiệp 41
3.3.2.3. Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
phi nông nghiệp 46
3.3.2.4. Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất
chưa sử dụng 70
3.3.3. Tình hình quản lý nhà nước về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất 71
3.4. Đánh giá chung công tác quy hoạch kế hoạch sử dụng đất thành
phố Thái Nguyên 72
3.4.1. Những kết quả đạt được 72
3.4.2. Những tồn tại 74
3.4.3. Nguyên nhân chủ yếu 75
3.5. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2010 - 2015 80
3.5.1 Giải pháp về ban hành các văn bản pháp quy 80
3.5.2. Giải pháp về tổ chức lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất 81
3.5.3. Giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất 81
3.5.4. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác quy
hoạch kế hoạch sử dụng đất 84
3.5.5. Giải pháp cho từng nhóm đất 85
3
3.5.5.1. Đối với nhóm đất nông nghiệp 85
3.5.5.2. Đối với đất phi nông nghiệp 86
3.5.5.3. Đầu tư, khai thác đất chưa sử dụng 87
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 88
1. Kết luận 88
1.1. Đất nông nghiệp 88
1.2. Đất phi nông nghiệp 88
1.3. Đất chưa sử dụng 89
1.4. Nguyên nhân 89
2. Đề nghị 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FAO
Food and Agriculture Organization - Tổ chức Nông Lương
Liên hiệp Quốc
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
DTTN
Diện tích tự nhiên
GDP
Gross Domestic Product- Tổng sản phẩm quốc nội
TDMNBB
Trung du miền núi Bắc bộ
CN-TTCN
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
TPTN
Thành phố Thái Nguyên
KDC
Khu dân cư
GPMB
Giải phóng mặt bằng
KCN
Khu công nghiệp
KCX
Khu chế xuất
0
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 01: Thực trạng phát triển kinh tế TPTN giai đoạn 2006 - 2009 29
Bảng 02: Biến động dân số thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2009 31
Bảng 03: So sánh cơ cấu hiện trạng sử dụng đất qua các năm 2006-2009 36
Bảng 04: Hiện trạng sử dụng đất thành phố Thái Nguyên năm 2009 37
Bảng 05: Diện tích đất trước và sau quy hoạch của TPTN 40
Bảng 06: Kết quả thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp
giai đoạn 2006-2009 42
Bảng 07: Thống kê diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang hoá, giảm năng
suất hoặc phải chuyển mục đích sử dụng 44
Bảng 08: Kết quả thực hiện kế hoạch thu hồi đất nông nghiệp để thực
hiện các dự án đầu tư từ năm 2006 - 2009 45
Bảng 09: Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất phi nông nghiệp giai
đoạn 2006-2009 47
Bảng 10: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất ở giai đoạn
2006-2009 48
Bảng11: Kết quả việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất trụ sở cơ quan,
công trình sự nghiệp đến năm 2009 53
Bảng 12: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất an ninh-
quốc phòng giai đoạn 2006-2009 54
Bảng 13: Kết quả thực hiện đất cơ sở sản xuất kinh doanh giữa các đơn
vị hành chính đến năm 2009 55
Bảng 14: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất giao thông
giai đoạn 2006-2009 64
Bảng 15: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất Thủy lợi
giai đoạn 2006-2009 65
1
Bảng 16: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất Giáo dục
giai đoạn 2006-2009 66
Bảng 17: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất cơ sở y tế,
truyền dẫn, đất cơ sở văn hóa, đất chợ giai đoạn 2006-2009 68
Bảng 18: Kết quả thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng các loại đất
PNN còn lại 69
Bảng 19: Tình hình sử dụng đất chưa sử dụng đến năm 2009 của TPTN 71
Bảng 20: Tình hình thực hiện quy hoạch sử dụng đất đến năm 2009 73
1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý hiếm và không tái sinh, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân
bổ các khu dân cư, kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Do vậy, việc sử
dụng hợp lý quỹ đất là việc hết sức cần thiết.
