Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Công nghệ thông tin và hệ sinh thái nhân văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.3 KB, 23 trang )

Đề tài: Công nghệ thông tin và hệ sinh thái nhân văn.
I. Tổng quan về công nghệ thông tin và hệ sinh thái nhân văn
Thuật ngữ Hệ sinh thái nhân văn: được dùng để nói tới khía cạnh
sinh thái của các cộng đồng người, trong đó có sự kết hợp phức tạp của các
nhân tố như kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý và các yếu tố vật lý của môi
trường. Hiểu một cách đơn giản hơn, HST nhân văn là HST trong đó con
người là loài ưu thế và các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa
con người với nhau là mối quan hệ thống trị.
Dòng thông tin trong HST nhân văn: dòng thông tin là yêu cầu trung
tâm, là đầu ra, đầu vào của HST nhân văn. Các nhà khoa học cho rằng: Con
người dường như được chuyên hoá thành vật xử lý thông tin. Nhờ đó các
HST nhân văn được liên kết với nhau một cách hiệu quả
Vật chất, năng lượng, thông tin là những thuộc tính cơ bản vốn có của
thế giới. Thế giới hay hệ thống Tự nhiên - Con người - Xã hội luôn vận
động, biến đổi và phát triển không ngừng, nhưng đồng thời cũng luôn ở
trong trạng thái thống nhất hữu cơ chính là nhờ những thuộc tính vốn có này
- nhờ sự trao đổi, chuyển hoá thường xuyên của các đòng vật chất, năng
lượng, thông tin. Kết quả của quá trình biến đổi vật chất, năng lượng, thông
tin do trí tuệ và lao động được đinh hướng bởi trí tuệ đó của con người đã
tạo nên các cuộc cách mạng thông tin - công nghệ và cùng với chúng là sự
thay đổi của nền văn minh nhân loại.
1. Năng lượng là số đo sự vận động của vật chất trong các dạng khác
nhau. Trong phương thức sản xuất xã hội, sự vận động, biến đôi của vật chất
được thực hiện thông qua các hệ thông công nghệ. Bởi vậy, bất kỳ một bước
nhảy vọt nào của hệ thống năng lượng cùng đều diễn ra cùng với một cuộc
cách mạng trong công nghệ. Năng lượng là điều kiện tiên quyết, cơ bản để
1
phân biệt một nền văn minh này với một nền văn minh khác, hay có thể nói,
sự khác nhau cơ bản giữa các nền văn minh được thể hiện bằng trình độ phát
triển của công nghệ.
Thông tin là một dạng biểu hiện của vật chất đang vận động. Thông


tin xã hội gắn liền với sự vận động của dạng vật chất có tổ chức cao nhất -
bộ óc con người, là số đó sự phát triển của tư duy, của ý thức con người mà
hình thức đầu tiên của nó là sự giao tiếp giữa người và người bằng tiếng nói
(ngôn ngữ).
Như vậy dưới sự tác động của con người, công nghệ (biểu hiện qua
các hệ thống năng lượng) và thông tin (biểu hiện qua các hình thức giao tiếp
xã hội) đều là vật chất đang vận động và biến đổi. Khi sự vận động đó đạt
đến bước nhảy vọt về chất. sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng công nghệ và
thông tin .
Trong quá trình lịch sử xã hội, các cuộc cách mạng thông tin và công
nghệ diễn ra về cơ bản là phù hợp nhau về thời gian; chúng nương tựa vào
nhau và làm tiền đề cho nhau, tạo thành các cuộc cách mạng thông tin - công
nghệ.
2. Văn minh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Song, về phương
diện phát triển xã hội, có thể hiểu văn minh theo nghĩa bao trùm nhất là chỉ
một trình độ phát triển nhất định của xã hội về vật chất và tinh thần (các giá
trị vật chất và các giá trị tinh thần). Cái cốt lõi quyết định trình độ phát triển
của xã hội chính là phương thức sản xuất cơ bản, đặc trưng của mỗi thời đại.
Bởi vậy, giữa các phương thức sản xuất và các nền văn minh có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, quy đinh lẫn nhau, nghĩa là cùng với sự thay đổi của
phương thức sản xuất là sự thay đổi của các nền văn minh. Các cuộc cách
mạng thông tin - công nghệ là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất quyết định sự
vận động và phát triển của phương thức sản xuất và do đó cũng là yếu tố
quyết định sự biến đổi của các nền văn minh trong lịch sử xã hội loài người.
2
II. Các cuộc cách mạng công nghệ - thông tin và hệ sinh thái nhân văn
Trong tiến trình lịch sử xã hội đã từng diễn ra năm cuộc cách mạng
thông tin - công nghệ lớn nhất, quan trọng nhất, đánh đấu năm trình độ hay
năm nấc thang phát triển của xã hội loài người. Bởi vì cùng với năm cuộc
cách mạng thông tin-công nghệ là sự biến đổi không ngừng của xã hội, thể

