Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Luật đầu tư ở việt nam, quá trình hình thành và hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.94 KB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý và thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng trong thời
kỳ đổi mới. Luật Đầu tư tại Việt nam được ban hành năm 2005 đã góp phần thực
hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, có những
đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng nền kinh tế nước ta, tạo đà và khơi dậy
các tiềm năng kinh tế, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đầu tư, tạo cơ sở
cho việc cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng
thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
TẠI VIỆT NAM.
1.1 Sự cần thiết phải có luật đầu tư tại Việt Nam:
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một phương tiện quan trọng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội, bảo đảm cho xã
hội, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà Nước và xã hội đặt ra. Thực
hiện công cuộc đổi mới, những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật liên quan đến đầu tư như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà
nước tạo nên một khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động đầu tư phù
hợp với đường lối, quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, phù
hợp với yêu cầu hội nhập; tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhờ hiệu quả của hệ thống chính sách pháp luật về
đầu tư đã ban hành, việc huy động nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ngày
càng gia tăng.
Tuy nhiên, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới sâu rộng nền kinh tế, chủ
động hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan đối với việc cần
thiết phải xây dựng một khung khổ pháp lý thống nhất về đầu tư nhằm tăng cường
huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể :
- Đường lối đổi mới kinh tế của nước ta là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện


đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế quốc tế; nâng cao đời
sống nhân dân. Một trong các giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương trên là
phải tạo môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi, huy động và sử dụng
2
có hiệu quả mọi nguồn nội lực và ngoại lực.
- Thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới thời gian qua cho thấy, hệ thống pháp
luật về đầu tư và môi trường kinh doanh tại Việt Nam không ngừng được hoàn
thiện, theo hướng bình đẳng, không phân biệt, tạo lập “cùng một sân chơi chung”
cho các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, do các luật liên quan đến đầu tư trong nước
và nước ngoài được ban hành ở các thời điểm khác nhau, có phạm vi đối tượng
khác nhau nên các chính sách đầu tư chưa có sự nhất quán, chưa thực sự tạo được
“một sân chơi” bình đẳng; tình trạng phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư vẫn còn
tồn tại, đã hạn chế việc phát huy các nguồn lực. Những bất cập của hệ thống pháp
luật tách biệt theo thành phần kinh tế ngày càng bộc lộ rõ trước sự phát triển năng
động đa dạng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Do đó, cần cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý nhằm củng cố niềm tin của các
nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Nước ta đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến
hoạt động đầu tư như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp
định tự do, Khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản và gia nhập WTO. Việc
ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế trên một mặt đòi hỏi Việt Nam phải mở
cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các trợ cấp không
phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác vẫn phải duy trì một số chính sách bảo hộ
sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở cửa thị trường theo lộ trình xác
định.
- Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực đang
diễn ra ngày càng gay gắt và các nước trong khu vực đang cải cách mạnh mẽ môi
trường đầu tư theo hướng tự do hóa đầu tư, thương mại, làm cho hệ thống luật

3
pháp về đầu tư nước ngoài của ta được coi là hấp dẫn, nay đang giảm dần tính cạnh
tranh so với các nước trong khu vực. Do đó, cần có chính sách ưu đãi, khuyến
khích có tính cạnh tranh cao hơn, hoặc ít ra cũng tương đương so với các nước
trong khu vực.
Như vậy, việc ban hành Luật Đầu tư đã trở thành một đòi hỏi tất yếu
khách quan của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, của thực tiễn
hoạt động đầu tư và yêu cầu của hội nhập và cạnh tranh quốc tế nhằm huy động, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài của mọi thành
phần kinh tế.
1.2 Khái niệm Luật Đầu tư:
Theo khoản 1 điều 3 Luật Đầu Tư 2005 thì đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Sự tồn tại và phát triển của hoat động đầu tư là cơ sở thực tiễn của sự ra
đời và phát tiển của luật đầu tư. Luật đầu tư là các quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh.
Luật đầu tư điều chỉnh tất cả các hoạt động đầu tư tại Việt Nam và từ Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài, bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp;
đầu tư từ nguồn vốn nhà nước và của tư nhân; đầu tư của nhà đầu tư trong nước và
của nhà đầu tư nước ngoài.
1.3. Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư:
4
1.3.1. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu tư nước ngoài
có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường.
Chỉ sau hai năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là thời
điểm nhân dân ta mới bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang rất thịnh hành và nền kinh tế về cơ bản

chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong bối cảnh đó,
điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống
pháp luật của Việt Nam tạo thành hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư. Như
vậy, xét dưới góc độ lý luận có thể khẳng định công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà
nước khởi xướng chính thức được tính từ năm 1986, nhưng tiền đề của nó đã xuất
hiện ngay từ năm 1977 trong điều lệ đầu tư ở Việt Nam.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ từ năm 1977 đến năm
1986 Điều lệ Đầu tư năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên hướng tới nền kinh tế
thị trường, thể hiện chính sách “mở cửa’’ của Đảng và Nhà nước ta.
1.3.2 Pháp luật đầu tư ra đời trước khi có quan hệ đầu tư nước ngoài
trên thực tế ở Việt Nam:
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo hướng mà Nhà
nước mong muốn và có thể phản ánh đúng thực tiễn khách quan, Nhà nước xây
dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, so sánh với tiến trình
của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện chậm so với sự biến động và
phát triển của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các quy phạm pháp luật đầu tư ở
Việt Nam lần đầu tiên được ban hành, thì trên thực tế ở Việt Nam hoàn toàn chưa
có quan hệ đầu tư.Thời điểm đó, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đang
ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, các khái niệm cơ bản
5
của kinh tế thị trường như tự do thương mại, tự do cạnh tranh, thị trường
vốn chưa được chấp nhận chính thức trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta.
Đầu tư với tính chất là sự vận động trực tiếp của tư bản nước ngoài vào Việt Nam
lúc đó vẫn chưa được tán thành. Chỉ sau khi có chính sách đổi mới tư duy lý luận
và tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước thì đạo luật về Đầu tư tại Việt Nam mới
có cơ hội ra đời, các quan hệ đầu tư mới hình thành và phát triển trên cơ sở pháp lý
đó.
1.3.3. Pháp luật đầu tư có một số chủ thể đặc thù:
Pháp luật đầu tư điều chỉnh quan hệ đầu tư, trong đó ít nhất một bên là cá
nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam và bên kia là tổ chức, cá

nhân nước ngoài. Tổ chức kinh tế Việt Nam được hiểu là các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế được thành lập, tổ chức và hoạt động theo các quy định của
pháp luật Việt Nam, cơ quan nhà nước ở đây là cơ quan được Chính phủ ủy quyền
ký kết với các cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện các hợp đồng BOT, BT, BTO;
tổ chức, các nhân nước ngoài là các tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước
ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư tại Việt Nam gồm có:
1. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
2. Các nhà đầu tư tham gia quan hệ đầu tư tại Việt Nam.
3. Các nhà đầu tư Việt Nam tham gia quan hệ đầu tư.
4. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư, các doanh nghiệp BOT, BT, BTO.
5. Người lao động.
6. Các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.
Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
6
pháp luật đầu tư tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng so với các ngành luật
khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư tại Việt Nam, các chủ thể của
quan hệ pháp luật đó có các quyền và nghĩa vụ nhất định trên các cơ sở quy định
của pháp luật đầu tư tại Việt Nam, pháp luật của nước mà cá nhân, tổ chức kinh tế
nước ngoài mang quốc tịch và các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc tham gia, hoặc trên cơ sở kết hợp các quy định đó.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư tại Việt Nam
còn được xác định theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (1999), Hiệp định song phương
về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ Cơ quan đảm bảo đầu tư đa biên MIGA 1985
(Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ước New York 1958 về công
nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài
Các điều ước quốc tế đó là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư.

Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam cũng được xác định theo quy định của pháp luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, theo Giấy phép đầu tư và theo các văn bản cụ thể được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chuẩn y.
Trong một số trường hợp đặc biệt còn được xác định theo quy chế riêng do
Chính phủ Việt Nam ấn định sau khi có sự thỏa thuận với đối tác bên ngoài, ví dụ
một số hợp đồng BOT, BT, BTO
1.3.4 Pháp luật đầu tư có bộ phận cấu thành là một số lượng lớn các
điều ước quốc tế:
7
Lượng lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư có bộ
phận cấu thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu
tư, 34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
kỳ Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được tiến
hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các điều ước
quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là các điều ước
quốc tế, nhưng không nhiều và phong phú như Luật Đầu tư nước ngoài.
Trong pháp luật đầu tư, các quy phạm trong các điều ước quốc tế tham gia
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Các nhà đầu tư coi các điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng
để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đây có thể coi là một đặc thù của
pháp luật đầu tư bởi lẽ tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội của các ngành luật
khác có thể có các quy phạm được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập nhưng số lượng của chúng không nhiều và phổ biến như
ở pháp luật đầu tư nước ngoài.
1.4 Vai trò của Luật Đầu tư:
1.4.1 Pháp luật đầu tư là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản
lý nhà nước nói chung và bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư nói riêng:

Bộ máy quản lý nhà nước nói chung và bộ máy quản lý nhà nước về đầu
tư nói riêng là một thiết chế phức tạp gồm nhiều cơ quan khác nhau. Để bộ máy đó
hoạt động có hiệu quả, phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của
mỗi loại cơ quan, phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa
8
chúng, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức, hoạt động phù hợp để tạp
ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập quyền lực nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện khi được dựa trên cơ sở vững
chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật đầu tư. Thực tiến Việt
Nam trong những năm qua cho thấy, khi chưa có hệ thống các quy phạm pháp luật
đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chĩnh xác để làm cơ sở cho việc củng cố, hoàn thiện
bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư, thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng
chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước
trong lĩnh vực này, dễ sinh ra cồng kềnh, kém hiệu quả.
1.4.2 Pháp luật đầu tư đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả chức
năng tổ chức và quản lý đầu tư, góp phần xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội:
Chức năng tổ chức và quản lý đầu tư có phạm vi rộng và phức tạp gồm nhiều
mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết như:
hoạch định các chính sách đầu tư, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá cả
Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước để tạo ra
một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy hoạt động đầu tư đúng hướng, mang lại hiệu quả
thiết thực. Do tính chất phức tạp vủa hoạt động đầu tư ( nhiều vấn đề cần giải
quyết) và phạm vi rộng( trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lý đầu tư, Nhà
nước không thể tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Quá trình đó không thể thực hiện
được nếu không dựa vào pháp luật đầu tư. Chỉ có pháp luật đầu tư với những tính
chất đặc thù của nó mới là cơ sở để Nhà nước hoàn thành được chức năng của nó
trong lĩnh vực đầu tư.
9

Qua trình tổ chức và quản lý đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã
là một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật đầu tư. Tình trạng thiếu
các quy phạm pháp luật về đầu tư cũng như sự tồn tại quá lâu những văn bản,
những quy phạm pháp luật của cơ chế tập trung, quan lieu, bao cấp, đã làm giảm
hiệu lực quản lý của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển của hoạt động đầu tư nói
riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
1.4.3 Pháp luật đầu tư bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài,
đồng thời bảo hộ sản xuất trong nước:
Nhằm khuyến khích, kêu gọi đầu tư vào Việt Nam, Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1987 và 1996 đã khẳng định quyền được tôn trọng và bảo vệ của các
nhà đầu tư và quy định một số ưu đãi đối với đầu tư trong nước. Đối với các nhà
đầu tư, Nhà nước ta đã xác lập những chế định bảo hộ và khuyến khích đầu tư rất
rõ ràng.
Việc đề ra pháp luật đầu tư là nhằm quy định một hành lang pháp lý riêng
cho hoạt động đầu tư, để tách một số hoạt động cũng như một số ưu đãi đối với các
nhà đầu tư khỏi “sân chơi” của các doanh nghiệp nước ngoài, dành một số lợi thế
cho các doanh nghiệp trong nước. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt
Nam còn được hưởng một số đặc quyền hoặc ưu đãi thì mới tồn tại và phát triển
được, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế của ta còn nhiều hạn chế, các doanh
nghiệp trong nước chưa đủ mạnh. Chúng ta chủ trương bảo hộ sản xuất trong nước
trong một số lính vực, phạm vi và mức độ nhất định để tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trong nước dần mạnh lên. Vì vậy, có thể khẳng định một trong những vai
trò rất quan trọng của pháp luật dầu tư là bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, nhưng đồng
thời cũng là hành lang pháp lý để bảo hộ sản xuất trong nước.
10
1.4.4 Pháp luật đầu tư góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư tại Việt
Nam:
Pháp luật đầu tư ra đời là để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã
hội về đầu tư. Pháp luật đầu tư cũng tác động trở lại làm cho các quan hệ đầu tư
phát sinh, phát triển theo hướng có lợi.

Chính sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư, tạo tiền đề cho sự
cởi trói, thúc đẩy các quan hệ đầu tư mới phát triển. Đối với sự phát triển hoạt
động đầu tư, pháp luật đầu tư có vai trò cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật đầu tư tạo cơ sở cho việc xác lập những nguyên tắc
pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam có hiệu
quả. Có thể nói đây là vai trò quan trọng của pháp luật đầu tư, phản ánh những đòi
hỏi khách quan của sự phát triển của các quan hệ đầu tư. Để xây dựng một nền
kinh tế thị trường, không thể bỏ qua các nguyên tắc cơ bản như: tự do kinh doanh,
tự do sở hữu, tự do hình thành giá cả, khuyến khích cạnh tranh. Một khi các
nguyên tắc trên được thể chế hóa thành những nguyên tắc pháp lý, thì nó trở thành
những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các giải pháp, công cụ để tác động lên
hoạt động đầu tư, làm cho nó không thoát ly trật tự hình mẫu mà nó đang vươn tới
và đem lại những kết quả khả quan cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật đầu tư xác lập môi trường an toàn cho sự xuất hiện của
các quan hệ đầu tư, đảm bảo cho các quan hệ đó được điều chỉnh trong trật tự.
Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ sự hợp tác và mối quan hệ giữa
các tổ chức, cá nhân nước ngoài với nước ta chỉ có thể phát triển trong môi trường
chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Đối với các nhà đầu
tư, thị trường đầu tư của họ rất rộng lớn trong phạm vi quốc tế: quan hệ đầu tư ra
11
nước ngoài của họ là quan hệ kinh doanh, mục đích của họ là tìm kiếm lợi nhuận
cao. Vì vậy, họ chỉ chấp nhận đầu tư vào đâu có lợi nhuận thỏa đáng. Đảm bảo
hoạt động đầu tư cho họ đồng nghĩa với đảm bảo cho họ có đủ điều kiện để có lợi
nhuận. Đó là môi trường đầu tư ổn định, độ rủi ro trong kinh doanh không cao, thủ
tục đầu tư đơn giản, thuận tiện. Ở Việt Nam đã có môi trường pháp lý đáng tin cậy,
và nhờ đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng
đã mở rộng, phát triển và đem lại hiệu quả đáng kể góp phần quan trọng vào sự
phát triển xã hội.
1.4.5 Pháp luật đầu tư góp phần thúc đẩy và phát triển mối quan hệ
hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc:

Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các nước
ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở cho việc
thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật của
mỗi nước. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước có bước phát
triển mới: bên cạnh pháp luật đầu tư trong nước điều chỉnh hoạt động đầu tư của cá
nhận, tổ chức trong nước, còn có pháp luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh các quan
hệ có lien quan đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Trong quá
trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bước hội nhập vào kinh tế khu vực và
quốc tế, pháp luật đầu tư trong nước và pháp luật đầu tư nước ngoài là công cụ
quan trọng không chỉ tạo ra môi trường pháp lý an toàn cho việc mở của nền kinh
tế, mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường
quốc tế. Pháp luật đầu tư là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở
rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc.
12
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOÀN THIỆN LUẬT
ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
2.1. Mục đích, yêu cầu sửa đổi pháp luật đầu tư và ban hành Luật Đầu tư
chung:
Từ năm 1945, sau khi giành được chính quyền, Đảng cộng sản Việt Nam chủ
trương “kháng chiến kiến quốc”, bảo toàn lãnh thố, giành độc lập hoàn toàn và
kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ. Nhà nước Việt Nam đã hiện thực hoá
bằng việc tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên pháp luật về đầu tư thời kỳ này thể hiện
tính ổn định chưa cao, chưa có văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước
ban hành quy định về đầu tư
Trong thời kỳ Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế
vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, pháp luật về đầu tư không thực sự là phương
tiện quan trọng nhất trong điều kiện kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói

riêng, về mặt pháp lý, hoạt động đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân không được
thừa nhận trong giai đoạn này.
Hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây
dựng trong những năm thực hiện công cuộc đối mới nền kinh tế. Đại hội đại biếu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, với quy định phát triến
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Với quan điểm huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế, pháp
luật về đầu tư của Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng cho các nhà
đầu tư bỏ vốn kinh doanh.
Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam bắt
buộc phải thay đổi, phát triển hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về đầu tư và
thương mại. Năm 1987 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, và sau đó được sửa đổi bổ sung nhiều lần. Đến năm 1996, Quốc hội
13
Việt nam đã ban hành mới Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế Luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và cũng được sửa đổi bổ sung vào năm 2000.
Trong khi đó, vào cùng thời điểm đầu thập niên 90, các hoạt động đầu tư do các
nhà đầu tư trong nước thực hiện lại được điều chỉnh bởi Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân (1990), sau đó được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp (1999)
và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994). Trong quá trình hội nhập với nền
kinh tế thế giới, Việt Nam thấy cần thiết phải ban hành một bộ luật thống nhất có
thể điều chỉnh và chi phối các hoạt động đầu tư trong nước lẫn nước ngoài. Do vậy,
năm 2005 Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư,
cùng có hiệu lực từ ngày 01/07/ 2006. Các luật này thay thế Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp (1999) và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước (1994).
2.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện:
2.2.1. Điều lệ đầu tư năm 1977:

Năm 1975, đất nước Việt nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách
mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn củng cố và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Lúc này, trong bối cảnh nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát
rất thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh lâu dài, nhân dân ta đã không
ngừng phấn đấu vượt qua bao thử thách và khó khăn chồng chất. Chúng ta đã có
nhiều cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá
nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới; bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế
vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và mang nặng tính
chất tự cấp tự túc. Trình độ trang bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ
tầng, văn hoá-xã hội lạc hậu; năng suất lao động xã hội rất thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn
14
mang đặc trưng một nước nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều
mặt, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài, chủ yếu là
các nước XHCN, đặc biệt là Liên xô. Tình trạng chia cắt, khép kín ở từng đơn vị,
từng ngành và từng địa phương còn phổ biến. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả rất thấp.
Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ
khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976 đã khẳng
định “việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực
kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò vô cùng
quan trọng” (Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976). Thực hiện
chủ trương đúng đắn đó của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài (sau đây gọi tắt là Điều lệ đầu tư
năm 1977), một văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều chỉnh
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về
đầu tư nước ngoài này, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước,
được các nhà đầu tư nước ngoài thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của
Việt Nam.