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản
lý; với diện tích tự nhiên là 3293,4 nghìn ha ở mức quy mô trung bình xếp thứ
59 trong tổng số trên 200 nước trên thế giới, nhưng dân số đông (trên 85 triệu
người) theo số liệu thống kê năm 2009 đứng thứ 14 trên thế giới, xếp vào loại
"đất chật người đông". Bình quân diện tích tự nhiên trên đầu người 245
người/km
2
xếp thứ 42 trên thế giới Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước đang thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã
làm nền kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ, cùng với sự bùng nổ dân số đã làm
cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng. Nhu cầu sử dụng
đất cho nền kinh tế ngày càng tăng. Đất đai thực sự trở thành nguồn vốn và
động lực phát triển kinh tế. Để tài nguyên quốc gia sử dụng một cách hợp lý
và tiết kiệm đáp ừng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đạt mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp thì yêu
cầu phải có quy hoạch sử dụng hợp lý.
Trong những năm gần đây Thái nguyên không ngừng phát triển, cơ sở
hạ tầng cũng được đầu tư nâng cấp hoàn thiện dần. Thành phố Thái Nguyên
đã được Chính phủ quyết định nâng lên thành phố loại I theo tiêu chuẩn của
Việt Nam. Để đáp ứng với yêu cầu của một thành phố loại I, Thành phố cần
có những quy hoạch phù hợp mang tính chiến lược lâu dài.
Việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là hết sức cần thiết nhằm hoàn thiện
2
hơn nữa công tác quản lý nhà nước về đất đai; nâng cao “tính khả thi” của quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao; tạo cơ sở pháp
lý vững chắc để các tổ chức kinh tế, cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình về sử dụng đất đối với nhà nước; đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, được sự đồng ý của ban chủ nhiệm Khoa Tài
nguyên & Môi trường, Khoa Sau Đại học, trường Đại học Nông Lâm dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Lương Văn Hinh, tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Đánh giá thực trạng sử dụng đất giai đoạn 2006-2009 và đề xuất giải
pháp cho giai đoạn tới nhằm nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch sử
dụng đất thành phố Thái Nguyên".
1.2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá thực trạng công tác quy hoạch kế hoạch sử dụng đất ở thành
phố Thái Nguyên. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản, nhằm
tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố Thái Nguyên
để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
1.3. Mục đích của đề tài
- Nắm được thực trạng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của
thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2006-2009.
- Đánh giá kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn
tại trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2010-2020.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Các số liệu chính xác, trung thực, khách quan, phản ánh đúng hiện trạng.
- Phân tích được thực trạng công tác quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên. Đánh giá được những mặt đã làm được, mặt
hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay cần phải thực hiện.
3
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường công
tác quy hoạch kế hoạch sử dụng đất thành phố Thái Nguyên.
1.5. Ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất thành phố Thái Nguyên đề ra định hướng và các giải pháp
chủ yếu nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trong quy hoạch kế hoạch sử
dụng đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất của thành phố Thái Nguyên.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
1.1.1. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Đất đai là một vùng lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất ) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính, thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, điạ chất,
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá
tính ) tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác
nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch - đây là quá trình
nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm phân định ý nghĩa, mục đích của từng
phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định [11].
Về bản chất: Đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất trong lĩnh
vực sử dụng đất (gọi là mối quan hệ đất đai) và tổ chức sử dụng đất như “tư
liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội [16]. Như vậy,
Quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng
thời ba tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó cần hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều
tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng
đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các
biện pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý,
hiệu quả, khoa học thông qua việc phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng
và định hướng tổ chức sử dụng đất cho các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức
5
và người sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện
đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái
bền vững [4].
Theo FAO “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất
và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội
nhằm lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử
dụng đất là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp
ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn
tài nguyên cho tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu
của con người và điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ
năng sử dụng đất”.
Phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt là căn cứ để bố trí sử dụng đất,
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt là
chuyển diện tích trồng lúa có hiệu quả cao sang các mục đích phi nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây lâu năm. Như vậy, mục đích của
quy hoạch sử dụng đất nhằm tạo ra những điều kiện về tổ chức lãnh thổ, thúc
đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nó
được xây dựng trên định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển đô thị, yêu cầu bảo vệ môi trường, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá, danh
lam thắng cảnh; Hiện trạng quỹ đất và nhu cầu sử dụng; Định mức sử dụng
đất, tiến bộ khoa học kỹ thuật; Kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất kỳ trước. Những năm gần đây, quy hoạch đã góp phần không nhỏ
tạo ra kết quả đáng khích lệ, giúp khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm
và có hiệu quả, phát huy tiềm năng, nguồn lực về đất, mở rộng diện tích đất
canh tác, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn lương thực [13].
6
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành
các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để
mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các
mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với
mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, kết hợp với bảo vệ đất và
môi trường [10].
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng
đất được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về
mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; làm cơ sở tiến hành
cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ
các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự
chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện,
làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là
diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng
tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây
ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội và hậu quả khó lường về tình hình bất ổn chính trị, an
ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường [4].
1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai
Quy hoạch sử dụng đất đai thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử xã hội,
khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp chung và dài hạn, là biện pháp
hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế
7
quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai được thể hiện cụ thể
như sau:
- Tính lịch sử xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát
triển của quy hoạch sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có một
phương thức sản xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, mối quan hệ giữa con người với đất đai được hình thành
trong quá trình sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện đồng thời
là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy các
mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận của phương thức sản
xuất của xã hội.
- Tính tổng hợp: Biểu hiện chủ yếu ở hai mặt, đối tượng của quy hoạch
là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ… toàn bộ tài nguyên đất đai cho nhu cầu
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; Quy hoạch sử dụng đất đai đề cập đến nhiều
lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như: Khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi trường sinh thái.
- Tính dài hạn: Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của
những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng (thay đổi nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật,
đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp…), từ đó xác định quy
hoạch chung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra các phương hướng, chính
sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng
kế hoạch sử dụng đất hàng năm và ngắn hạn.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu để phát triển lâu dài kinh tế -
xã hội. Cơ cấu và phương phức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong
thời gian dài cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn xác định
phương hướng, chính sách, biện pháp sử dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt
động xã hội của quy hoạch sử dụng đất đai thường từ trên 10 năm đến 20 năm
hoặc lâu hơn.
8
- Tính chiến lược chỉ đạo vĩ mô: Với đặc tính trung và dài hạn, quy
hoạch sử dụng đất chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng, mục
tiêu, cơ cấu và phân bổ sử dụng đất (mang tính đại thể không dự kiến được
các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch
sử dụng đất đai chỉ mang tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô.
- Tính chính sách: Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện rất mạnh đặc tính
chính trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các
chính sách và qui định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo thực hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế
quốc dân, phát triển ổn định kế hoạch kinh tế - xã hội; tuân thủ các qui định,
các chỉ tiêu khống chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái.
- Tính khả biến: Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước,
theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một
trong những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới
thích hợp hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã
hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là
cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng
đất đai luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc “quy
hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện…” với
chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
1.1.3. Tầm quan trọng của sử dụng đất đai
Sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ
người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi
trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường về phát hiện quyết định phương
hướng chung và mục tiêu sử dụng hợp lý nhất tài nguyên đất đai, phát huy tối
đa công dụng của đất đai nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao
9
nhất. Song thực tế việc sử dụng đất còn nhiều bất cập. Nhiều nơi trên thế giới
và ngay cả ở Việt Nam sử dụng đất vẫn chưa phát huy được tối đa công năng
của đất, có những hoạt động của con người chỉ là vô thức lại đang huỷ hoại
dần nguồn tài nguyên này. Vì vậy sử dụng đất như thế nào để đạt được kết
quả cao nhất đảm bảo tính bền vững về mặt kinh tế, xã hội và môi trường là
điều được nhiều cấp, ngành quan tâm.
1.1.4. Cơ sở lý luận của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Chương II, Điều 18 Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1992 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống
nhất quản lý, sử dụng ” [11].
Điều 1 Luật đất đai 1993 khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước thống nhất quản lý ” [11].
Tại chương II điều 18 Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: “Nhà nước thống
nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật bảo đảm sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả” Điều đó thể hiện tính pháp chế của nhà nước ta trong
việc quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai.
