BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
HẬU
NGHIÊN CỨU ÁNH HƯỞNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN MỘT
SỐ DỰ ÁN THEO QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN GIÁ
ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60 62 16
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Học
HÀ NỘI - 2012
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH MỤC CÁC BẢNG iv
MỞ ĐẦU 5
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 5
1.2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 6
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 7
2.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất 7
2.2. Vai trò của đất đai đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 12
2.3. Dự án quy hoạch và các yếu tố tác động đến dự án quy hoạch 14
2.4. Các yếu tố tác động đến giá đất 15
2.4.1. Nhân tố nhân khẩu 15
2.4.2. Nhân tố xã hội 16
2.4.3. Nhân tố quốc tế 17
2.4.4. Nhân tố kinh tế 18
2.4.5. Nhân tố khu vực 20
2.4.6. Nhân tố cá biệt 22
2.5. Tình hình thực hiện các dự án quy hoạch trong những năm qua tại tỉnh
Hưng Yên 23
2.6. Tình hình thực hiện một số dự án điển hình trên thế giới 24
3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
3.1. Nội dung nghiên cứu 30
3.1.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến sử dụng đất 30
3.1.2. Đánh giá việc thực hiện một số dự án quy hoạch trên địa bàn tỉnh
30
3.1.3. Đánh giá thực trạng giá đất và tình hình biến động giá đất 30
i
3.1.4. Ảnh hưởng việc thực hiện một số dự án theo quy hoạch sử dụng
đất đến giá đất 31
3.1.5. Đề xuất một số giải pháp 31
3.2. Phương pháp nghiên cứu 31
3.2.1. Phương pháp điều tra thu thập tài liệu, số liệu 31
3.2.2. Phương pháp điều tra phỏng vấn 31
3.2.3. Phương pháp minh họa trên bản đồ 32
3.2.4. Phương pháp chọn điểm, chọn mẫu 32
3.2.5. Phương pháp so sánh 32
3.2.6. Phương pháp tiếp cận hệ thống 33
3.2.7. Phương pháp ứng dụng các công nghệ 33
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
4.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng
đất 34
4.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 34
4.1.2. Các nguồn tài nguyên 38
4.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 48
4.1.3. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn 54
4.1.4. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội 55
4.1.5. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai 60
4.1.6. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 66
4.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 và tình hình thực hiện một số dự án
của quy hoạch sử dụng đất 68
4.2.1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 tỉnh Hưng Yên 68
4.2.2. Tình hình triển khai các dự án 70
4.3. Thực trạng việc quản lý và sử dụng các dự án quy hoạch 70
4.4. Giá đất và biến động giá đất trên địa bàn tỉnh 70
ii
4.1. Giá đất trên địa bàn tỉnh năm 2001 70
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71
5.1. Kết luận 71
5.1. Kiến nghị 71
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Tổng giá trị sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế 48
của tỉnh Hưng Yên theo giá so sánh qua các năm 48
Bảng 4.2. Cơ cấu kinh tế của tỉnh Hưng Yên qua các năm 48
Bảng 4.3. Giá trị sản phẩm, chỉ số phát triển Khu vực kinh tế Nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản của tỉnh Hưng Yên qua các năm theo giá so sánh 49
Bảng 4.4. Giá trị sản xuất khu vực công nghiệp và xây dựng 50
Bảng 4.5. Dân số và mật độ dân số tỉnh Hưng Yên 53
iv
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên tự nhiên, một loại tài nguyên sản xuất đặc biệt
không thể thay thế, là tư liệu sản xuất đặc biệt. Đất đai gắn liền với các hoạt
động sinh sống của con người, là mặt bằng để xây dựng các cơ sở kinh tế, công
trình xây dựng, cơ sở văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đất đai được chuyển
tiếp qua các thế hệ, và được coi là một dạng tài sản trong phương thức tích luỹ
của cải vật chất của xã hội; là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước.
Đất đai không do lao động làm ra, mà lao động tác động vào đất đai
để biến nó từ trạng thái hoang hoá trở thành sử dụng vào đa mục đích. Đất
đai cố định về vị trí, có giới hạn về không gian và vô hạn về thời gian sử
dụng. Bên cạnh đó đất đai có khả năng sinh lợi vì trong quá trình sử dụng,
nếu biết sử dụng và sử dụng một cách hợp lí thì giá trị của đất (đã được
khai thác sử dụng) không những không mất đi mà có xu hướng tăng lên. Sự
tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hoá cao, sự gia tăng dân số gây áp lực về
nhu cầu đất đai (bất động sản) nói chung và về nhà ở nói riêng. Giá đất của
Việt Nam hiện nay rất cao so với mặt bằng thu nhập của đại đa số người
dân; thị trường đất đai nói chung và bất động sản nói riêng chưa ổn định.
Việc giá đất lên cao và thị trường bất động sản không ổn định có nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan giữ
vai trò quan trọng là vấn đề quy hoạch.
Quy hoạch sử dụng đất đai là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm tổ
chức lại việc sử dụng đất đai, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, đồng
thời là cơ sở quan trọng để quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo cân bằng nhu
cầu đất đai cho các nhóm lợi ích, cân bằng giữa nhu cầu sản xuất với đời sống
vật chất và tinh thần của các cộng đồng dân cư, thoả mãn nhu cầu đa dạng đối
5
với đất đai của toàn xã hội. Quy hoạch không ổn định, không khoa học, không
dự báo hết nhu cầu thì nó sẽ kéo theo nhiều vấn đề bất cập về giá đất.