hiện bằng sự thay đổi liên tục của các nền văn minh. Ứng với mỗi cuộc cách
mạng thông tin này đã làm thay đổi mạnh mẽ các hệ sinh thái nhân văn, như
hình thành các hệ sinh thái nhân văn mới hay làm mất đi những hệ sinh thái
nhân văn mới.Cách đây trên 10.000 năm, cuộc cách mạng thông tin lần thứ
nhất được khởi phát bằng việc tạo ra tiếng nói; tiếp theo là cuộc cách mạng
thông tin lần thứ hai được đánh dấu bằng việc tạo ra chữ viết; cuộc cách
mạng thông tin lần thứ ba - phát minh ra nghề in; cuộc cách mạng thông
tin lần thứ tư - phát minh ra điện tín, điện thoại, điện báo. Vào thế kỷ XXI,
cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm đang diễn ra hiện nay, với cốt lõi là
cuộc cách mạng số hoá - đang tạo ra các siêu lộ cao tốc thông tin, mạng
Internet thuộc thế hệ II và thế hệ mới có tốc độ nhanh hơn 1000 lần so với
mạng Internet hiện nay, hệ thống thông tin di động thế hệ 3G và 4G, cùng
với các Hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia, Hạ tầng cơ sở thông tin khu vực và
Hạ tầng cơ sở thông tin toàn cầu.
Duới tên gọi khái quát chung là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và cuộc cách mạng thông
tin lần thứ năm, đã đưa nhân loại quá độ từ Thời đại công nghiệp lên Thời
đại trí tuệ, được đặc trưng bởi Nền kinh tế dựa trên tri thức (hay còn được
gọi là nền Kinh tế tri thức, nền Kinh tế mạng, nền Kinh tế mới hay nền Kinh
tế số).
2.1 Cuộc cách mạng thông tin – công nghệ lần thứ 1: Sự xuất hiện
tiếng nói
Cuộc cách mạng thông tin. - công nghệ lần thứ nhất được đánh dấu
bằng sự sáng tạo ra tiếng nói và ngôn ngữ, sự phát hiện ra lửa và biết sử
3
dụng lửa và tiếp theo là sự chế tạo ra những công cụ sản xuất đầu tiên. từ gỗ,
đá, xương dùng đế săn bắt và hái lượm.
Sự sáng tạo ra tiếng nói là bước nhảy vọt đầu tiên trong thông tin xã
hội. Tiếng nói hay ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đầu tiên giữa người và
người, là một đặc trưng độc đáo của tư duy con người, là một thuộc tính chỉ

vốn có ở con người.
Các dạng tiếng nói, ngôn ngữ đã và đang hiện diện trên hành tinh của
chúng ta, hết sức đa dạng và sinh động. Mỗi tiếng nói, ngôn ngữ cụ thể như
thế lại có một nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp của nó, với những chiều
hướng biến động, phát triển không phải bao giờ cũng hoàn toàn như nhau.
Tuy nhiên, đó là những vấn đề được nghiên cứu riêng cho từng tiếng nói
ngôn ngữ một.
Không phải chỉ có chúng ta hôm nay mới tự hỏi: ngôn ngữ của con
người ra đời từ đâu? nhờ ai? nhờ cái gì? Việc đặt những vấn đề đại loại
như thế và lời giải đáp cho chúng, thực ra đã có không ít và có từ lâu, thậm
chí từ xa xưa.
Khi đức tin vào sức mạnh sáng tạo vạn năng nơi Thượng Đế bị đổ vỡ
(vì chẳng bao giờ có Thượng Đế cả) thì không ai còn nghĩ rằng Thượng Đế
đã tạo ra loài người chúng ta và cho ta ngôn ngữ để ta biết nói như biết thở
vậy.
Người ta cũng đã cố gắng đi tìm nguồn gốc ngôn ngữ ở trần gian, nơi
ngôn ngữ đang tồn tại và hoạt động. Thế là các giải thuyết như: thuyết tượng
thanh, thuyết về tiếng kêu động vật, thuyết về tiếng kêu trong phối hợp lao
động, thuyết cảm thán bộc lộ tâm lí tình cảm, thuyết quy ước xã hội… lần
lượt xuất hiện. Ngày nay, bình tĩnh mà xét, các giả thuyết đó đều có phần
đúng của nó, nhưng tiếc thay, chỉ đúng được với một vài sự kiện hoặc hiện
tượng ngôn ngữ mà thôi. Nhìn nhận như thế về nguồn gốc ngôn ngữ, thật
4
chẳng khác nào lấy một vài cây đã vội kết luận cho rừng bởi vì “thấy cây mà
chẳng thấy rừng”.
Với sự ra đời của triết học biện chứng, vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ
được xem xét và phân tích một cách toàn diện hơn, khoa học và hợp lí hơn:
con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ; vậy phải tìm hiểu sự ra
đời của ngôn ngữ gắn liền với nghiên cứu nguồn gốc con người cả trong quá
trình phát sinh giống nòi lẫn quá trình phát sinh và phát triển của mỗi cá thể.