Điều 6 Luật Đất đai 2003 qui định: “Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai ” là một trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai. [12].
Điều 19 Luật Đất đai 2003 khẳng định: “Căn cứ để quyết định giao đất,
cho thuê đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xét duyệt”. [12].
Nghị quyết 01/1997/QH9 Quốc hội khóa IX, kỳ họp 11 (tháng 04/1997) về
kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy hoạch sử
dụng đất các cấp trong cả nước. [22].
Như vậy để sử dụng và quản lý đất đai một cách tiết kiệm, hợp lý và có
hiệu quả nhất thiết phải làm quy hoạch.
10
1.1.5. Cơ sở thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất
Ngày 26/11/2003 Quốc hội khoá 11 thông qua Luật Đất đai 2003, trong
đó xác định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong 13 nội dung của
quản lý Nhà nước về đất đai. Để thực hiện được việc lập các phương án quy
hoạch sử dụng đất chúng ta cần xác định cơ sở thực tiễn của quy hoạch sử
dụng đất đai.
Tại khoản 1 điều 22 Luật Đất đai 2003 [12].xác định: “Căn cứ để lập quy
hoạch sử dụng đất” bao gồm:
- Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng
an ninh của cả nước; quy hoạch phát triển của các ngành các địa phương;
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường;
- Định mức sử dụng đất;
- Tiến bộ khoa học, công nghệ có liên quan đến sử dụng đất;
- Hiện trạng sử dụng đất và nhu cầu sử dụng đất;
- Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất kỳ trước.
1.1.6. Các loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Luật Đất đai năm 1993 (Điều 16, 17, 18) qui định: “Quy hoạch sử dụng
đất đai được tiến hành theo lãnh thổ và theo ngành”.
- Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ có các dạng:
+ Quy hoạch tổng thể sử dụng đất đai cả nước (gồm cả quy hoạch sử
dụng đất đai các vùng kinh tế tự nhiên);
+ Quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh;
+ Quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện;
+ Quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã.
- Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành:
+ Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp;
11
+ Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp;
+ Quy hoạch sử dụng đất các khu dân cư nông thôn;
+ Quy hoạch sử dụng đất đô thị;
+ Quy hoạch sử dụng đất chuyên dùng.
1.1.7. Hệ thống các văn bản liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải dựa trên
những văn bản có giá trị pháp lý:
- Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993 cùng các lần sửa đổi bổ sung năm
1998, 2001 và Luật Đất đai 2003 [11].
- Công văn số 503 CV - TCĐC ngày 29/04/1995 của Tổng cục Địa chính
và công văn 862 CV - TCĐC ngày 12/10/1998 của Tổng cục Địa chính về
việc hướng dẫn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Nghị định số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về
hướng dẫn thi hành Luật đất Đai 2003.
- Thông tư số 1842/2001/TT - TCĐC ngày 01/11/2001 và thông tư số
30/2004/TT - BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài Nguyên & Môi Trường
về hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
1.2. Tình hình sử dụng đất trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, mỗi quốc
gia và vùng lãnh thổ này đều có các chính sách, công cụ quản lý đất đai khác
nhau, trong đó quy hoạch sử dụng đất là một trong những công cụ rất quan
trọng. Công tác quy hoạch đất đai đã được tiến hành nhiều năm trước đây, ở
một số nước như Anh, Pháp, Liên Bang Nga đã xây dựng cơ sở lý luận của
ngành quản lý đất đai tương đối hoàn chỉnh và ngày càng tiến bộ. Theo Tổ
chức Lương Nông Liên hợp quốc (FAO), quy hoạch sử dụng đất đai là bước
kế tiếp của phương pháp đánh giá đất. Kết quả của việc đánh giá đất sẽ đưa ra
một loại hình hợp lý nhất đối với đất đai trong vùng. Phương pháp quy hoạch
12
đất đai tuỳ thuộc vào đặc điểm đất đai của mỗi nước, tuy nhiên có hai loại
hình quy hoạch:
- Tiến hành quy hoạch Nông Nghiệp là nền tảng sau đó làm quy hoạch
cơ bản, lập sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo yêu cầu của cơ
chế, kế hoạch hoá tập trung. Đất đai và lao động trở thành yếu tố cơ bản của
vấn đề nghiên cứu. Tiêu biểu cho trường phái này là Liên Bang Nga và một
số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây.