Hưng Yên là một tỉnh đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có vị trí gần thủ đô Hà Nội;
trong những năm gần đây, tỉnh Hưng Yên đã phát huy được lợi thế, quy hoạch
và thu hút được nhiều dự án đầu tư và đạt những kết quả nhất định, đóng góp
cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ việc thực hiện các dự án
theo quy hoạch sử dụng đất đã làm giá đất của Hưng Yên thay đổi nhánh chóng
Xuất phát từ tình hình trên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của việc thực hiện một số dự án theo quy hoạch sử dụng đất đến giá
đất trên địa bàn tỉnh Hưng Yên” là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
- Làm rõ mối quan hệ, sự tác động giữa việc thực hiện một số dự án của
quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đến giá đất, từ đó đưa ra các giải pháp và đề
xuất những biện pháp nhằm hạn chế những bất cập về giá đất do quy hoạch sử
dụng đất không ổn định, không khoa học gây lên.
- Những đề xuất, kiến nghị phải khả thi, phù hợp với điều kiện hiện tại
và tương lai của địa phương.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
- Một số dự án của quy hoạch sử dụng đất tỉnh Hưng Yên như Khu
công nghiệp, khu sản xuất kinh doanh; Khu đô thị, Khu đô thị đại học và
đường giao thông quốc lộ ảnh hưởng đến giá đất trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
* Đối tượng nghiên cứu:
- Việc lập quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và việc thực hiện các dự án
của quy hoạch sử dụng đất; giá đất (giá đất theo thị trường và giá đất do
UBND tỉnh ban hành), các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất
6
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất
* Đất và vấn đề sử dụng đất:
Theo quan điểm của FAO đất đai được nhìn nhận là một nhân tố sinh
thái, với khái niệm này đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự
nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng đến hiện trạng và tiềm năng sử dụng
đất.
Theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, đất đai trong đánh giá
đất được hiểu như là “Một khoanh đất được xác định về bề mặt địa lý, là một
diện tích bề mặt của trái đất với những thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay
đổi có tínhh chất chu kỳ có thể dự đoán được của môi trường bên trên, bên
trong và bên dưới nó như không khí, khí hậu thời tiết, loại đất (thổ nhưỡng),
điều kiện địa chất, thuỷ văn, động vật, thực vật, những hoạt động hiện nay và
trước đây của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính này có ảnh
hưởng đáng kể đến việc sử dụng khoanh đất đó trong hiện tại và tương lai”.
Sử dụng đất:
Theo FAO: Đất đai được sử dụng theo nhiều dạng khác nhau:
- Trực tiếp sản xuất: các loại cây trồng, đồng cỏ, rừng,
- Gián tiếp sản xuất: chăn nuôi, các sản phẩm của chăn nuôi: thịt, sữa…
- Mục đích bảo vệ: chống suy thoái đất, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo
vệ các loài quý hiếm…
- Sử dụng đất theo các chức năng đặc biệt: khu dân cư, phát triển đô thị,
khu công nghiệp, khu du lịch, giao thông, thuỷ lợi …
* Thực trạng sử dụng đất đai
Sự gia tăng dân số trong các nước đang phát triển đang là áp lực đè
nặng lên nguồn tài nguyên đất đai có giới hạn của họ và cũng là nguyên nhân
7
gây ra sự suy thoái đất đai. Những phương pháp chuyên ngành cho việc quy
hoạch để giảm bớt tình trạng này hiện nay vẫn chưa cho được hiệu quả, và
phương pháp tổng hợp đòi hỏi phải bao gồm tất cả các chủ thể tham gia từ sự
bắt đầu, điều tiết chất lượng và những sự giới hạn của mỗi thành phần đơn vị
đất đai, đến tính sản xuất của các khả năng chọn lựa sử dụng đất đai. Những
quan điểm và định nghĩa liên hệ đến phương pháp cụ thể nhằm hổ trợ cho
việc thiết lập nên những vấn đề quyết định ở các mức độ quy hoạch khác
nhau.
Những vấn đề sử dụng đất đai hiện tại đòi hỏi những giải pháp được tạo
ra với sự hổ trợ của phương pháp tổng hợp trong vùng nông thôn và bán thành
thị, thì thường được xuất phát từ những sự mâu thuẩn đối kháng giữa môi
trường và phát triển. Tất cả việc này được thảo luận bao gồm xây dựng những
quyết định để làm thế nào sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm, tái lập
lại vùng đất đai suy thoái hay cải thiện đất đai nông nghiệp chính, định cư
những nông hộ nhỏ hay những nông trang cơ giới sẽ hổ trợ tốt hơn trong việc
mỡ rộng dân số, hạn chế phát triển vùng đô thị vào trong các vùng nông
nghiệp có chất lượng cao, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước khan hiếm,
và những yêu cầu chuyên biệt cho phương pháp tổng hợp ngược lại với quy
hoạch chuyên ngành của vùng ven biển.
Thực hiện phương pháp tổng hợp thì tùy thuộc vào những chính sách
hổ trợ quy hoạch cho sử dụng và quản lý bền vững nguồn tài nguyên đất đai,
để tăng cường những thể chế thực thi và để đảm bảo sự bao gồm và tham gia
hành động của các chủ thể trong tiến trình xây dựng quyết định. Những hoạt
động này sẽ được hổ trợ bằng sự thay đổi các số liệu cơ bản về nguồn tài
nguyên tự nhiên và cách sử dụng, thông qua việc kết hợp sử dụng hệ thống
thông tin địa lý GIS. Những phương tiện kinh tế và xã hội cũng được mô tả và
8
được sử dụng để đảm bảo sự những đóng góp của các chủ thể trong việc thỏa
thuận sử dụng đất đai.