Các kết quả nghiên cứu về triết học, sinh vật học, khảo cổ học, sinh lí
học thần kinh và ngôn ngữ học… kết luận rằng lao động đã làm phát sinh,
phát triển loài người và làm phát sinh ngôn ngữ trong quá trình đó.
Hàng triệu năm trước đây, tổ tiên của chúng vốn là một loài vượn
người sống trên cây trong những cánh rừng tiền sử. Do nhiều biến động của
tự nhiên, những cánh rừng ấy bị tiêu diệt. Thức ăn trên tầng cây cao ngày
càng trở nên khó kiếm. Loài vượn người ấy buộc phải rời khỏi ngọn cây cao
(vốn là nơi trú ẩn, sinh sống từ lâu đời) xuống đất đi lang thang kiếm ăn.
Trên mặt đất, sự di động chủ yếu không còn là leo trèo như trên cây
nữa; đã thế kẻ thù lại nhiều hơn… Việc tìm kiến thức ăn và tự vệ để sinh
tồn… đã buộc loài vượn này tập dần được cách đi bằng hai chi sau và đứng
thẳng mình lên. Cái bản lề trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người
chính là việc đứng thẳng mình lên và đi bắng hai chân đó. Để có được dáng
đứng thẳng lên, loài vượn người xưa kia đã phải “tập đi” hàng nghìn năm
chứ không phải như một em bé tập đi bây giờ, chỉ độ một tháng là xong.
Thế là hai tay con vượn người đựơc giải phóng. Đôi chân bây giờ
hoàn toàn đảm đương việc đi lại. Đôi tay ngày càng trở nên khéo léo hơn,
biết sử dụng các vật sẵn có làm công cụ tự vệ, kiếm ăn; và quan trọng hơn:
nó biết chế tạo ra công cụ lao động. Con vượn người đã chuyển dần thành
con người vượn rồi thành người (người nguyên thuỷ).
5
Dáng đứng thẳng cũng làm cho tầm mắt của tổ tiên chúng ta được
rộng và xa hơn; đồng thời bộ ngực nở hơn đồng thời các cơ quan của bộ máy
phát âm có điều kiện phát triển hơn.
Mặt khác, có công cụ trong tay, những người tiền sử đó kiếm được
nhiều thức ăn hơn và chuyển dần từ đời sống ăn thực vật (cây, quả, củ, rễ…)
sang đời sống ăn thịt. Thêm vào đó, việc tìm ra và sử dụng được lửa cũng
khiến họ chuyển từ ăn sống sang ăn chín. Một hệ quả quan trọng đã diễn ra,
thức ăn chín, mềm khiếm xương hàm người ta không cần phải to như trước
nữa; lồi cằm (phần trước xương hàm dưới) vểnh ra rõ dần.

Tuy nhiên, trong số các biến đổi về mặt sinh học của con người, sự
tiến bộ của bộ não là quan trọng nhất. Nhờ lao động, nhờ ăn thịt, bộ não của
tổ tiên chúng ta cũng phức tạp dần lên; những phần vỏ não trực tiếp liên
quan đến tiếng nói như thuỳ trán, thuỳ thái dương và phần dưới thuỳ đỉnh,
phát triển mạnh. Kết cục là so với những người bà con và anh em họ của tổ
tiên chúng ta, bộ não con người ngày nay (tính theo tỉ lệ giữa trọng lượng
của não với trọng lượng của toàn thân) lớn hơn khỉ đột 10 lần, hơn đười ươi
6 lần, hơn khỉ đen 2 lần và hơn vượn 4 lần.
Như vậy, lao động đã tạo ra con người và tạo ra những tiền đề thứ
nhất về mặt sinh học để ngôn ngữ có thể phát sinh. Có thể nói lao động để
chuẩn bị và “tạo cơ sở vật chất” để loài người có những cơ quan thích hợp
cho việc sản sinh tiếng nói.
Cũng chính lao động đã tạo ra nhân tố xã hội để ngôn ngữ phát sinh.
Lao động đã liên kết con người thành những bầy đàn, những cộng đồng và
về sau thành xã hội có tổ chức. Muốn cùng chung sức để làm việc gì đó,
người ta cần thoả thuận với nhau là sẽ làm gì, làm như thế nào… Những
điều “biết được” về thế giới xung quanh, những kinh nghiệm trong lao động
cần phải được thông báo cho nhau từ người này sang người khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác…
6
Đến đây thì con người (dù là người cổ nhất) đã khác con vật về chất.
Người ta đã đến lúc thấy “cần phải nói với nhau về một cái gì đó” bởi vì họ
đã có cái cần phải nói với nhau và có phương tiện để nói với nhau. Phương
tiện ấy chúng ta gọi là ngôn ngữ. Vậy không có ai khác, chính lao động đã
sáng tạo ra con người và ngôn ngữ của con người. Lao động đã làm cho bộ
óc của con người cổ xưa biết hoạt động “theo kiểu người” và có công cụ vừa
để tiến hành những hoạt động đó, vừa làm phong phú hoá nó, nâng nó lên
“trình độ của con người”. Đó là ngôn ngữ.
Tự bản chất của mình, từ khi mới phát sinh, ngôn ngữ vốn là công cụ,
là phương tiện để con người giao tiếp với nhau. Thế nhưng, lúc đầu nó chưa

