Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Luận văn: Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.96 KB, 59 trang )

Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ARF Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
BOT Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao
BT Xây dựng – Chuyển giao
BTO Xây dựng – Chuyển giao – Vận hành
CN Công nghiệp
DN Doanh nghiệp
DV Dịch vụ
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HĐBA/LHQ Hội đồng bảo an/Liên hợp quốc
NSNN Ngân sách nhà nước
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TM Thương mại
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
USD Đồng đô-la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng số Tên bảng Trang
1.1 Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 -
2010
17
2.1 FDI của Trung Quốc vào Việt Nam phân theo hình
thức đầu tư


30
2.2 FDI của Trung Quốc vào Việt Nam phân theo các
ngành
33
2.3 FDI của Trung Quốc vào Việt Nam phân theo địa
phương
61
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
2.1 Tỉ trọng các dự án FDI của Trung Quốc vào Việt
Nam theo hình thức đầu tư
32
2.2 Tỉ trọng các ngành có vốn FDI của Trung Quốc vào
Việt Nam
34
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
MỤC LỤC
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU

Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Mục tiêu thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
đòi hỏi nước ta phải có một lượng vốn khổng lồ. Cùng với việc huy động
nguồn vốn đầu tư trong nước, nhất là nguồn vốn ngoài nhà nước, là việc đẩy
mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực
tiếp. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam trong những

năm qua tăng khá nhanh về chất và lượng. Tính đến nay đã có hàng ngàn DN,
bao gồm cả các tập đoàn lớn nhất thế giới, từ hơn 77 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 70 tỷ USD. Việt
Nam đang là điểm đến đầy hứa hẹn cho các nhà đầu tư nước ngoài (FDI)
trong bối cảnh đang dấy lên một làn sóng đầu tư mạnh mẽ mới vào Việt Nam.
Trung Quốc là một trong những nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam
trong hơn 10 năm trở lại đây. Quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc được
xúc tiến gắn liền với sự kiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai
nước năm 1991. Từ đó cho tới nay Trung Quốc đã và đang trở thành một đối
tác hàng đầu của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế mà đặc biệt là đầu tư
trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam.
Trong thời gian tới, VN vẫn tiếp tục tăng số lượng các dự án FDI, song
sẽ phải quan tâm nhiều hơn tới chất lượng của dự án. Các dự án FDI sẽ phải
được chọn lọc thật kỹ, làm sao để có thể thu hút được những công nghệ tiên
tiến, công nghệ cao của các nước khác. Đối tượng cũng phải là những công ty
xuyên quốc gia, có tiềm lực về tài chính và công nghệ. Tuy Việt Nam có lợi
thế về nguồn lao động giá rẻ, song trình độ chuyên môn lại không cao. Nếu
chủ quan, không đào tạo lao động tích cực hơn thì trong tương lai chất lượng
đầu tư vào VN sẽ không được như mong đợi.
Xuất phát từ thực tế trên và qua thời gian thực tập tại Phòng Xúc tiến
đầu tư – Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư, em đã mạnh dạn chọn
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
đề tài “Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc
vào Việt Nam” làm nội dung tìm hiểu và nghiên cứu của mình.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của FDI đối với phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam thời
gian qua

Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút FDI của Trung Quốc vào Việt Nam
Do còn nhiều hạn chế về thời gian và trình độ lý luận cũng như thực
tiễn, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy giáo, cô giáo để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Bùi Thị Nguyệt Dung – giáo viên
trực tiếp hướng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa Tài chính quốc tế và các cô
chú, anh chị trong Phòng Xúc tiến đầu tư – Cục đầu tư nước ngoài đã giúp đỡ
em hoàn thành bài chuyên đề của mình.
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
Chương 1
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của FDI đối với phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế, đó là hình
thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó
sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Sự ra đời của đầu tư
trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân
công lao động quốc tế.
Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được nhìn nhận theo nhiều
cách khác nhau. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về
FDI: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu
tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ”
và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”. Theo luật