Phương pháp tổng hợp cho quy hoạch sử dụng và quản lý nguồn tài
nguyên đất đai bắt buộc phải bao gồm tất cả các chủ thể trong tiến trình xây
dựng quyết định cho tương lai của đất đai, và xác định đánh giá tất cả những
đặc trưng chính của sinh học tự nhiên và kinh tế xã hội của các đơn vị đất đai.
Điều này đòi hỏi sự xác định và thiết lập sự sử dụng hay không sử dụng của
mỗi đơn vị đất đai về các mặt kỷ thuật thích hợp, khả năng kinh tế, xã hội
chấp nhận và tính môi trường không suy thoái.
Phương pháp chuyên ngành thuần cho quy hoạch sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai cần phải tránh, vì với phương pháp này có thể đưa đến những
sự suy thoái không đoán trước được. Liên quan đến vấn đề môi trường cần
thiết phải được đặt lên hàng đầu do sự tăng trưởng quá nhanh của dân số trên
thế giới, gia tăng những sự lệ thuộc vào nhau giữa các quốc gia và giữa các
vùng trên thế giới, những chú ý tăng trưởng về giá trị của hệ sinh thái tự
nhiên, và những nhận thức rằng những sử dụng đất đai hiện tại có thể ảnh
hưởng đến hệ thống khí hậu toàn cầu. Phương pháp tổng hợp hơn hẳn phương
pháp chuyên ngành là có ý nghĩa ngăn cản hay giải quyết được những mâu
chuẩn liên quan đến sử dụng đất đai, khi nó đạt tối hảo tiến trình quy hoạch và
thiết lập một môi trường có thể cho sự trung gian giữa, và xây dựng quyết
định bởi, tất cả các chủ thể ở giai đoạn ban đầu.
Dự đoán mức độ tăng dân số của thế giới có thể gấp đôi với khoảng 10
tỉ người vào năm 2050 (UNFPA, 1992; trong FAO, 1993). Do đó, hầu hết các
nhà khoa học và chuyên gia trên thế giới đồng ý với nhau rằng cần thiết phải
áp dụng những công nghệ nông nghiệp tiên tiến cho việc sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai để cung cấp lương thực đầy đủ, chất sợi, thức ăn gia súc, dầu
9
sinh học và gổ lên gấp đôi. Trong thực tế, có những sự thiếu hụt đất đai trầm
trọng trong nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Trong một nghiên cứu gần đây của FAO (Alexandratos, 1995; trong
FAO, 1993) ước lượng khoảng 92% của 1800 triệu ha đất đai của các quốc
gia đang phát triển bao gồm luôn cả Trung Quốc thì có tiềm năng cho cây
trồng sử dụng nước trời, nhưng hiện nay vẫn chưa sử dụng hết và đúng mục
đích, trong đó vùng bán sa mạc Sahara ở Châu phi 44%; Châu mỹ và vùng
Caribê 48%. Hai phần ba của 1800 triệu ha này tập trung chủ yếu một số nhỏ
quốc gia như: 27% Brasil, 9% ở Zaire, và 30% ở 12 nước khác. Một phần của
đất tốt này vẫn còn để dành cho rừng hay vùng bảo vệ khoảng 45%, và do đó
trong các vùng này không thật sự được sử dụng cho nông nghiệp. Một phần
khác thì lại gặp khó khăn về mặt đất và dạng bậc thềm như khoảng 72% vùng
Châu phi bán sa mạc và vùng Châu mỹ la tinh.
Trên 50% của 1800 triệu ha của đất để dành được phân loại ở cấp loại
"ẩm", thí dụ như quá ẩm cho hầu hết các loại cây trồng và không thích hợp
lắm cho sự định cư của con người, hay còn gọi là "vùng thích nghi kém cho
cây trồng". Do đó, khả năng để mỡ rộng diện tích đất đai cho canh tác cây
trồng thường bị giới hạn. Kết quả là tất cả những cố gắng để gia tăng sản
lượng theo nhu cầu lương thực và các cái khác thì thường dựa chủ yếu vào sự
thâm canh hóa cho sản xuất với những giống cây trồng có năng suất cao trong
các vùng có tiềm năng cao. Đây là những vùng đất đai có đất tốt, địa hình
thích hợp, điều kiện mưa và nhiệt độ thích hợp hay có khả năng cung cấp
nước cho tưới, và dễ dàng tiếp cận với phân bón vô cơ và hữu cơ.
FAO ước lượng rằng (Yudelman, 1994; trong FAO, 1993), đất nông
nghiệp có thể mỡ rộng được khoảng 90 triệu ha vào năm 2010, diện tích thu
hoạch có tăng lên đến 124 triệu ha do việc thâm canh tăng vụ cây trồng. Các
10
vùng đất có khả năng tưới trong các quốc gia đang phát triển đang được mỡ
rộng tăng thêm khoảng 23,5 triệu ha so với hiện tại là 186 triệu ha.
Những nghiên cứu chi tiết hơn đang được thực hiện về tiềm năng tưới ở
các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở Châu phi. Những nghiên cứu này
chủ yếu tập trung trên các diện tích đất thích nghi kết hợp với các điều kiện
địa hình và nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm để thực hiện với chi phí
thấp và không làm hủy hoại giá trị môi trường.