phải là ngôn ngữ chúng ta đang có hôm nay; mà là thứ ngôn ngữ chưa phân
thành âm tiết rõ ràng, bởi vì cái lưỡi, cái cằm và hàm dưới, hệ dây thanh…
chưa phù hợp, thuần phục với công việc mới mẻ, đầy phức tạp – công việc
phát tiếng nói – này: thậm chí có bộ phận còn đang trên đường hoàn thiện
dần.
Tuy vậy, người ta không đợi cho mọi bộ phận cấu âm phát triển thật
hoàn chỉnh rồi mới nói với nhau. Những tiếng nói còn lẫn, còn nghèo, và ú ớ
đó đã được phối hợp với các động tác, dáng vẻ của cơ thể: mặt mũi, vai, tay,
chân (nhất là đôi tay) để “phát biểu” ý nghĩ, tình cảm của họ. Thoạt đầu
tiếng nói của con người chưa khác các điệu bộ bao nhiêu. (Điều này còn để
lại những tàn dư của nó trong một số ngôn ngữ mà hiện nay ta còn thấy
được. Chẳng hạn trong ngôn ngữ dân tộc Êvê, người ta không dung một từ
đi mà lại dùng nhiều từ khác nhau, miêu tả các kiểu đi khác nhau.
dô bô
hô bô hô
đi nặng nề, phục phịch
dô dê

đi một cách vững vàng
dô bu la
bu la
đi nhanh bừa đi
7
dô pi a
pi a
đi rón rén
dô gô
vu gô vu

đi khập khiễng, đầu chúi

xuống…)
Dần dần, con người sử dụng tiếng nói thành thạo hơn và bỏ xa những
cách “phát biểu” bằng cử chỉ, động tác; bởi lẽ ngôn ngữ thành tiếng của họ
ngày càng mạch lạc hơn, trở thành hệ thống tín hiệu thứ hai, hệ thống “tín
hiệu loan báo các tín hiệu”.
Hoạt động tín hiệu là hiện tượng chung cho mọi loài động vật trên
hành tinh chúng ta; nhưng con người, với ngôn ngữ của mình đã có thêm
một phương thức mới, khác hẳn về chất. Nhờ có ngôn ngữ này mà từ đây,
con người nghe được (tức là nhận được) một tín hiệu có nghĩa “mặt trời”
chẳng hạn, thì anh ta đã nghĩ tới, đã hình dung ra mặt trời rồi, không cần
phải đợi cho tới khi nhìn tận mắt nữa.
Đối với động vật, chỉ có những kích thích trực tiếp về thị giác, thính
giác, khứu giác, xúc giác mới trở thành tín hiệu kích thích được. Ngược lại,
đối với con người, ngoài những thứ đó, người ta còn có các từ trong ngôn
ngữ để thay thế cho chúng. Đến đây thì cái gọi là ngôn ngữ thực sự hình
thành và không bao giờ rời xa loài người nữa.
Nhờ có tiếng nói, lửa và các công cụ sản xuất thô sơ lấy từ tự nhiên
được cải biến qua bàn tay lao động của con người như cung tên, hòn đá được
mài nhọn, v.v., con người bắt đầu tách mình ra khỏi thế giới động vật, trở
thành một loài độc lập và sau đó là một cộng đồng người đông đảo, tồn tại
trong giới tự nhiên. Cùng với giới tự nhiên, qua quá trình lao động sản xuất
và giao tiếng giữa người với người, con người còn tạo ra cho mình một môi
trường sống mới - đó là xã hội. Xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng
thông tin - công nghệ lần thứ nhất đã có những đặc trưng khác với thế giới
loài vật, nhưng nhìn chung vẫn còn ở trình độ phát triển rất thấp. Đó là giai
8
đoạn trước văn minh, hay theo cách gọi của Ph.Ăngghen, giai đoạn mông
muội dã man.
Có thể coi cuộc cách mạng thông tin lần thứ nhất kết hợp với sự phát
triển ban đầu của công nghệ săn bắt hái lượm là mốc đầu tiên của việc hình