Để có một phương pháp chung làm cơ sở khoa học cho công tác quy
hoạch trên phạm vi toàn thế giới. Năm 1992, Tổ chức Lương thực Liên hợp
quốc (FAO) đã đưa ra quan điểm quy hoạch đất đai nhằm sử dụng đất một
cách có hiệu quả và bền vững, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của hiện tại và
đảm bảo an toàn lương thực cho tương lai. Phương pháp quy hoạch đất đai
này áp dụng ở 3 cấp: Tỉnh, huyện, xã.
Ngoài ra, ở một số nước khác còn có các phương pháp quy hoạch mang
tính đặc thù riêng như Bungary và các nước Đông Âu. Ở những nước này quy
hoạch được phân chia thành các vùng đặc trưng gắn liền với bảo vệ thiên
nhiên và môi trường.
- Ở Pháp, quy hoạch sử dụng đất đai được xây dựng theo hình thức mô
hình hoá nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng tài nguyên
môi trường và lao động. Họ cũng đã áp dụng các bài toán quy hoạch tuyến
tính có cấu trúc hợp lý nhằm tăng hiệu quả của sản phẩm xã hội.
- Ở Thụy Điển khái niệm “độc quyền lập quy hoạch” được dùng trong
lĩnh vực quy hoạch đất đai. Khái niệm này cho thấy công tác lập quy hoạch
thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Tuy nhiên phải đảm bảo kết
hợp những lợi ích quốc gia và vùng vào trong quy hoạch, đặc biệt đối với cơ
sở hạ tầng và vùng phải được bảo vệ. Trong vài năm trở lại đây, người dân và
cộng đồng được tham gia tích cực vào quá trình quy hoạch.
13
Thụy Điển là quốc gia có sự phân cấp mạnh trong công tác quy hoạch.
Trách nhiệm lập quy hoạch là của 290 quận trong cả nước trong khi luật quy
hoạch điều chỉnh các hoạt động quy hoạch đất đai, đáp ứng lợi ích quốc gia
và lợi ích cộng đồng. Tại các quận phải có quy hoạch tổng thể, dưới đó là
quy hoạch phát triển chiến lược của cộng đồng và các quy hoạch phát triển
chi tiết.
- Ở Nam Mỹ, đã lập đề án quy hoạch mặt bằng ở cấp quốc gia, thiết kế
với sự tham gia của chính quyền cấp tỉnh (trung gian), một dự án chỉ dẫn quốc
gia cho thấy sự phân bố hợp lý các khu vực sử dụng đất đai (đất khu dân cư
nông thôn, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất ở và đất
chưa sử dụng). Đồ án quy hoạch cấp quốc gia làm căn cứ cho chính quyền
cấp tỉnh soạn thảo các đồ án chi tiết hơn, với sự phối hợp chính quyền cấp
thiết hơn.
Các đồ án quy hoạch dựa vào điều tra thiên nhiên của cấp dưới (cấp
huyện) để làm cở sở quy hoạch, sau đó các nhà chức trách địa phương bổ
sung chi tiết hơn cho các đồ án đó với sự phối hợp của chủ sử dụng đất.
- Ở Canada, chính phủ liên bang đã can thiệp vào quy hoạch cấp trung
gian (cấp bang). Hiện nay, chính phủ đưa ra các mục tiêu chung ở cấp quốc
gia giống như người tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các hoạt động
lập quy hoạch lập ở cấp bang. Đồng thời, chính phủ liên bang cũng đóng góp
các ý kiến mang tính khoa học và sự ủng hộ về tài chính cụ thể như việc phân
tích kinh tế theo vùng và lập bản đồ sinh thái được thể hiện ở cấp quốc gia.
Ngoài ra, chính phủ còn có vai trò hỗ trợ để có được sự tham gia của các khu
vực liên quan ở các giai đoạn khác nhau của quá trình lập quy hoạch bao gồm
các ngành công nghiệp, nông nghiệp. Hiện nay, khi xây dựng các phương án
quy hoạch thì người ta rất quan tâm đến vấn đề môi trường.