Kết quả của thâm canh hóa có thể xảy ra được trong các vùng đất thiên
nhiên ưu đãi hay trên các vùng đất mà con người phải can thiệp vào bằng đầu
tư kinh tế như phát triển hệ thống tưới tiêu. Như vậy cho thấy rằng trong một
tương lai gần đây sẽ giảm đi một cách có ý nghĩa diện đích đất/nông hộ nông
thôn. Khả năng diện tích đất nông nghiệp trên nông hộ trong các quốc gia
đang phát triển được dự phóng bởi FAO cho năm 2010 chỉ còn gần phân nữa
là 0,4 ha so với cuối thập niên 80 là 0,65 ha, hình ảnh này cũng cho thấy diện
tích này sẽ nhỏ hơn vào những năm 2050. Ngược lại với các quốc gia đang
phát triển, các quốc gia phát triển sẽ có sự gia tăng diện tích đất nông nghiệp
trên đầu người do mức tăng dân số bị đứng chặn lại. Điều này sẽ dẫn đến một
số đất nông nghiệp sẽ được chuyển sang thành các vùng đất bảo vệ thiên
nhiên, hay vùng đất bảo vệ sinh cảnh văn hóa hoặc phục vụ cho các mục đích
nghĩ ngơi của con người (Van de Klundert, et al., 1994; trong FAO, 1993).
Tình trạng của các quốc gia nằm trong giai đoạn chuyển tiếp thì rất khó mà dự
phóng bởi vì những tiến trình hiện tại là đang chuyển đổi từ đất đai nông
nghiệp thuộc nhà nước sang quyền sử dụng đất đai tư nhân.
Sự ước đoán của FAO thì bị giới hạn theo tỉ lệ thời gian đến năm 2010,
khi mà sự thay đổi khí hậu toàn cầu được mong ước là ảnh hưởng không đáng
kể trong suốt thời gian này. Điều này có thể sẽ khác vào những năm 2050
hoặc sau đó. Hậu quả của các mô hình về sự thay đổi của khí hậu thì ở các
11
quốc gia đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng xấu hơn là thuận lợi về mặc an toàn
lương thực (Norse và Sombroek, 1995; trong FAO, 1993). [1]
2.2. Vai trò của đất đai đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
* Đất đai và sự phát triển kinh tế - xã hội
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Đất đai có ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và
đời sống của con người, đất với lớp phủ thổ nhưỡng, khoáng sản trong lòng
đất, rừng và mặt nước chiếm vị trí đặc biệt. Đất là điều kiện đầu tiên và là nền
tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và tồn tại
ngoài ý muốn của con người. Đất tồn tại như một vật thể lịch sử - tự nhiên.
Phương thức và mục tiêu sử dụng đất cũng rất đa dạng, có thể chia thành 3
nhóm mục đích sau đây:
- Dùng đất đai để làm nơi sinh sống, cơ sở sản xuất và môi trường hoạt
động.
- Lấy tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt từ đất đai để thỏa mãn nhu
cầu sinh tồn và phát triển.
- Đất cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc
hưởng thụ tinh thần.
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế - xã hội, khi mức sống của con
người còn thấp, công năng chủ yếu của đất là tập trung vào sản xuất vật chất,
đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Khi xã hội phát triển cao hơn, công năng
của đất từng bước được mở rộng, sử dụng đất cũng phức tạp hơn. Đất đai
12
không chỉ cung cấp cho con người các tư liệu vật chất để sinh tồn và phát
triển mà còn cung cấp các điều kiện cần thiết để hưởng thụ và đáp ứng nhu
cầu cho cuộc sống của nhân loại.
* Đất đai là một tư liệu sản xuất
Đất là điều kiện chung nhất của lao động, là đối tượng của lao động. Song
khi đứng ngoài quá trình lao động, đất không phải là một tư liệu sản xuất. Chỉ
khi tham gia vào quá trình lao động, khi kết hợp với lao động sống và lao động
quá khứ (lao động vật hóa) thì đất mới trở thành một tư liệu sản xuất.
Để có một quá trình lao động, cần phải có con người, có đối tượng lao
động và phải có công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, đất luôn luôn là
đối tượng chịu sự tác động của con người. Do đó, trong quá trình lao động,
đất được coi là một tư liệu sản xuất.
* Vai trò đặc biệt của đất trong nông nghiệp
Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của bất kỳ ngành
sản xuất nào. Đất cần cho công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,
Nhưng trong mỗi ngành đất có vai trò không giống nhau.
Trong các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, đất chỉ đóng vai trò thụ
động là cơ sở không gian, là nền tảng, là vị trí để thực hiện quá trình sản xuất.
Ở đây, quá trình sản xuất và hình thành sản phẩm không phụ thuộc vào tính
chất và độ màu mỡ của đất.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, ngoài vai trò cơ sở không gian
như trên, đất còn là kho tàng cung cấp các nguyên liệu quý giá cho con người.
Nhưng ngay cả ở đây, quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm làm ra cũng
không phụ thuộc vào chất lượng đất.
Riêng trong nông nghiệp thì đất có vai trò khác hẳn. Với nông nghiệp,
đất không chỉ là cơ sở không gian, không chỉ là điều kiện vật chất cần thiết
cho sự tồn tại của ngành sản xuất này, mà đất còn là yếu tố tích cực của sản
13
xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp có liên quan chặt chẽ với đất, phụ thuộc
nhiều vào độ phì nhiêu của đất, phụ thuộc vào các quá trình sinh học tự nhiên.
Trong nông nghiệp, ngoài vai trò cơ sở không gian, đất còn có hai chức năng
đặc biệt quan trọng:
Đất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá
trình sản xuất.
Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp nước, không khí
và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Như
vậy, đất gần như trở thành một công cụ sản xuất. Năng suất và chất lượng sản
phẩm phụ thuộc rất nhiều vào độ phì nhiêu của đất. Trong số tất cả các loại tư
liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp, chỉ có đất mới có được chức năng này.