Theo các quy định tại Điều 1 của Điều lệ đầu tư năm 1977, Chính phủ Việt
Nam chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng có lợi mà
không phân biệt chế độ kinh tế chính trị của quốc gia của nhà đầu tư. Mục đích
khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được thể hiện một cách rõ ràng. Trong bối cảnh
của nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng Điều lệ đầu tư năm 1977 đã tạo ra một
môi trường pháp lý đặc thù của một nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Điều lệ đầu tư năm 1977 gồm 7 chương và 27 điều với
cấu trúc như sau :
Chương 1 : Nguyên tắc chung.
15
Chương 2 : Hình thức đầu tư.
Chương 3 : Quyền lợi và nghĩa vụ của bên nước ngoài
Chương 4 : Thủ tục đầu tư.
Chương 5 : Giải thể và thanh lý các xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư của
nước ngoài.
Chương 6 : Xử lý các vụ tranh chấp.
Chương 7 : Điều khoản thi hành.
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định các đối tác nước ngoài được phép đầu tư
tại Việt nam là: “có thể là xí nghiệp, công ty, tổ chức tư nhân, tổ chức Nhà nước, tổ
chức quốc tế hoặc từng cá nhân“ (Điều 3), ở đây ta thấy rằng diện cho phép rất
rộng và quy định rất cụ thể, chẳng hạn bao gồm cả tổ chức Nhà nước, tổ chức quốc
tế, trong khi ngày nay Luật Đầu tư nước ngoài chỉ giới hạn trong các tổ chức kinh
tế và cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, trong quy định về đối tác đầu tư, Điều lệ đầu
tư năm 1977 mới chỉ chú trọng vào đối tác nước ngoài, mà chưa có điều khoản
riêng quy định cụ thể về các loại đối tác Việt nam được phép tham gia hợp tác đầu
tư.
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định ba hình thức đầu tư đó là: Hình thức
Hợp tác sản xuất chia sản phẩm (là tiền đề của hình thức Hợp đồng hợp tác kinh
doanh ngày nay); Hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp (là tiền đề của hình

thức liên doanh ngày nay); Hình thức xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu (là hình thức tiền để của hình thức 100% vốn nước ngoài ngày nay).
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định thời hạn đầu tư trong thời gian từ 10
đến 15 năm trừ những trường hợp đặc biệt (Ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí) thì
thời gian có thể được cho phép dài hơn ( Điều 10 khoản 1).
Thuế lợi tức áp dụng 3 mức là: 30%, 40%, 50% (Điều 15), cụ thể như sau :
30% lợi tức tính thuế đối với các ngành sản xuất chuyên dành cho xuất khẩu, thu
theo hình thức khoán định mức trên doanh số hoặc đơn vị sản phẩm; 40% lợi tức
16
tính thuế đối với những ngành kinh tế đòi hỏi trình độ kỹ thuật hiện đại và số vốn
đầu tư lớn; 50% lợi tức tính thuế đối với các ngành kinh tế khác.
Điều lệ đầu tư năm 1977 chưa quy định được quy trình thẩm định và nội
dung đầu mục hồ sơ một cách cụ thể, tuy nhiên cũng đã quy định được đầu mối
nhận hồ sơ và cấp Giấy phép đầu tư là Bộ ngoại thương (nay là Bộ thương mại), đã
quy định thời hạn xem xét thẩm định hồ sơ là 3 tháng và sau khi nhận được Giấy
phép đầu tư, nhà đầu tư phải đăng ký đầu tư tại Bộ ngoại thương để quản lý chung
về hoạt động kinh doanh và đăng ký với Bộ tài chính để quản lý các vấn đề về
thuế, tài chính .
 Ưu điểm của điều lệ đầu tư 1977:
- Tạo tiền đề cho những ý tưởng thu hút đầu tư.
- Cơ sở cho việc phát triển từng bước pháp luật về đầu tư và cải cách luật
pháp trong quan hệ thu hút vốn đầu tư.
 Nhược điểm của điều lệ đầu tư 1977:
- Còn lúng túng trong nền kinh tế bao cấp nên thiếu các qui định cụ thể.
- Các lĩnh vực mở có liên quan đến ngân hàng, quản lý, đất đai, lao động, tài
nguyên v.v… chưa cụ thể, chưa đồng bộ, còn nặng nề bao cấp, chưa có cơ chế vận
dụng thoáng và linh hoạt.
2.2.2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987:
Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế
trầm trọng, sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát

triển của nền kinh tế Việt Nam, mức lạm phát lên tới trên 700% năm 1986. Tốc độ
tăng trưởng bình quân trong các năm 1981 - 1985 là 6,4% và 1986 - 1990 là 3,9%
(Tạp chí cộng sản số 17 năm 1997). Nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa hoặc giải thể, hàng chục
vạn công nhân dời bỏ dây chuyền sản xuất, đổ vỡ tín dụng liên tiếp xảy ra ở nhiều
nơi gây ảnh hưởng rất xấu tới tình hình kinh tế xã hội. Trong khi đó, hàng loạt các
17
ngành có ưu thế như : công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công lắp
ráp lại không được Nhà nước quan tâm đúng mức, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và tất
cả đều ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng.
Thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 17/7/1984 và Nghị
quyết Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá V) ngày 20/12/1984
về việc bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành năm 1977, tiến tới xây
dựng một bộ Luật Đầu tư hoàn chỉnh, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 8 ngày
31/12/1987 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Sau đây gọi là
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987). Có thể nói sự ra đời của Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1987 xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận
động xã hội, nó đã tạo ra được một môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt nam.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được soạn thảo dựa trên nội dung cơ bản
của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt nam và tham khảo kinh
nghiệm của các nước khác trên thế giới. Với một nội dung tương đối hấp dẫn, cấu
trúc đơn giản, đầy đủ và nhìn chung phù hợp với tập quán luật pháp Quốc tế, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã đáp ứng được mong mỏi của các nhà
đầu tư nước ngoài.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 gồm 6 chương với 42 điều, với cấu trúc
như sau :
- Chương 1: Những quy định chung.
- Chương 2: Hình thức đầu tư.
- Chương 3: Biện pháp bảo đảm đầu tư.

- Chương 4: Quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đầu tư nước
ngoài.
- Chương 5: Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư của nước ngoài.
- Chương 6: Điều khoản cuối cùng
18
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực
cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới, cụ thể như sau:
“Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng
nhập khẩu; Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để
khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công xuất của các cơ sở kinh tế hiện
có; Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt nam;
Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ; Dịch vụ thu tiền nước ngoài như du lịch,
sửa chữa tầu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu và các dịch vụ khác” (Điều 3 đoạn 2)
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã hoàn thiện 3 hình thức đầu tư mà đã
được quy định một cách sơ khai trong Điều lệ đầu tư năm 1977 với một nội dung
rõ ràng hơn, khoa học hơn
Một trong những quy định quan trọng mà nhà đầu tư nước ngoài rất quan
tâm, đó là vấn đề bảo đảm đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định
tương đối đầy đủ những nguyên tắc và biện pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho
Bên nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt nam, thể hiện ngay Điều 1 đoạn 2 quy
định : “Nhà nước Việt nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền
lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và
định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân có đầu tư tại Việt nam”, đồng
thời Điều 21 cũng khẳng định : “ Trong quá trình đầu tư vào Việt nam, vốn và tài
sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng
biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu
hóa”. Như vậy những nguyên tắc cơ bản nhất đã được Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 ghi nhận và khẳng định, điều này vô cùng quan trọng đối với nhà đầu tư,
nó đã tạo ra được tâm lý vững vàng cho nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt nam. Ngoài
ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định bảo đảm đối đãi công bằng và thoả

đáng với nhà đầu tư (Điều 20); Cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước
vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Điều
19
22); Cho phép nhân viên người nước ngoài làm việc trong xí nghiệp liên doanh, xí
nghiệp có vốn 100% của nước ngoài hoặc để thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh
doanh được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế
thu nhập (Điều 23).
Theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 thì thuế lợi tức áp dụng đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 10% đến 25% lợi nhuận thu được
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định rộng hơn là " Thời hạn hoạt
động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm. Trong trường
hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn" (Điều 15), sau đó Nghị định 139 đã cụ
thể hoá thời hạn tối đa là 50 năm (Điều 43). Với thời gian dài như vậy đã làm nhà
đầu tư yên tâm đầu tư những dự án lớn và có khả năng thu hồi vốn chậm, đấy cũng
là lĩnh vực ta cần khuyến khích kêu gọi đầu tư. Tuy nhiên Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 vẫn chưa quy định thời hạn cho hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định rõ về quy trình thẩm định
cấp Giấy phép đầu tư và giới hạn thời gian tối đa là 3 tháng thì cơ quan cấp phép
đầu tư phải trả lời nhà đầu tư việc việc cấp Giấy phép đầu tư (Điều 38 - Luật 87).
Ngoài ra còn quy định rất kỹ đến nội dung hồ sơ của từng loại hình thức đầu tư, về
đơn, điều lệ, hợp đồng, luận chứng kinh tế kỹ thuật và những tài liệu liên quan
khác (Điều 37 ).
 Ưu điểm:
 Đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp quan trọng để mở rộng hợp
tác kinh tế với các nước.
 Góp phần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân.
 Nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên, lao động và các tiềm năng
khác của đất nước và để đẩy mạnh xuất khẩu.
 Do xuất phát từ những đặc điểm, thực tiễn của VN, có tham khảo,
chọn lọc kinh nghiệm các nước trong vùng và trên thế giới.