thành hệ sinh thái nhân văn, mặc dù ở giai đoạn sơ khai, nhưng một xã hội
loài người nguyên thuỷ với những giá trị văn hoá lớn đã tìm được trên
những di tích khảo cổ học. Những hình vẽ được khắc trên đá hay những đồ
đồng đã cho chúng ta thấy được phần nào đời sống của xã hồi loài người
thời đó.
Người nguyên thuỷ sống cùng nhau thành bầy,đàn trong những hang -
hốc. Họ liên kết với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về “kinh tế”.
Họ cùng nhau săn, bắt, hái lượm, cùng nhau trồng trọt và cùng nhau sống.
Bảo vệ nhau khỏi sự đe doạ của từ những mối đe doạ từ tự nhiên. Cũng nhờ
sử dụng lửa và ăn chín, biết dự trữ thức ăn tạo nên một nguồn dự trữ lương
thực dồi dào mà con người trở nên thông minh hơn, ngày càng phát triển,
sinh sôi nảy nở làm cho dân số tăng lên do đó từng nhóm người nhiều lên,
tách ra những nơi khác nhau, hình thành các tiếng nói mới tạo nên tiếng nói
cũng như văn hoá cũng có những nét khác nhau cơ bản. Việc xuất hiện tiếng
nói – hình thức thông tin đầu tiên đã tạo nên hệ sinh thái nhân văn và bước
đầu cũng đã xuất hiện sự đa dạng của hệ sinh thái nhân văn.
2.2 Cuộc cách mạng thông tin – công nghệ lần thứ 2: Sự xuất hiện chữ
viết
Cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ hai được bắt đầu bằng
việc con người sáng tạo ra chữ viết và biết chế tạo ra công cụ sản xuất bằng
kim loại thủ công. Thông tin được lưu trữ, truyền bá dưới dạng chữ viết đã
tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho con người trong việc tiếp thu và phổ biến
rộng rãi hơn, nhanh chóng hơn những tri thức thới giúp cho con người có cơ
sở đế tư duy. phát triển và sáng tạo ra công nghệ mới. Với hệ thống công
9
nghệ thủ công, thông qua quá trình sản xuất xã hội, con người đã tiến hành
khai thác và biến đổi các nguồn vật chất tự nhiên như đất đai, động thực vật.
sức gió, sức nước, sức lực cơ bắp - tức là những "nguồn năng lượng sống"
có thể hồi phục được - thành những nguồn năng lượng và vật chất mới cần
cho sự sinh tồn và phát triển tiếp tục của con người và xã hội loài người.

Cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ hai đã đưa xã hội vượt ra khỏi
giai đoạn dã man, đến với xã hội văn minh, mở đầu là nền văn minh nông
nghiệp.
Nền văn minh nông nghiệp được khởi đầu và diễn ra cùng với cuộc
cách mạng trong nông nghiệp mà cơ sở của nó chính là cuộc cách mạng
thông tin - công nghệ lần thứ hai cách đây khoảng 10 nghìn năm. Đặc trưng
cơ bản nhất của nền văn minh nông nghiệp là mãi mãi cột chặt con người
vào đất đai mà đến bây giờ vẫn giống như cách đây hàng chục nghìn năm.
Trong nền văn minh nông nghiệp, chữ viết đã tạo điều kiện thuận lợi
chưa từng có cho sự phát triển và sáng tạo công nghệ. Đến lượt mình, hệ
thống công nghệ mới đã tạo cho con người nguồn sức mạnh mới. Đó là thời
kỳ con người bắt đầu vượt ra khỏi những không gian chật hẹp, nhỏ bé của
các bộ tộc, bộ lạc, tiến hành những cuộc di dân lớn, nhăm chinh phục những
miền đất mới. Hệ thống công nghệ cơ khí thủ công như cày, bừa, cuốc, xẻng,
búa, rìu, cối xay nước,cối xay gió, cùng với đất đai được khai phá chính là
cơ sở của sự phát triển nông nghiệp và sự hình thành các nền văn minh nông
nghiệp.
Hình ảnh tiêu biểu của nền văn minh nông nghiệp là cái cuốc và đất
đai. Đất đai là cơ sở của kinh tế, của đời sống văn hoá, của cấu trúc gia đình
và của cả chính trị trong các xã hội văn minh nông nghiệp. Đặc trưng cho
nền văn minh nông nghiệp là đời sống xã hội được tổ chức chủ yếu xung
quanh làng mạc; sự phân công lao động giản đơn chiếm ưu thế, nền kinh tế
bị phân quyền để mỗi công đồng tự sản xuất hầu hết những nhu cầu riêng
của mình theo lối tự cấp tự túc. v v Tất cả những đặc điểm đó của nền văn
10
minh nông nghiệp, vê cơ bản đều bị quy định bởi trình độ phát triển còn bi
hạn chế của cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ hai. Tuy nhiên,
những thành tựu đỉnh cao của cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ
hai vẫn còn đế lại dấu ấn rất sâu sắc cho đến tận ngày nay, cả dưới dạng văn
hoá vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Đó là Kim tự tháp ở Ai Cập; các hệ thống