2.3. Dự án quy hoạch và các yếu tố tác động đến dự án quy hoạch
Quy hoạch sử dụng đất là một hiện tượng kinh tế - xã hội có tính chất
đặc thù. Đây là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính pháp lý
của một hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội được xử lý bằng các
phương pháp phân tích tổng hợp về sự phân bố của các điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội, có những đặc trưng của tính phân dị giữa các cấp vùng lãnh
thổ theo quan điểm tiếp cận hệ thống để hình thành các phương án tổ chức lại
việc sử dụng đất đai theo pháp luật của Nhà nước. Bản thân nó được coi là hệ
thống các giải pháp định vị cụ thế của việc tổ chức phát triển kinh tế, xã hội
trên một vùng lãnh thổ nhất định, cụ thể là đáp ứng được nhu cầu mặt bằng sử
dụng đất hiện tại và tương lai của các ngành, các lĩnh vực cũng như nhu cầu
sinh hoạt của mọi thành viên xã hội một cách tiết kiệm, khoa học, hợp lý và
có hiệu quả cao.
Dự án là tập hợp các hoạt động mà nó thu hút nguồn nhân lực và vật
lực trong một tổ chức tạm thời để đạt được mục tiêu cụ thể trong một thời
14
gian xác định. Quy mô của một dự án có thể rất khác nhau, một dự án có thể
liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau.
2.4. Các yếu tố tác động đến giá đất
2.4.1. Nhân tố nhân khẩu
Trạng thái nhân khẩu là nhân tố chủ yếu nhất của kinh tế, xã hội, ảnh
hưởng của nhân tố nhân khẩu đến giá đất có mối liên quan mật thiết với mật
độ nhân khẩu, tố chất nhân khẩu và cấu thành nhân khẩu gia đình.
Mật độ nhân khẩu: Mật độ nhân khẩu tăng cao thì nhu cầu đối với giá
đất tăng lên. Ở Nhật Bản tỷ lệ tăng giá đất ở thành thị giai đoạn 1956 – 1960
là 11 – 13%, giai đoạn 1960 – 1961 là 17 – 18%, còn ở Mỹ giai đoạn 1956 –
1966, tỷ lệ biến động giá đất chỉ là 5,5 – 6,9&. Nguyên nhân chủ yếu là ở
Nhật Bản là nước có mật độ nhân khẩu thành thị cao nhất, là quốc gia có tỷ lệ
tăng nhân khẩu cao nhất trong những nước có nền kinh tế phát triển; trong khi
đó, tốc độ phát triển kinh tế thành thị của Mỹ cũng rất nhanh nhưng do mật độ
nhân khẩu thấp, tỷ lệ tăng nhân khẩu so với Nhật là thấp, yêu cầu về đất
không căng thẳng như ở Nhật Bản, do đó mức tăng giá đất tương đối nhỏ.
Tố chất nhân khẩu: Tố chất nhân khẩu thường tương quan với trình độ
giáo dục và tố chất văn hóa của nhân khẩu. Nhân tố này nhìn chung có ảnh
hưởng khá lớn đến giá đất nhà ở. Khu nhà ở cho nhân khẩu có tố chất cao
thường là xã hội trật tự ổn định, môi trường sống tốt đẹp, do đó tâm lý tạo
được ấn tượng tốt đẹp cho mọi người, gián tiếp làm tăng nhu cầu đối với loại
nhà ở này nên thúc đẩy giá đất tăng lên.
Cấu thành nhân khẩu gia đình: Do sự thay đổi phương thức sinh hoạt
truyền thống và ảnh hưởng của đô thị hóa, kết cấu gia đình ngày càng nhỏ.
Đại gia đình truyền thống tam đại, tứ đại đồng đường dần bị thay thế bằng gia
đình nhỏ lấy đôi vợ chồng làm trung tâm. Sự thay đổi kết cấu nhân khẩu gia
đình này sẽ làm tăng nhu cầu đối với nhà ở một cách tương ứng. Đồng thời,
15
nhu cầu đối với căn hộ khép kín diện tích nhỏ và nhà ở cho thuê cũng tăng
lên, từ đó giá đất dùng để xây nhà ở tăng lên và xu thế tăng giá này ngày càng
rõ ràng.
2.4.2. Nhân tố xã hội
Xã hội phát triển và ổn định có ảnh hưởng rất lớn đối với giá đất. Nhân
tố xã hội ảnh hưởng đến giá đất có 4 mặt chủ yếu là trạng thái ổn định chính
trị, an ninh xã hội, đầu cơ vào nhà đất và đô thị hóa.
Trạng thái ổn định chính trị: Tình trạng ổn định chính trị là tình trạng
ổn định của cục diện chính trị trong nước. Cục diện chính trị ổn định, thì việc
đầu tư vào tài sản nhà đất sẽ được vận hành bình thường, rủi ro ít, vốn bỏ ra
có thể thu về đúng thời hạn cùng với lợi nhuận, vì vậy lòng tin của nhà đầu tư
lớn sẽ kéo theo giá đất tăng lên. Ngược lại thì giá đất sẽ giảm xuống.
An ninh xã hội: Nhân tố này ảnh hưởng đến giá đất rõ ràng. Bất luận là
khu nhà ở hay khu thương nghiệp, trật tự xã hội tốt thì mọi người sẽ cảm thấy
an toàn, vì vậy họ sẵn sang đầu tư, mua bán, cư trú, do đó kéo theo giá đất
tăng lên. Ở mức độ nào đó mà nói, đây cũng là mối tương quan với tình trạng
ổn định cục diện chính trị.
Đầu cơ nhà đất: Đầu cơ nhà đất là hành vi nhà đầu cơ hy vọng và lợi
dụng sự biến động giá cả nhà đất để thu được siêu lợi nhuận. Nhân tố này có
ảnh hưởng đột xuất đến mức giá đất, đặc biệt là mức giá đất thị trường. Khi
đất cung không đủ cầu, do người đầu cơ tranh mua mà đợi giá lên cao, khi đất
cung nhiều hơn cầu, do người đầu cơ bán tháo làm cho đất rớt giá.