14
- Ở Thái Lan, việc quy hoạch đất đai được phân theo ba cấp (cấp
quốc gia, cấp vùng và cấp địa phương). Quy hoạch nhằm thể hiện cụ thể
các chương trình kinh tế - xã hội của hoàng gia Thái Lan, gắn liền với việc
tổ chức hành chính và quản lý nhà nước. Dự án phát triển của hoàng gia
Thái Lan đã xác định vùng nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về chính
trị ở Thái Lan. Các dự án tập trung vào một số vấn đề như đất đai, nông
nghiệp và lao động.
- Ở các nước như Trung Quốc, Lào và Campuchia công tác quy hoạch
đất đai đang từng bước hoàn thiện và phát triển nhưng nó mới dừng lại ở mức
quy hoạch tổng thể các ngành mà không tiến hành quy hoạch ở cấp nhỏ hơn
như ở Việt Nam.
Để có một phương pháp chung làm cơ sở khoa học cho công tác quy
hoạch trên phạm vi toàn thế giới. Năm 1992, tổ chức lương thực Liên hợp
quốc (FAO) đã đưa ra quan điểm quy hoạch đất đai nhằm sử dụng đất một
cách có hiệu quả và bền vững, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của hiện tại và
đảm bảo an toàn lương thực cho tương lai. Phương pháp quy hoạch đất đai
này áp dụng ở 3 cấp: Quốc gia, huyện và xã.
1.3. Tình hình sử dụng đất đai tại việt nam
1.3.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước
Từ khi có Luật Đất đai 1988 và đặc biệt kể từ khi Luật Đất đai 1993
được Quốc Hội khoá IX thông qua và được thi hành trong cả nước thì tình
hình quản lý và sử dụng đất đai bắt đầu đi vào nề nếp. Luật Đất đai 1993 quy
định có 7 nội dung quản lý nhà nước về đất đai. [11].
Ngày 26/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật
Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2004. Đây là đạo luật lớn
nhất có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật đất đai, nhằm điều
chỉnh và mở rộng Luật Đất đai 1993 cho phù hợp với xu thế phát triển và hội
15
nhập của nền kinh tế thế giới. Luật đất đai ra đời quyết định hàng năm các cấp
tiến hành thống kê đất đai vào cuối năm và thực hiện kiểm kê 5 năm một lần
kể từ năm 2000 trên phạm vi cả nước. Năm 2005 theo quyết định của Luật
Đất đai 2003, chúng ta tiến hành Tổng kiểm kê trong phạm vi cả nước lần 2
với 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Đến nay công tác quản lý đất đai đã đi vào nề nếp, các văn bản qui
phạm pháp luật liên quan đến đất đai liên tục được ban hành nhằm phục vụ tốt
công tác quản lý nhà nước về đất đai.
1.3.2. Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong phạm vi
cả nước
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ngày càng được Đảng và Nhà
nước quan tâm chỉ đạo sát sao bằng các văn bản và chính sách đất đai. Điều
này được xem như là một luận chứng cho sự phát triển của nền kinh tế đất
nước, nó thể hiện qua các giai đoạn từ sau khi thống nhất đất nước cụ thể
như sau:
- Trước những năm 1980: Sau ngày 30/4/1975, chúng ta đề ra kế hoạch
5 năm để khôi phục nền kinh tế đất nước và hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ thống nhất đất nước. Hội đồng Chính phủ đã lập ra ban chỉ đạo
phân vùng quy hoạch nông, lâm nghiệp. Trung ương đã triển khai công tác
này trên phạm vi cả nước. Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ này chưa được coi
là công tác của ngành quản lý mà chỉ được đề cập tới như là một phần của
quy hoạch phát triển ngành Nông - Lâm - Nghiệp. Trong các phương án trên
đều có đề cập đến vấn đề quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp và coi đó
là luận chứng quan trọng để phát triển ngành. Tuy nhiên tính khả thi của
phương án còn thấp.
- Thời kỳ từ năm 1980 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986: Năm
1981, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ V, Đại hội đã quyết định xúc tiến