thuỷ lợi và kiến trúc nguy nga của các thành phố nổi tiếng ở Minos, Hy Lạp.
La Mã. Chữ viết đã ghi lại các công trình toán học kiệt xuất của Ơcơlít,
Ácsimét, Ptôlêmê, những tư tưởng triết học vĩ đại của các nhà triết học nổi
tiếng Hy Lạp - La Mã cổ đại, những truyện thần thoại, tranh vẽ, v.v
Nền văn minh nông nghiệp phải cần đến hàng nghìn năm mới hình
thành, đã trải qua hàng chục nghìn năm phát triển và vẫn tồn tại cho đến
ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, song, động lượng của nó đã bị cạn dần.
Trước hết, chúng ta không nên quên là văn hoá truyền khẩu vẫn tồn
tại một cách sống động, song song với chữ viết, trong một thời gian rất dài.
Trước khi mà chữ viết trở thành phổ quát trong thời hiện đại – Cách mạng
Pháp 1789 thiết lập cưỡng bức giáo dục với hiến pháp 1793 ; vậy có thể nói
khoảng 200 năm trước đây không ở đâu trên thế giới có số người biết chữ
nhiều hơn số người mù chữ. Việt Nam, trước Cách Mạng tháng tám – thì
nó vẫn chỉ là công cụ của một số người tương đối nhỏ trong dân số. Vậy thật
ra xã hội hiện đại là xã hội phân hoá, trong đó người không biết chữ bị thiệt
thòi và bị bóc lột. Chỉ cần nhớ đến những tiểu thuyết mô tả sự chiếm hữu đất
đai của nông dân : sau khi họ khai phá rừng hoang, bỗng một ngày có người
đến chìa ra tờ giấy chứng minh người ấy là chủ sở hữu của mảnh đất ấy
Điểm thứ hai quan trọng là sự chuyển đổi từ giáo dục truyền khẩu
sang giáo dục qua sách vở thể nào cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của
bộ óc con trẻ. Người không biết chữ tư duy theo một cách, và người biết chữ
tư duy theo một cách khác. Sản phẩm của những tư duy đó là học thuật, văn
chương, cũng khác nhau. Thơ có vần chủ yếu là di sản của thời truyền khẩu,
với văn hoá nặng về chữ viết thì thơ không vần đã nảy sinh. Nền giáo dục
11
nhồi sọ và bắt học sinh học thuộc lòng quá nhiều cũng do cái truyền thống
truyền khẩu ấy.
Và hình như hiện nay chúng ta lại đang chuyển từ văn hoá chữ viết
sang văn hoá hình ảnh. Khoa học tâm lý giáo dục còn rất nhiều điều phải
làm để làm chủ được những chuyển đổi này.

Chẳng hạn, gần đây người ta đã đo hoạt động điện từ trong bộ óc các
học sinh các nước khi học viết chữ, và thấy rằng học sinh trung quốc sử
dụng bán cầu phải của não nhiều hơn học sinh Tây Âu. Bán cầu phải nặng
về tư duy tổng hợp, âm nhạc, nghệ thuật ; và bán cầu trái nặng về lý luận,
phân tích. Cũng dễ hiểu, vì chữ biểu ý có tính tổng hợp cao hơn.
2.3 Cuộc cách mạng thông tin – công nhệ lần thứ 3: Sự xuất hiện chữ
in
Cuộc cách mạng thông tin-công nghệ lần thứ ba được hình thành với
sự phát minh ra máy hơi nước và cùng với nó là sự phát triền mạnh mẽ của
kỹ thuật in ấn. Từ đó bắt đầu quá trình công nghiệp hoá từ châu Âu, lan sang
châu Mỹ, châu Á và loài người bước vào một giai đoạn phát triển mới -
giai đoạn của nền văn minh nông nghiệp.
Chữ in là phương tiện thông tin đại chúng rộng rãi, phố biến. Từ đây,
thông tin và tri thức của loài người được nhân bản, truyền bá rộng rãi khắp
hành tinh và trở thành tài sản chung của nhân loại.
2.4 Cách mạng thông tin – công nghệ lần thứ 4: Xuất hiện các phương
tiện truyền thông bằng điện và điện tử
Nên văn minh công nghiệp vào nửa đầu thế kỷ XX đã được tiếp thêm
xung lượng mới nhờ cuộc cách mạng thông tin-công nghệ lần thứ tư với
những phát minh sáng chế ra các thiết bị truyền thông mới bằng điện và điện
12
tử (điện thoại, điện báo, rađiô, phát thanh, truyền hình, ) trên cơ sở của quá
trình điện khí hoá trong công nghệ.
Trong nền văn minh công nghiệp, với các quá trình cơ khí hoá và điện
khí hoá, con người đã tiến đến khai thác và sử dụng nguồn năng lượng từ
các nguyên liệu tự nhiên không phục hồi được.
Cuộc cách mạng trong kĩ thuật sản xuất thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19,
thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ giới, chuyển từ công trường thủ
công sang công xưởng sản xuất; từ đó xuất hiện đại công nghiệp cơ khí, mở
rộng phân công lao động xã hội, làm nảy sinh các ngành sản xuất mới, các