Tiến trình đô thị hóa: Một trong những kết quả của phát triển công
nghiệp hóa là thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Những khu vực có trình độ công
nghiệp hóa hoặc đô thị hóa cao, mà tổng diện tích đất của khu vực nói chung
là không đổi, cho nên ảnh hưởng của tiến trình đô thị hóa đối với giá đất biểu
hiện ở hai mặt sau đây: một là ở khu vực thành phố có mật độ nhân khẩu đông
16
đúc thì giá đất tăng cao, hai là tỷ lệ nhân khẩu nhập cư cao và tiến trình đô thị
hóa có tốc độ nhanh, thì mức độ và tốc độ tăng giá đất đều cao hơn giá đất
khu vực khác.
2.4.3. Nhân tố quốc tế
Sự phát triển và hoàn thiện của thị trường nhà đất là không thể tách rời
ảnh hưởng của hoàn cảnh quốc tế. Ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế
thế giới tới giá đất được phản ánh gián tiếp thông qua ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế, chính trị trong nước và trên thế giới.
- Tình hình kinh tế thế giới:
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia ngoài việc không thể cô lập và
tách rời với sự phát triển của kinh tế thế giới ra, nói chung hoặc ít hoặc nhiều
đều có quan hệ với sự phát triển kinh tế của quốc gia khác. Thị trường thế
giới càng mở rộng thì mối quan hệ này càng trở nên mật thiết. Cho nên, sự
thịnh suy kinh tế của mỗi quốc gia đều liên quan đến sự phát triển hay suy
thoái của kinh tế thế giới, tình trạng thị trường, đất đai cũng không có ngoại
lệ. Ví dụ, khi bùng phát nguy cơ kinh tế có tính toàn cầu năm 1929 giá đất ở
nước Mỹ hạ thấp nhanh chóng, từ đỉnh cao năm 1925 rớt thẳng xuống theo
đường thẳng đứng, đến năm 1933 thì rớt xuống đến điểm đáy, cho đến sau khi
kinh tế thế giới phục hồi thì giá đất mới tăng lên lại.
- Nhân tố chính trị quốc tế:
Mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia thường là tổng hợp của quan
hệ kinh tế. Cho nên, mối quan hệ tốt đẹp giữa quốc gia này với quốc gia khác,
giao lưu đối ngoại nhộn nhịp, môi trường ngoại giao cởi mở, hòa hoãn thì có
lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, khiến cho nhu cầu đất tăng, từ đó đẩy nhanh
giá đất lên cao và ngược lại. Đặc biệt là khi xảy ra xung đột quân sự thì tình
trạng đó ngày càng nghiêm trọng, kết quả là nhu cầu về đất xuống thấp nên
giá đất rớt theo.
17
2.4.4. Nhân tố kinh tế
Sự diễn biến của tình hình kinh tế có tác dụng quan trọng đối với quốc
tế dân sinh và ảnh hưởng đến địa vị quốc tế của mỗi quốc gia. Trong quá trình
Chính phủ tích cực theo đuổi sự tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế, tất cả
vật tư dân dụng đều thông qua ảnh hưởng của chính sách kinh tế mà đi đến ổn
định.
a) Tình trạng phát triển kinh tế
Một trong những chỉ tiêu trọng yếu để đánh giá trạng thái phát triển
kinh tế là thu nhập quốc dân. Thu nhập quốc dân tăng có nghĩa là trạng thái
tài chính tiền tệ lành mạnh, kinh tế phồn vinh, tăng cơ hội có việc làm, vật giá
tiền lương nằm trong trạng thái có lợi cho phát triển kinh tế, tổng đầu tư xã
hội tăng, tổng yêu cầu về đất không ngừng mở rộng khiến giá đất tăng lên. Từ
sự phát triển kinh tế của các nước, các khu vực và sự biến động về yêu cầu
đối với đất, thấy rằng xu thế biến động về nhu cầu đất đại thể là thống nhất
với xu thế của chu kỳ kinh tế.
b) Mức độ dự trữ và đầu tư
Mức độ dự trữ và mức độ đầu tư là tương quan thuận với nhau, nghĩa là
dự trữ tăng trưởng thì đầu tư cũng tăng tương ứng. Đây là nguyên lý "tính
thống nhất giữa dự trữ và đầu tư" trong kinh tế học. Như vậy, phân tích sự
ảnh hưởng của mức độ dự trữ và đầu tư đối với giá đất, có thể khái quát bằng
sự phân tích ảnh hưởng của mức độ dự trữ đối với mức giá đất.
Tích lũy phải dựa vào dự trữ, mà dự trữ nhiều hay ít lại do năng lực dự
trữ và nguyện vọng dự trữ quyết định. Khi năng lực dự trữ càng lớn mà
nguyện vọng dự trữ càng cao, hạn ngạch dự trữ càng nhiều thì tích lũy tư bản
càng nhanh. Nhìn từ góc độ tích lũy tư bản, giá cả tài sản nhà đất là lớn hơn
tổng lượng giá cả các tài sản khác, cho nên khi các gia đình thông thường
mua đất phải qua một thời kỳ tích cóp khá dài. Trường hợp tỷ lệ dự trữ cao thì
18
có lợi cho tích lũy tư bản và cũng mới có khả năng có đủ khoản tiền chuẩn bị
mua nhà. Cho nên, mức độ dự trữ nhiều hay ít, hành vi dự trữ của mỗi gia
đình và sự biến động giá cả trong thị trường nhà đất là liên quan mật thiết với
nhau. Nói chung một loạt thời kỳ có tỷ lệ dự trữ cao thường là thời kỳ tích lũy
dự trữ siêu ngạch; trong khi tỷ lệ dự trữ đang cao liên tục, nếu đột nhiên
xuống thấp, đó là thời kỳ nóng bỏng về tài sản nhà đất, lúc đó giá đất sẽ tăng
vọt.