FDI tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được hoàn thiện bổ sung sau 4 lần
sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000): “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ
chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc
bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái
niệm: “ một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghệp có tư cách
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
1
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư sở hữu ít
nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu
tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”.
Như vậy qua những cách tiếp cận khác nhau có thể rút ra bản chất của
đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh
doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đi kèm với đầu
tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước nhận đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chính sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được thực hiện bằng nguồn vốn
tư nhân, chủ đầu tư chịu trách nhiệm về quản lý kinh doanh, lỗ, lãi. Là hình
thức có tính khả thi và tính hiệu quả cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho
nền kinh tế.
- Các chủ đầu tư phải đóng góp một số vốn tối thiểu, tùy theo quy định
của từng quốc gia để có quyền trực tiếp quản lý điều hành dự án đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ có sự lưu chuyển vốn mà còn
thường đi kèm theo công nghệ, kiến thức kinh doanh và gắn với mạng lưới
phân phối rộng lớn trên phạm vi toàn cầu. Vì thế, đối với các nước nhận đầu
tư, nhất là các nước đang phát triển thì hình thức đầu tư này tỏ ra có nhiều ưu

thế hơn.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc
xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp
đang hoạt động ở các nước nhận đầu tư hoặc sáp nhập các doanh nghiệp với
nhau.
- Các chủ đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư phải tuân theo quy định
pháp luật của nước nhận đầu tư.
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
2
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
- Sau khi hoàn thành nghĩa vụ với nước nhận đầu tư chủ đầu tư có
quyền chuyển số lợi nhuận hợp pháp thu được về nước hoặc tiếp tục tái đầu
tư. Tỷ lệ góp vốn là cơ sở để phân chia quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phần lớn vì mục đích lợi nhuận
nên chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực, các vùng miền có điều kiện thuận lợi
mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư.
1.1.3 Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được thực hiện dưới 3 hình thức
sau:
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là hình thức đầu tư được ký giữa
các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản
phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Các bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách
nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng.
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thỏa thuận, phù hợp với tính chất hoạt
động kinh doanh và sự cần thiết hoàn thành mục tiêu của hợp đồng.
- Vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong văn bản
hợp đồng.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu

của Nhà nước đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt
Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Doanh nghiệp 100% vốn FDI được thành lập theo hình thức Công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật Việt Nam, được thành
lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải
bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng,
dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
3
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được
cơ quan này cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.
* Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại nước
chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên hoặc các bên chủ nhà với
bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Cho ra đời một doanh nghiệp mới,có tư cách pháp nhân theo pháp luật
của nước chủ nhà.
- Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp
liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
- Đây là hình thức đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Đối với nhà đầu tư trong nước: có điều kiện tiếp cận công nghệ
hiện đại, trình độ quản lý tốt. Đối với nhà đầu tư nước ngoài: không bỡ ngỡ
với môi trường pháp lí, đầu tư.
Bên cạnh 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nói trên còn có các
hình thức khác như: hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT),
hợp đồng xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO), hợp đồng xây dựng –
chuyển giao (BT).

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.4.1 Nhóm nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư
* Môi trường chính trị - xã hội
Sự ổn định của môi trường chính trị - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư
có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư,
đặc biệt là đầu tư nước ngoài, nếu môi trường chính trị không ổn định đặc biệt
là thể chế chính trị sẽ khiến lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút do họ phải
gánh chịu những thiệt hại. Ngoài ra khi tình hình chính trị - xã hội không ổn
định, nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà đầu tư
nước ngoài, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt động không theo định hướng phát
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
4
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
triển kinh tế - xã hội mà nước tiếp nhận đề ra, do đó hiệu quả sử dụng vốn
FDI rất thấp.
* Môi trường kinh tế vĩ mô
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư và là điều
đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu
hút được FDI, nền kinh tế của nước tiếp nhận phải là nơi an toàn cho sự vận
động của vốn đầu tư, là nơi có khả năng sinh lời cao hơn các nơi khác. Hơn
nữa môi trường kinh tế vĩ mô có ổn định thì mới có điều kiện sử dụng tốt FDI.
* Hệ thống luật pháp
Môi trường luật pháp là một yếu tố không thể không xem xét đối với
hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu
hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định
hướng và hỗ trợ, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng
Kết cấu hạ tầng của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở để thu hút FDI và
cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng
lớn đến hiệu quả của hoạt động FDI, do đó hệ thống cơ sở hạ tầng là một

trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài trước khi
ra quyết định đầu tư.
* Trình độ của nước tiếp nhận đầu tư
Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu
quả FDI bởi trình độ của con người quyết định khả năng hợp tác kinh doanh,
năng suất lao động, nếu trình độ lao động và quản lý của nước tiếp nhận cao nhà
đầu tư nước ngoài sẽ giảm bớt chi phí đào tạo cũng như thời gian đào tạo, hiệu
quả của các dự án đầu tư sẽ cao. Do đó sẽ thu hút được FDI.
* Chính sách của nước tiếp nhận đầu tư đối với FDI
Chính sách của nước tiếp nhận đầu tư đối với FDI có tác động trực tiếp
đến số lượng, quy mô, cũng như đối tác của nguồn vốn FDI, nếu chính sách
cởi mở, thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thì sẽ thu hút được một số
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
5
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
lượng lớn các nhà đầu tư và ngược lại chính sách không cởi mở sẽ là yếu tố
ngăn cản các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động FDI.
1.1.4.2. Nhân tố quốc tế
Trong nhóm nhân tố quốc tế thì nhân tố có ảnh hưởng rõ nét nhất đến
thu hút FDI là tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới.
Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới tác động đến
không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác mà còn tới cả các dự án đang
triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới ổn định,
không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà đầu tư sẽ tập trung nguồn lực
để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều
vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các
dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI, ngoài ra nước chủ nhà phải thay đổi
chính sách để phù hợp tình hình thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài mất thời
gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó, đồng thời tình hình của chính

nước đầu tư cũng có thể bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn
đến có sự thay đổi chiến lược đầu tư nước ngoài của họ.
1.2. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế phổ biến
hiện nay. FDI được xem là một động lực chính để phát triển bền vững nền
kinh tế thế giới. Nó không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho các nhà đầu tư mà
còn có vai trò quan trọng đối với nước nhận đầu tư và nước đầu tư.
1.2.1 Vai trò tích cực
* Đối với nước đầu tư
- Có thể đảm bảo hiệu quả của vốn FDI cao do chủ đầu tư nước ngoài
trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên họ thường có trách nhiệm cao,
thường đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Chủ đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm
nguyên liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực và trên thế giới.
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
6
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
- Có thể nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn FDI, tăng năng suất và thu
nhập quốc dân do giảm giá thành sản phẩm nhờ khai thác được nguồn lao
động giá rẻ hoặc gần nguồn nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Ngoài ra thông qua FDI chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các
doanh nghiệp của mình nằm trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ,
từ đó tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và phi mậu dịch của nước sở tại.
- FDI còn giúp các nước đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế, chính trị.
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Với các nước phát triển:
- FDI có tác dụng giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội như thất
nghiệp, lạm phát, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong
nước, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh.
- FDI cũng góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước dưới hình

thức thu các loại thuế, cải thiện tình hình bội chi ngân sách.
- FDI giúp người lao động và quản lý có điều kiện tiếp cận với nhiều
nhà đầu tư, nhiều phương thức quản lý trên thế giới từ đó học hỏi và nâng cao
trình độ.
Với các nước đang phát triển:
- FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là nguồn vốn bổ sung quan trọng
cho các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển là những nước có
nguồn vốn trong nước còn nhỏ bé nhưng nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở
hạ tầng và phát triển kinh tế là rất lớn do đó FDI thực sự rất cần thiết.
- Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một kênh chính đối với
các nước đang phát triển, có tác dụng đột phá để nâng cao, đổi mới công
nghệ. Đi đôi với việc chuyển giao công nghệ là đào tạo nhân lực vận hành
quản lí, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ lao động.
- FDI đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhỏ bé của các nước
đang phát triển, làm giảm áp lực bội chi ngân sách nhà nước. FDI tác động
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
7
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện
cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế.
- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa, nâng cao năng lực sản xuất và giúp nền kinh tế trong nước hội
nhập một cách sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
- FDI cũng có những đóng góp tích cực về mặt xã hội. Tạo việc làm,
tăng năng suất lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực, tiếp
thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp.
1.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
* Đối với nước đầu tư
Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có thể đem lại cho nước đi
đầu tư những tác động tiêu cực, cụ thể như:

- Các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu do các doanh
nghiệp lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để tìm lợi khi chính phủ các nước đi
đầu tư đưa ra các chính sách không phù hợp, không khuyến khích được các
doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nước.
- Đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ bị nhiều rủi ro hơn trong nước, do
đó các doanh nghiệp này thường áp dụng các biện pháp khác nhau để phòng
ngừa, hạn chế rủi ro.
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư
- Nếu không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, có thể đầu tư
tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên bị khai thác bừa bãi và sẽ gây ra ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng.
- Có thể nhận chuyển giao từ các nước đi đầu tư các công nghệ không
phù hợp với nền kinh tế trong nước, gây ô nhiễm môi trường.
- Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của các nhà
đầu tư, mà nhiều khi nó không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc chủ động trong bố trí cơ cấu đầu tư bị hạn chế.
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
8
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
- Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới cán cân thanh
toán của nước nhận đầu tư.
Ngoài ra FDI còn có thể đem lại những tác động tiêu cực khác như bị
thua thiệt do vấn đề giá chuyển nhượng nội bộ từ các công ty quốc tế (công ty
xuyên quốc gia, đa quốc gia), hoặc hiệu quả của hợp tác đầu tư kém do trình
độ của đối tác nước tiếp nhận thấp.
1.3. Tình hình thu hút FDI của VIệt Nam thời gian qua ( 2000 – 2010)
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
hơn 10 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực
hiện nay, FDI thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả
đối với các nước đang phát triển.

Bảng 1.1 Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010
(Đơn vị: triệu USD)
Năm Số dự án Tổng vốn đăng ký
2000 391 2.696,33
2001 554 3.234,83
2002 807 2.969,33
2003 784 3.155,51
2004 704 4.516,12
2005 970 6.839,8
2006 833 10.201,3
2007 1.544 21.347,8
2008 1.171 64.011,0
2009 1208 23.107,3
2010 969 17.229,6
Tổng cộng 9935 159.308,92
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
9
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
* Giai đoạn 2000 – 2006
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn FDI vào Việt Nam bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng
21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn
đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD),
tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5
tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng
75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69%
so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời
kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt

20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với
mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn FDI cấp mới đều tăng đạt
mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa
phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007,
dòng vốn FDI vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của
nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất
thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao, ) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản,
công nghệ thông tin, du lịch - dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu
hiệu của “làn sóng FDI” thứ hai vào Việt Nam.
Trong 5 năm 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so với dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước, trong đó
lượng vốn tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002, và từ 2004
mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Ở giai đoạn này
vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công
nghiệp chiếm khoảng 77,3%, và vốn tăng thêm chủ yếu từ các nhà đầu tư
châu Á đạt 70,3%, được thực hiện tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
chiếm 71,5%, vùng trọng điểm phía Bắc 21,1%. Vốn thực hiện đạt 14,3% tỷ
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
10
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và
vượt 30% so với dự báo ban đầu (11 tỷ USD).
* Giai đoạn 2007 – 2010
Năm 2007 đánh dấu bước ngoặt lớn: Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Dòng vốn FDI vào nước
ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô
lớn. Năm 2007 được đánh giá là năm đạt kỷ lục về thu hút FDI.
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án FDI được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).

Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có
8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Tình hình tăng
vốn đầu tư trong năm nay thể hiện: có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư
với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng
ký cấp mới, vốn đầu tư tăng thêm tập trung ở lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng, chiếm 79,1% tổng vốn tăng thêm, và chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á
(80%). Đặc biệt trong năm 2007 quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so
với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia
đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio )
do Việt Nam gia nhập và thực hiện cam kết với WTO là bãi bỏ các quy định
về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực
hiện tỷ lệ nội địa hóa và sử dụng nguyên liệu trong nước. Ngoài ra trong năm
2007 đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ đặc biệt
là các dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui
chơi, giải trí ( chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký cả nước, tăng 16,5% so với năm
2006). Về hình thức đầu tư thì chủ yếu là hình thức doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài: có 6.685 dự án với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2%
về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt
động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%,
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
11
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để
thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
Tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2007, năm 2008 thu hút FDI trực tiếp
vẫn cao: trong năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 1.557 dự án mới với tổng
số vốn đầu tư đăng ký 66,5 tỷ USD, gấp 3,55 lần mức thu hút 2007. Trong
cùng kỳ, 397 lượt dự án đã được điều chỉnh tăng vốn đăng ký với tổng vốn
đầu tư thêm 5,2 tỷ USD, gấp 1,98 lần năm 2007. Tính cả cấp mới và tăng

thêm, vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam 2008 đạt mức kỷ lục 71,7 tỷ USD,
gấp 3,35 lần so với năm 2007. Trong đó chủ yếu được thực hiện dưới hình
thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (77,72% về số dự án và 60,35% về
vốn đầu tư đăng ký) và doanh nghiệp liên doanh (18,3% về số dự án và
33,01% về vốn đầu tư đăng ký). Xét về lĩnh vực đầu tư: chủ yếu trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 64,82% tổng số dự án, 53,07% tổng
vốn điều lệ, 53,82% tổng vốn đầu tư đăng ký), ngoài ra lĩnh vực kinh doanh
bất động sản là một lĩnh vực thu hút được một lượng FDI khá lớn, quy mô dự
án lớn, lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy sản với số dự án lớn, nhưng quy mô
dự án nhỏ. Xét về đối tác đầu tư: đứng đầu là Đài Loan với số lượng dự án
lớn (chiếm 19,6%), tổng vốn đầu tư đăng ký (chiếm 12,48%). FDI đổ vào chủ
yếu ở các địa phương: TP Hồ Chí Minh (tổng số dự án lớn, vốn đầu tư đăng
ký lớn), Bà Rịa-Vũng Tàu (quy mô dự án lớn).
Bước sang năm 2009, Việt Nam phải đối diện với những thách thức lớn
trong thu hút FDI do nền kinh tế Việt Nam vừa vượt qua những khó khăn của
năm 2008 như lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn lại phải đối mặt với
cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho dòng FDI toàn cầu tiếp tục
suy giảm đáng kể. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế thế giới
cũng như của nền kinh tế trong nước, FDI vào Việt Nam năm 2009 cũng suy
giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2008. Các số liệu sơ bộ tính đến
15/12/2009 cho thấy Việt Nam thu hút được 839 dự án FDI mới với tổng số
vốn đăng ký mới và tăng thêm là 21,48 tỷ USD, chỉ bằng 53,9% về số dự án
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
12
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
mới và 30% vốn đầu tư đăng kí so với cùng kỳ 2008. Vốn đầu tư thực hiện
ước đạt 10 tỷ USD, bằng 87% so với cùng kỳ 2008. Mặc dù có sự giảm sút cả
về vốn đăng ký và vốn giải ngân so với cùng kỳ năm trước nhưng có thể nói
FDI của Việt Nam trong bối cảnh khó khăn của năm nay vẫn đạt kết quả khá
cao so với các năm trước đó. Trong đó FDI tập trung vào lĩnh vực dịch vụ lưu