thành thị và trung tâm công nghiệp mới, có tác động mạnh mẽ đến cả nông
nghiệp và nông thôn. Thắng lợi của cách mạng xã hội chống phong kiến của
giai cấp tư sản Anh và Pháp thế kỉ 17 - 18 đã tạo điều kiện chính trị cơ bản
cho CMCN. CMCN bắt đầu từ ngành dệt ở Anh những năm 60 thế kỉ 18,
đến những năm 30 thế kỉ 19, cơ bản hoàn thành. Sau đó, trong thế kỉ 19, lần
lượt diễn ra ở Pháp, Đức, Mĩ, Nga, Nhật. CMCN không chỉ thay đổi hoàn
toàn kĩ thuật sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa tư bản, mà còn
thay đổi hoàn toàn phương thức sản xuất, thay thế phương thức sản xuất
phong kiến bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và chủ nghĩa tư
bản giữ vai trò thống trị. Sau Chiến tranh thế giới II (1939 - 45), nhờ
CMCN, một số ít nước đang phát triển trở thành nước công nghiệp mới. Ở
Việt Nam, dưới chế độ thuộc địa và bảo hộ của chủ nghĩa đế quốc, công
nghiệp rất nhỏ bé, chủ yếu bao gồm một số cơ sở khai thác tài nguyên
khoáng sản, cơ sở chế biến nông sản, hàng tiêu dùng. Sau khi đất nước giành
lại độc lập, CMCN mới thực sự bắt đầu với sự xuất hiện nhiều ngành công
nghiệp lớn, kể cả công nghiệp nặng như cơ khí, luyện kim, điện, hoá chất,
phân bón, dầu khí, vv.
Từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, công nghệ phát thanh và truyền
thông bằng điện đã được phát triển và bắt đầu được dùng rộng khắp. Đài
phát thanh và truyền hình được phát minh và thời gian này đã làm thay đổi
13
thế giới chúng ta rất nhiều. Trong phần tiếp theo, các phát minh lớn khác và
những phát hiện liên quan đến công nghệ thông tin điện tử đã xảy ra trong
suốt 160 nǎm qua cũng như xu hướng phát triển của chúng ở tương lai đã
được thảo luận một cách ngắn gọn. Nǎm 1820, Georgo Ohm đã đưa ta công
thức phương trình toán học để giải thích các tín hiệu điện chạy qua một dây
dẫn rất thành công. Và nǎm 1830, Michall Faraday đã tìm ta định luật dẫn
điện từ trường. Nǎm 1850, đại số Boolean của George Boolers đã tạo ta nền
móng cho lôgíc học và phát triển các rơ-le điện. Chính vào khoảng thời gian
này khi các đường cáp đầu tiên xuyên qua Đại Tây Dương để đánh điện tín

được lắp đặt. James Clerk Maxwell đã đưa ra học thuyết điện từ trường bằng
các công thức toán học nǎm 1870. Cǎn cứ vào học thuyết này, Henrich Hertz
đã truyền đi và nhận được sóng vô tuyến thành công bằng cách dùng điện
trường lần đầu tiên trong lịch sử. Tổng đài điện thoại đầu tiên được thiết lập
đầu tiên nǎm 1876 ngay sau khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện
thoại. 5 nǎm sau, Bell bắt đầu dịch vụ gọi điện thoại đường dài giữa New
York và Chicago và Guglieno Mareconi của Italia đã lắp đặt một trạm phát
sóng vô tuyến để phát các tín hiện điện tín. Trong thế kỷ 21 việc phát triển
và áp dụng có tính thực tế về công nghệ liên quan đang tiếp tục phát triển
nhanh chóng và trong quá trình đó, cách mạng hoá thế giới chúng ta. Nǎm
1900, Einstein, một nhà vật lý nổi tiếng về học thuyết tương đối, đã viết rất
nhiều tài liệu quan trọng về vật lý chất rắn, thồng kê học, điện từ trường, và
cơ học lượng tử. Vào khoảng thời gian này phòng thí nghiệm Bell của Mỹ
đã phát minh và sáng chế ra ống phóng điện cực cho các kính thiên vǎn xoay
được và Le de Forest trở thành người khởi xướng trong lĩnh vực vi mạch
điện tử thông qua phát minh của ông ta về một ống chân không ba cực. Việc
này được tiếp theo bằng phát minh một hệ thống tổng đài tương tự tự động
có khả nǎng hoạt động không cần có bảng chuyển mạch. Nǎm 1910, Erwin
Schrodinger đã thiết lập nền tảng cho cơ học lượng tử thông qua công bố của
ông ta về cân bằng sóng để giải thích cấu tạo nguyên tử và các đặc điểm của
nguyên tử và R.H Goddard đã chế tạo thành công tên lửa bay bằng phản lực
chất lỏng, và máy tê-lê-típ đã được phát minh. Đồng thời, vào khoảng thời
14
gian này, phát thanh công cộng được bắt đầu bằng cách phát sóng. Nǎm
1920, Ha rold S. Black của phòng thí nghiệm nghiên cứu Bell đã phát minh
ra một máy khuếch đại phản hồi âm bản mà ngày nay vẫn còn dùng trong
lĩnh vực viễn thông và công nghệ máy điện toán. V.K. Zworykin của RCA,
Mỹ đã phát minh ra đèn hình bằng điện cho vô tuyến truyền hình, và các cáp
đồng trục, phương tiện truyền dẫn có hiệu quả hơn các loại dây đồng bình
thường, đã được sản xuất. Nǎm 1939, dịch vụ phát sóng truyền hình thường