c) Tình trạng chi thu tài chính và tiền tệ
Tình trạng tài chính và tiền tệ là phản ánh thực lực kinh tế tổng hợp
quốc gia, lượng cung cấp tiền mặt là biểu hiện bề ngoài của tình trạng tài
chính tiền tệ, cho nên ở đây, chúng ta chủ yếu phân tích về ảnh hưởng của
lượng cung cấp tiền mặt đối với thị trường đất đai, lượng cung cấp tiền mặt
gia tăng, là biểu thị gia tăng vốn lưu động trên thị trường, tức là tiền nhàn rỗi
của xã hội tăng. Vốn lưu thông quá thừa sẽ dẫn đến quá nhiều tiền mặt, tranh
mua số ít hàng hóa, đặc biệt việc mua nhà đất có thể bảo tồn được giá trị, nên
nó tạo thành nhu cầu về nhà đất tăng lên, thúc đẩy giá đất tăng lên không
ngừng.
d) Trình độ thu nhập và tiêu dùng của dân cư
Theo đà gia tăng thu nhập của dân cư, sau khi giải quyết vấn đề ăn no
mặc ấm, con người sẽ có nhu cầu tiêu dùng mới, biểu hiện về nhà ở là yêu cầu
càng cao về chất lượng, diện tích nhà ở, dẫn đến tăng nhu cầu về đất đai làm
cho giá cả đất đai của khu vực đó tăng.
e) Biến động vật giá
Sự biến động của vật giá ảnh hưởng thiết thân đến từng người. Tài sản
nhà đất càng ở trong thời kỳ vật giá biến động càng thể hiện được tính bảo
đảm giá trị, cho nên biến động vật giá là tỷ lệ thuận với ảnh hưởng của thị
trường nhà đất, có nghĩa là tỷ lệ tăng giá càng cao thì giá đất cũng càng cao,
19
chúng cùng chung xu thế "nước lên thuyền lên". Điều cần nói rõ là: giá nhà
đất tăng vọt chỉ phát sinh ở khu vực thành thị, khu vực nông thôn chịu ảnh
hưởng tương đối ít, thậm chí có nơi nhân khẩu bỏ đi ra ngoài một cách
nghiêm trọng thì giá đất còn xuống thấp. Điều đó mặt khác nói lên ảnh hưởng
của cung không đủ cầu trên thị trường nhà đất đô thị đối với giá đất.
f) Mức lãi suất
Một trong những đặc điểm chủ yếu của giao dịch tài sản nhà đất là hạn
ngạch lưu thông lớn, cho nên việc đầu tư hoặc mua bán nhà đất có liên quan
đến đồng vốn có thể sử dụng. Do thu nhập của nhà đầu tư thông thường
không thể có khả năng chi trả ngay một khoản lớn, nên phải trực tiếp vay
ngân hàng hoặc đem tài sản nhà đất thế chấp để có khoản vay. Do đó nhà đầu
tư hoặc nhân viên định giá đất đai phải luôn luôn nắm được tình hình vốn đầu
tư trong cơ cấu tiền tệ hiện hành, chính sách về cho vay làm nhà ở, đặc biệt là
nắm tình hình về biến động mức lãi suất. Những nhân tố chung nói trên
thường là ở tầm vĩ mô phát sinh ảnh hưởng có tính toàn cục đối với mức giá
đất của toàn bộ khu vực, dưới ảnh hưởng của những nhân tố đó phát sinh sự
khác nhau giữa các địa phương và các quốc gia về mức giá đất. Còn sự khác
nhau về giá đất giữa các khu vực trong cùng một địa phương, giữa các thửa
đất, lại chịu ảnh hưởng của nhân tố khu vực và nhân tố cá biệt. Do đó cần
phân tích thêm một bước ảnh hưởng của nhân tố khu vực và nhân tố cá biệt.
2.4.5. Nhân tố khu vực
Nhân tố khu vực là chỉ điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội kinh tế của
nơi có đất, những đặc tính địa phương do sự liên kết của các nhân tố này tạo
ra có ảnh hưởng quyết định đến mức giá cả đất đai trong địa phương đó.
a) Vị trí đất
Nhân tố vị trí ảnh hưởng đến giá đất chủ yếu là nói về vị trí kinh tế, là
nói về vị trí cụ thể từng đối tượng định giá trong thành phố, bao gồm đất được
20
xếp hạng, cự li đến trung tâm thành phố, trung tâm thương nghiệp hoặc đến
các trung tâm tập trung đông dân, cũng bao gồm cả mức độ ảnh hưởng của
các loại trung tâm đối với các khu vực khác của thành phố hoặc các loại đất.
b) Điều kiện cơ sở hạ tầng
Điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội ảnh hưởng tới giá đất chủ yếu bao gồm:
điện, điện thoại, nhà trẻ, trường học, công viên, bệnh viện Ngoài ra còn xem
xét đến cấp hạng, kết cấu, hệ số bảo đảm, mức độ đồng bộ và khoảng cách xa
gần Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật có ảnh hưởng đến giá đất chủ yếu có
loại đường giao thông của địa phương, độ tiện lợi và phương thức liên hệ với
bên ngoài, kết cấu tổng thể của mạng lưới giao thông, tình hình đường sá và
cấp hạng, tình trạng giao thông công cộng và mật độ lưới giao thông
c) Chất lượng môi trường
Chất lượng môi trường ảnh hưởng đến giá đất chủ yếu bao gồm, môi
trường nhân văn và môi trường tự nhiên, bao gồm các điều kiện môi trường tự
nhiên như: địa chất, địa thế, độ dốc, hướng gió, không khí, độ ô nhiễm tiếng
ồn cho đến các điều kiện môi trường nhân văn như loại hình nghề nghiệp
của dân cư, trình độ giáo dục và mức thu nhập ở khu vực.