trú và ăn uống với 41% vốn cấp mới và tăng thêm, kinh doanh bất động sản
đứng thứ 2 với 35% vốn đăng ký. Sự gia tăng vốn đăng ký vào 2 lĩnh vực này
khiến cho tỷ trọng vốn đăng ký còn hiệu lực trong lĩnh vực kinh doanh bất
động sản đến cuối năm 2009 đã tăng lên 23% so với 20% của cuối năm 2008
và lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống lên 8% so với 6% cuối năm 2008.
Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 54% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực cuối
2008 đã còn 50% cuối năm 2009. Tuy vậy đến thời điểm này FDI vào lĩnh
vực sản xuất mà đứng đầu là công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn thu hút nhiều
hơn lĩnh vực dịch vụ, mặc dù FDI vào lĩnh vực dịch vụ đang gia tăng nhanh
chóng.
Năm 2010 cùng với sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế toàn
cầu, dòng FDI thế giới cũng có xu hướng phục hồi và có khả năng đảo chiều.
Theo báo cáo nhận được, trong 9 tháng đầu năm 2010 cả nước có 720
dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký 11,4 tỷ
USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ 2009. Có 153 dự án đăng ký tăng vốn đầu
tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 783 triệu USD, giảm 13,8% so với cùng
kỳ năm 2009. Đã xuất hiện một số dự án giảm quy mô vốn đầu tư như dự án
Công ty TNHH phát triển quốc tế thế kỷ 21 xây dựng khu tái định cư tại TP
Hồ Chí Minh giảm trên 31 triệu USD; dự án Công ty TNHH TM và DV siêu
thị An Lạc tại TP Hồ Chí Minh giảm 6 triệu USD…Tính chung cả cấp mới và
tăng vốn, trong 9 tháng đầu năm 2010, các nhà FDI đã đăng ký đầu tư vào
Việt Nam 12,19 tỷ USD, bằng 87,3% so với cùng kỳ 2009. Xét theo lĩnh vực
đầu tư: lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là lĩnh vực thế mạnh, FDI
đổ vào lĩnh vực này liên tục tăng cao trong những tháng gần đây: 275 dự án
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
13
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
đầu tư được cấp mới, tổng vốn cấp mới trên 3 tỷ USD, 106 dự án mở rộng
quy mô, tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 653,6 triệu USD đưa lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu, chiếm 30,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh

vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,75
tỷ USD, nhưng không có nhiều dự án đăng ký thêm. Xét theo đối tác đầu tư
trong 9 tháng đầu năm 2010, có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp
vào Việt Nam, trong đó các nhà đầu tư lớn nhất là Hà Lan với tổng vốn đầu tư
đăng ký là 2,2 tỷ USD chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư, Hàn Quốc đứng thứ hai
(chiếm 17%), Hoa Kỳ đứng thứ 3 (chiếm 15,3%). Xét theo địa bàn đầu tư thì
Bà Rịa – Vũng Tàu là địa phương thu hút FDI nhiều nhất với 2,23 tỷ USD,
tiếp theo là Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An…
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
14
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
Chương 2
Thực trạng thu hút vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam thời
gian qua
2.1. Khái quát quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Việt Nam – Trung Quốc là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về
điều kiện tự nhiên, văn hóa và có mối quan hệ hợp tác truyền thống lâu dài về
mọi mặt : ngoại giao, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Mối quan hệ đó ngày càng
được hai bên củng cố và thắt chặt.
2.1.1. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 18/1/1950.
Kể từ đó các cuộc gặp gỡ giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước được duy trì đều đặn
hàng năm. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
tháng 2/1999, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã xác định phương châm 16 chữ
thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là “láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Dịp Chủ tịch nước Trần Đức
Lương thăm Trung Quốc tháng 12/2000, hai bên đã ký Tuyên bố chung về hợp
tác toàn diện trong thế kỷ mới, cụ thể hoá phương châm 16 chữ đó thành những
biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Hai bên
cũng đã thoả thuận đưa hai nước trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí

tốt, đối tác tốt”. Đặc biệt, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện” theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, đồng
thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước tạo cơ sở
cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lâu dài trong thời gian tới.
Trong các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhấn mạnh tình hữu
nghị Việt - Trung là tài sản quý báu của hai nước và nhân dân hai nước, cần
được hết sức giữ gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ làm hết sức mình
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
15
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
để đưa quan hệ đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau
trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi
nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Hai bên đã thành lập Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam –
Trung Quốc (11/2006) và đã tiến hành 3 phiên họp (phiên thứ 3 họp tại Hà
Nội tháng 3/2009).
Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc
phòng được tiếp tục tăng cường với việc ký các thỏa thuận hợp tác giữa hai
Bộ Ngoại giao (12/2002), hai Bộ Công an (9/2003), hai Bộ Quốc phòng
(10/2003); hai ngành An ninh (3/2005); Thoả thuận hợp tác biên phòng
(8/2007); Thỏa thuận về hợp tác giữa hai Tổng Cục chính trị Bộ Quốc phòng
hai nước (12/2007).
Hiện nay ta có các Tổng lãnh sự quán tại Quảng Châu, Nam Ninh, Côn
Minh, Hồng Công, tháng 11/2007, Việt Nam đã mở thêm Văn phòng Lãnh sự
tại Thượng Hải trực thuộc Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh.
Hai bên đồng thời tích cực trao đổi, phối hợp lập trường trên nhiều vấn
đề quốc tế và khu vực, đặc biệt là phối hợp tại HĐBA/LHQ trong nhiệm kỳ
Việt Nam làm Ủy viên không thường trực HĐBA/LHQ (2008-2009).
Ngoài ra, quan hệ trao đổi, hợp tác giữa ta với Trung Quốc trong các

lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá – thể thao được đẩy mạnh. Hàng năm,
Trung Quốc cung cấp và duy trì số lượng 130 học bổng dài hạn và 10 học
bổng thực tập sinh ngắn hạn cho Việt Nam. Trong 3 năm qua, số lượng lưu
học sinh Việt Nam sang du học ở Trung Quốc tăng nhanh. Hiện có khoảng
12.000 lưu học sinh ta đang học tại các trường đại học của Trung Quốc với
những ngành nghề đa dạng. Trung Quốc hiện nay có khoảng trên 2.000 người
đang du học tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các ngành tiếng Việt, du lịch
và kinh doanh.
Hai bên thực hiện tốt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hoá năm
2007-2009 giữa hai Chính phủ và phối hợp hoạt động trong khuôn khổ
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
16
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
ASEAN + Trung Quốc. Hai bên trao đổi nhiều đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ
chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá, thể thao, góp phần tăng cường tình hữu
nghị giữa nhân dân hai nước. Trung Quốc luôn dành ưu đãi trong việc huấn
luyện cho các vận động viên và các đoàn thể thao của ta sang nghiên cứu, học
tập và tập huấn tại Trung Quốc, chi phí thấp nhưng hiệu quả cao.
Về hợp tác du lịch: Trung Quốc là thị trường nguồn du lịch lớn nhất
của Việt Nam. Năm 2009 có hơn 250 ngàn lượt khách Trung Quốc đi du lịch
Việt Nam. Trung Quốc có hơn 47 dự án với tổng số vốn đăng ký 650 triệu
USD đầu tư trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn, nhà hàng, sân golf.
2.1.2. Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam – Trung Quốc
2.1.2.1. Quan hệ thương mại
Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế
thương mại Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim
ngạch thương mại giữa hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ
USD năm 2009, tăng gấp gần 700 lần. Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn
nhất của Việt Nam. Lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là
điều dễ dàng nhìn thấy. Nhưng cùng với thương mại song phương liên tục

tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước đã ngày
càng bộc lộ. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại
với Trung Quốc. Hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc của Việt Nam chi yếu
gồm dầu thô, than đá và một số nông sản nhiệt đới, sản phẩm nhập khẩu từ
Trung Quốc chủ yếu có máy móc thiết bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị
vận tải, nguyên phụ kiện dệt may, da giầy, phân bón và vật tư nông nghiệp, và
hàng tiêu dùng. Có thể thấy, những năm gần đây, kết cấu hàng thương mại
giữa hai nước thay đổi không lớn, Việt Nam vẫn dựa vào xuất khẩu nhiên liệu
và nông sản phẩm là chủ yếu, còn nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là hàng
công nghiệp và hàng tiêu dùng.
Tuy nhiên, những năm gần đây, quan hệ kinh tế còn có những vấn đề
nổi cộm. Trước hết là vấn đề mất cân bằng trong thương mại song phương.
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
17
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
Năm 2009, riêng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm tới 80% tổng lượng nhập
siêu của Việt Nam.
Tiếp đó là vấn đề trúng thầu của các doanh nghiệp Trung Quốc trong
các dự án trọng điểm của Việt Nam mà báo chí trong nước vẫn đưa lên gần
đây. Đa số các dự án lớn đấu thầu công khai thì đều lọt vào tay nhà thầu
Trung Quốc do giá chào thầu của họ rất rẻ.
Vốn cho vay của Trung Quốc ngày càng tăng trong tổng lượng vốn vay
của Việt Nam, dự báo cho một sự lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào
Trung Quốc.
2.1.2.2. Quan hệ hợp tác đầu tư
Quan hệ hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, nhiều tập đoàn lớn của
Trung Quốc bày tỏ mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết tháng
12/2010, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 770 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký khoảng 3,7 tỷ USD, đứng thứ 14/92 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

Trong những năm qua, Trung Quốc đã không ngừng tăng qui mô tín
dụng ưu đãi dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án
hợp tác kinh tế lớn như Dự án xây dựng nhà máy khai thác và tuyển luyện
đồng tại Sin Quyền; nhà máy phân đạm Hà Bắc; Nhà máy nhiệt điện Quảng
Ninh I, II; Dự án thông tin tín hiệu đường sắt các tuyến Hà Nội – Đồng Đăng,
Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Lào Cai và khu đầu mối Hà Nội; Dự án hiện
đại hoá hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Vinh – thành phố Hồ Chí
Minh, Nhà máy sản xuất phân đạm từ than cám Ninh Bình v.v…; Dự án viễn
thông nông thôn; Dự án đường sắt đô thị tuyến Hà Nội – Hà Đông v.v…
Hai bên cũng nhất trí tăng cường thúc đẩy các doanh nghiệp của hai
nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp
chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các
lĩnh vực quan trọng khác, tăng cường hợp tác trong các dự án trong khuôn
khổ “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” và các dự án lớn khác. Tháng
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
18
Chuyên đề cuối khóa Học viện Tài chính
7/2008, Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam và Công ty Hữu
hạn công trình quốc tế Nhôm Trung Quốc (CHALIECO) đã ký Hợp đồng
EPC xây dựng Nhà máy Alumin, thuộc Dự án Tổ hợp Bauxit – nhôm Lâm
Đồng trị giá 446 triệu USD.
Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam
nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham
quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; giao lưu
thanh thiếu niên; đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam; xây
dựng khu nhà ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Cung Hữu nghị
Việt – Trung.
2.1.3. Vai trò của FDI Trung Quốc đối với Việt Nam
Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, cơ sở hạ tầng,
nguồn lao động dồi dào có trình độ đã và đang tích cực thu hút đầu tư trực

tiếp nước ngoài để từng bước phát triển kinh tế tương xứng với tiềm năng của
mình. Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
liên tục tăng cả về vốn, số lượng các dự án. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có
những đóng góp quan trọng, khẳng định vai trò của mình trong sự phát triển
kinh tế của cả nước. Trung Quốc cũng là một trong những nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc vào Việt Nam đã góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước và nâng cao năng lực sản xuất
các ngành công nghiệp. Đầu tư của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các
lĩnh vực chế biến và công nghiệp sản xuất, kinh doanh bất động sản, xây dựng
– là những ngành kinh tế quan trọng của quốc gia. Qua đó tạo cơ sở hạ tầng
tốt hơn, thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển và tác động tích cực đến các
lĩnh vực khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Trung Quốc giúp cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
SV: Vũ Quang Việt Lớp: CQ45/08.01
19

×