20
 Cho thấy được vai trò, vị trí quan trọng của đầu tư nước ngoài.
 Có tác động mạnh đến việc xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp luật
điều chỉnh đổi mới các hoạt động kinh tế với nhiều thành phần kinh tế từng bước
được bình đẳng hoạt động.
 Nhược điểm:
- Các đối tác trong nước mới được mở ra áp dụng đối với các thành phần, tổ
chức kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, hạn chế đối với thành phần kinh tế tư nhân.
- Các văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời và còn thiếu tính cụ thể
từng mặt, từng lĩnh vực.
- Chưa có nền tảng là các đạo luật cơ bản về kinh tế.
- Môi trường pháp lý về thu hút đầu tư nước ngoài còn những tiềm ẩn rủi ro
và thiếu ổn định.
2.2.3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1990:
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 qua hơn hai năm thực hiện, từ những
kết quả bước đầu đạt được đã cho phép khẳng định: việc ban hành Luật và nội
dung cơ bản của Luật là phù hợp với xu thế chung, phù hợp với mục tiêu khuyến
khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt nam trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt nam, tuân thủ pháp luật Việt nam, bình
đẳng và các bên cùng có lợi.
Bên cạnh những kết quả tích cực và đáng khích lệ bước đầu, còn có mặt hạn
chế do những nguyên nhân khách quan về tình hình chính trị quốc tế và khu vực
hoặc do những thiếu sót của ta trong việc thi hành Luật, đồng thời cũng có một số
vấn đề trong bản thân nội dung của Luật chưa thật phù hợp với sự phát triển của
nước ta và cũng chưa phù hợp với đòi hỏi của tình hình thực tế. Vì vậy tại kỳ họp
thứ 7 Quốc hội khoá 8 ngày 30/6/1990 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam (sau đây gọi là Luật Đầu tư nước
21
ngoài sửa đổi năm 1990). Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 gồm 2 điều,

đã sửa đổi và bổ sung 15 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và tập trung
vào 2 vấn đề lớn sau đây:
2.2.3.1 Vấn đề tư nhân tham gia hợp tác với nước ngoài:
Điều 2 khoản 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: "Các tư nhân
Việt nam có thể chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam thành Bên Việt nam để hợp
tác kinh doanh với Bên nước ngoài". Điều này có nghĩa là tư nhân Việt nam kể cả
các công ty tư nhân được chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam thành Bên Việt
nam để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài. Quy định này không còn phù hợp
với chính sách mới về kinh tế nhiều thành phần đã được ban hành, theo đó, đi đôi
với việc củng cố và phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh, cần phát triển mạnh
mẽ các thành phần kinh tế khác, kể cả tiểu chủ, tư bản tư doanh ở thành thị và nông
thôn, xoá bỏ những định kiến, hoặc phân biệt đối xử và thiếu bình đẳng trước pháp
luật đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Việc mở ra cho tư nhân Việt nam được độc lập đứng ra tham gia hợp tác
với nước ngoài là cần thiết để thể hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần của Nhà nước ta, tăng cường niềm tin và tạo cơ hội cho các thành phần kinh
tế tư nhân tự nguyện bỏ vốn ra và phát huy năng lực của mình để hợp tác kinh
doanh với Bên nước ngoài và qua đó, góp phần nâng cao tỷ trọng vốn trong nước
trong toàn bộ cơ cấu đầu tư của nền kinh tế, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu
tư của nước ngoài.
Chủ trương mở ra cho các thành phần kinh tế tư nhân được đứng độc lập
thành Bên Việt nam để hợp tác với nước ngoài không có nghĩa là xoá bỏ mọi sự
hạn chế đối với họ trong một số lĩnh vực cần đưọc dành riêng cho kinh tế quốc
doanh (như: công nghiệp quốc phòng; khai thác dầu khí và các tài nguyên quý,
hiêm; các ngành kinh tế - kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế ). Đồng
thời, cần hướng sự hợp tác của tư nhân vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu,
22
hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu Mặt khác, cần quy định những điều kiện
chặt chẽ như: phải thực sự có năng lực hoạt động, nhất là điều kiện về vốn
Theo tinh thần trên, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép

các tổ chức kinh tế Việt nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế
được hợp tác đầu tư nước ngoài (Điều 2, khoản 2). Đồng thời hạn chế các tổ chức
kinh tế tư nhân Việt nam chỉ được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước
ngoài trong những lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định (cuối
Điều 3).
2.2.3.2. Vấn đề liên doanh nhiều bên:
 Xí nghiệp liên doanh nhiều bên:
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 mới chỉ cho phép liên doanh
hai bên, bao gồm Bên nước ngoài và Bên Việt nam (Khoản 1 Điều 2 và Điều 6)
Thực tiễn hơn hai năm thi hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho thấy
không phải lúc nào các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng như Việt nam muốn
đứng chung thành một Bên nước ngoài hoặc một Bên Việt nam để lien doanh với
nhau, rất nhiều trường hợp họ muốn đứng riêng thành từng bên độc lập trong liên
doanh. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh có nhiều Bên nước ngoài và nhiều
Bên Việt nam là cần thiết, xuất phát từ mong muốn chính đáng của nhiều nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài, làm cho Luật Đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp
với sự vận động và phát triển của quy luật kinh tế.
Trên tinh thần đó, ngoài hình thức liên doanh hai bên, Luật Đầu tư nước ngoài
sửa đổi năm 1990 đã bổ sung hình thức liên doanh nhiều bên dẫn tới sửa đổi, bổ
sung một số khái niệm liên quan tại khoản 4 Điều 2, khoản 5 Điều 2, khoản 6 Điều
2, khoản 10 Điều 2. và sửa đổi, bổ sung vấn đề liên quan đến Hội đồng quản trị tại
Điều 12 theo hướng: Trong trường hợp liên doanh nhiều bên thì mỗi bên ít nhất có
một thành viên trong Hội đồng quản trị; Nếu trong xí nghiệp liên doanh có một
Bên Việt Nam và nhiều Bên nước ngoài hoặc một Bên nước ngoài và nhiều Bên
23
Việt Nam, thì Bên Việt Nam hoặc Bên nước ngoài ít nhất có hai thành viên trong
Hội đồng quản trị.
 Xí nghiệp liên doanh mới :
Nhằm mở rộng quy mô và hỗ trợ cho hoạt động của xí nghiệp liên doanh hiện
có, đồng thời thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài, trong thực tiến đặt ra nhu cầu

một xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài (có tư cách pháp nhân theo
pháp luật Việt nam) muốn được liên doanh tiếp với một tổ chức kinh tế nước ngoài
để thành lập xí nghiệp liên doanh mới có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt
nam. Đây là một nhu cầu chính đáng phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép xí nghiệp liên doanh được
hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại
Việt Nam (Điều 6), đồng thời bổ sung vào khái niệm "Xí nghiệp liên doanh" ngoài
liên doanh thông thường còn có thêm liên doanh mới do xí nghiệp liên doanh cũ
hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh (khoản 10
Điều2):
 Vấn đề hàng thay thế nhẩp khẩu:
Trong các lĩnh vực được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 khuyến khích, có
vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu (Điều 3 khoản 1).
Tuy nhiên, một số quy định trong Luật đã gián tiếp không khuyến khích việc tiêu
thụ sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt nam,
ví dụ:
- Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy đinh: "Lương và các khoản
phụ cấp khác của người lao động Việt nam được trả bằng tiền Việt nam có gốc
tiền nước ngoài". Điều này trên thực tế ngăn cấm cả việc xí nghiệp dùng những
khoản tiền Việt nam thu được bằng cách tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt nam
để trả lương cho người lao động Việt nam.
- Điều 27 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 về điều kiện để được miễn, giảm
24
thuế lợi tức, chỉ qui định căn cứ vào lĩnh vực đầu tư, quy mô vốn đầu tư, khối
lượng hàng xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động để cho hưởng miễn giảm
thuế, mà không đề cập gì đến nhân tố hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Để mở rộng thị trường trong nước, khuyến khích đầu tư nước ngoài, tiết kiệm
ngoại tệ, đi đôi với khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, cần có chính sách
khuyến khích đối với việc tiêu thụ ở thị trường nội địa , một tỷ lệ sản phẩm nhất
định của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đối với những mặt hàng thiết

yếu mà ta vẫn phải bỏ ngoại tệ ra để nhập khẩu, do trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất chưa đủ đáp ứng nhu cầu (như phân bón, thuốc trừ sâu, dầu nhờn,
nhựa đường ) miễn là chất lượng của những sản phẩm đó không qúa thua kèm so
với hàng nhập khẩu và giá có phần nào rẻ hơn. Từ những lý do như vậy nên Luật
Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung Điều 16 cho phép trả
lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt nam được trả bằng tiền Việt
nam và tiền nước ngoài trích từ tài khoản của xí nghiệp mở tại Ngân hàng (Điều16)
và bổ sung vào Điều 27 ngoài các tiêu chí hiện hành để xét cho huởng ưu đãi về
thuế lợi tức như: lĩnh vực đầu tư, qui mô vốn đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu,
tính chất và thời gian hoạt động, còn bổ sung thêm tiêu chí là khối lượng hàng thay
thế hàng nhập thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ.
Ưu điểm:
- Tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài.
- Mở rộng khả năng và điều kiện cho nhà đầu tư trong nước về hợp tác liên
doanh với nước ngoài về đầu tư.
- Xác định mọi thành phần kinh tế (kể cả các tổ chức kinh tế tư nhân VN)
được hợp tác kinh doanh với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong những lĩnh vực
và điều kiện do Hội Đồng Bộ Trưởng qui định.
- Cam kết đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư, giảm thuế để đảm bảo lợi nhuận
cho các nhà đầu tư.
25

×