d) Nhân tố quy hoạch
Nhân tố quy hoạch ảnh hưởng tới giá đất, chủ yếu có tính chất sử dụng
đất trong khu vực, kết cấu sử dụng, những điều kiện hạn chế sử dụng đất
Mức độ ảnh hưởng đến giá đất khu vực có tương quan trực tiếp với tính
chất của phân khu chức năng và tính chất sử dụng đất chức năng khác nhau
trong đô thị. Ví dụ như khu nhà ở thì đặc biệt chú trọng sự hoàn mỹ của môi
trường; khu thương nghiệp thì đặc biệt chú trọng đến môi trường kinh doanh
và tình trạng thu lợi; khu công nghiệp thì đặc biệt chú trọng đến giao thông
vận tải và các điều kiện cung ứng nước điện
21
2.4.6. Nhân tố cá biệt
Nhân tố cá biệt là những nhân tố chỉ đặc trưng và điều kiện của bản
thân thửa đất. Ảnh hưởng của nhân tố cá biệt đến giá đất tức là ảnh hưởng đến
giá cả của từng thửa đất.
a) Diện tích
Diện tích thửa đất cần vừa phải phù hợp với mục đích sử dụng đất, lớn
quá hay nhỏ quá đều không dễ dàng trong quá trình sử dụng và khả năng tài
chính của người sử dụng đất, nên ảnh hưởng đến giá cả của thửa đất.
b) Chiều rộng
Chiều rộng mặt tiền của thửa đất quá hẹp ảnh hưởng đến hiệu quả trưng
bày và thu lợi của người sử dụng đất, nếu đất đó dùng cho mục đích kinh
doanh, thương mại và ngay cả đất ở do đó cũng ảnh hưởng đến giá đất.
c) Chiều sâu
Trong mọi trường hợp thửa đất quá nông hoặc quá sâu so với mặt
đường đều không thuận lợi cho người sử dụng đất với bất cứ mục đích sử
dụng nào nên đều ảnh hưởng đến giá đất của thửa đất đó.
d) Hình dáng
Hình dáng của thửa đất đẹp nhất là vuông hoặc chữ nhật, còn các dạng
như tam giác, hình thang, hình bình hành, hình bất quy tắc đều không thuận
lợi cho việc sử dụng vào mục đích để ở nên ảnh hưởng đến giá đất.
đ) Độ dốc
Độ dốc quá lớn thì khó phát triển hoặc giá thành phát triển quá cao nên
ảnh hưởng đến giá đất.
e) Hạn chế của quy hoạch đô thị
Nhân tố quy hoạch đô thị được xem là nhân tố cá biệt bao gồm tỷ lệ
dung tích của loại đất, chiều cao vật kiến trúc, mật độ xây dựng, loại hình sử
dụng đất
22
2.5. Tình hình thực hiện các dự án quy hoạch trong những năm
qua tại tỉnh Hưng Yên
Năm 2010 tỉnh Hưng Yên thu hút được 108 dự án (trong đó 88 dự án
trong nước, 20 dự án nước ngoài), với tổng số vốn đầu tư 8.000 tỷ đồng và 60
triệu USD, đưa tổng số lên 850 dự án (trong đó 660 dự án trong nước, 190
DA nước ngoài), với tổng số vốn đăng ký 48 ngàn tỷ đồng và 1,39 tỷ USD.
Đã có 500 dự án đi vào hoạt động, tạo việc làm thường xuyên cho trên 9,1
vạn lao động địa phương.
Năm 2010, tổng vốn đầu tư XDCB của nhà nước trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên tăng. Các công trình, dự án do địa phương quản lý triển khai đảm bảo
tiến độ; ước khối lượng thực hiện 1.080 tỷ đồng, cấp phát 1.018 tỷ đồng, số
vốn còn thiếu so với khối lượng hoàn thành phải chuyển tiếp sang năm 2011
khoảng 62 tỷ đồng. Nhìn chung công tác đầu tư XDCB có nhiều tiến bộ, đầu
tư tập trung hơn vào các công trình quan trọng và công trình có khả năng
hoàn thành trong năm; thanh toán dứt điểm các công trình quyết toán toàn bộ
dự án. Công tác thẩm định dự án, thiết kế kỹ thuật - dự toán, đấu thầu, quyết
toán và cấp phát được thực hiện nhanh, đúng qui định của Nhà nước. Các chế
độ, chính sách mới về đầu tư XDCB được thực hiện ngay sau khi có hiệu lực;
việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng được phát huy; các địa phương chủ
động trong việc xác định danh mục đầu tư; chất lượng thẩm định, phê duyệt
và quản lý dự án được nâng lên; cơ bản đáp ứng các qui định. Công tác kiểm
tra, thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên và hiệu quả, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư. Các công trình Trung ương trên địa
bàn được triển khai tích cực.
Năm 2011, tỉnh Hưng Yên tập trung đẩy nhanh tiến độ những công trình
trọng điểm như quốc lộ 38, 39B, tỉnh lộ 200, dự án thoát lũ khẩn cấp sông
Điện biên, sông Đồng Quê - Cửu An; dự án nâng cấp đường đê tả Sông Hồng,
23