xuyên được bắt đầu lần đầu tiên trong lịch sử và nǎm 1930, Claude
Schannon của phòng thí nghiệm Bell, bằng cách sử dụng các công thức toán
học tiên tiến đã thành công trong việc đặt ra học thuyết thông tin dùng để
xác định lượng thông tin tối đa mà một hệ thống viễn thông có thể xử lý vào
một thời điểm đã định. Học thuyết này đã được phát triển thành học thuyết
truyền thông số. Đồng thời, ra-đa đã được phát minh trong thời kỳ này. Nǎm
1940, phòng thí nghiệm Bell đã đặt nền móng cho các chất bán dẫn có độ
tích hợp cao ngày nay qua việc phát minh ra đèn ba cực và Howard Aiken
của đại học Harvrd, cùng cộng tác với IBM, đã thành công trong việc lắp đặt
một máy điện đầu tiên có kích thước là 50feet và 8feet. Sau đó ít lâu, J.
Presper Ecker và John W. Mauchly của đại học Pennsylvania lần đầu tiên đã
phát triển máy điện toán phân tách gọi là ENIAC. Von Neuman dựa vào
máy này, đã phát triển thành công sau đó máy điện toán có lưu giữ chương
trình. PCBs được đưa ra vào những nǎm 50, đã làm cho việc tích hợp các
mạch điện tử có thể thực hiện được. Cùng trong nǎm đó, RCA đã phóng
thành công vệ tinh nhân tạo vào không trung và la-re dùng cho truyền thông
quang học đã được phát minh. Vào những nǎm 60, các loại LSIs, các máy
điện toán mini có bộ nhớ kiểu bong bóng, cáp quang, và máy phân chia thời
gian được phát triển và thương mại hoá một cách thành công vào các nǎm
70, các loại CATVs hai hướng, đĩa Video, máy điện toán đồ hoạ, truyền ảnh
qua vệ tinh, và các hệ thống tổng đài điện tử hoá toàn bộ được đưa ra.
Trên cơ sở của chất lượng thông tin mới và trên cái nền của công nghệ
mới - cơ khí hoá và điện khí hoá, được thực hiện qua các quá trình công
15
nghiệp hoá. Nền văn minh công nghiệp đã làm đảo lộn cuộc sống xã hội vốn
bình lặng, êm đềm ở các làng quê trong nền văn minh nông nghiệp thành
một guồng máy vĩ đại quay không ngừng, trong đó mỗi con người chỉ là một
cái ốc, cái vít, một phụ tùng nhỏ. Cái xã hội văn minh công nghiệp đó đã tồn
tại và phát triển theo những nguyên tắc của một cỗ máy, một công xưởng, đó
là tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hoá, đồng bộ hoá, tập trung hoá. tối đa hoá và

tập quyền hoá.
Xã hội văn minh công nghiệp đồng hành với cuộc cách mạng thông
tin - công nghệ lần thứ ba và thứ tư đã mở ra những trang vàng rực rỡ cho
lịch sử xã hội loài người với bao kỳ tích vĩ đại về mặt kinh tế, văn hoá, xã
hội, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, nhưng đồng thời cũng đem đến cho
con người nhiều hậu quả tiêu cực như các cuộc chiến tranh tàn khốc (chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai, chiến tranh lạnh ), những tệ nạn xã
hội và những bệnh tật hiểm nghèo mang tính toàn cầu và thời đại (ung thư.
tim mạch, thần kinh, ebola, HIV-AIDS, .v.v.), đặc biệt nghiêm trọng là
những hậu quả tiêu cực đối với môi trường sinh thái đang có nguy cơ dẫn
đến một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu nếu như con người không kịp
thời thay đổi chiến lược phát triển của mình.
2.5 Cuộc cách mạng công nghệ thông tin lần thứ 5 :Sự xuất hiện của
máy tính và truyền thông kỹ thuật số
Tư duy của con người một lần nữa lại được thức tỉnh sau hơn 300 năm
say sưa với những thành tựu của cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần
thứ ba và thứ tư, mà hậu quả của chúng đến nay cũng chưa thể lường hết
được. Vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX, với sự ra đời của máy tính
điện tử - chỗ gặp nhau giữa thông tin và công nghệ - đã bắt đầu cuộc cách
mang thông tin - công nghệ lần thứ năm, mà đỉnh cao của nó là mạng
internet. Từ đây, xã hội loài người bước vào giai đoạn phát triển mới về chất
- giai đoạn của nền văn minh tin học hay văn minh trí tuệ.
16
Nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm là sự
phát minh ra hàng loạt kiểu máy tính điện tử ngày càng hoàn thiện hơn, tinh
vi hơn, có tốc độ xử lý từ hàng triệu đến hàng tỷ phép tính trong một giây.
Các máy tính này được kết nối với nhau thành hệ thống internet 1, tạo thành
hệ thống siêu xa lộ thông tin toàn cầu. Tiếp đến là sự ra đời của máy tính
Nơron điện tử - loại máy tính mô phỏng theo hoạt động của bộ não con
người. Với sự bùng nổ thông tin dữ dội trong thời đại ngày nay, việc nối

mạng các máy tính Nơron thành hệ thông internet 2 vào đầu thế kỷ XXI sẽ
cho phép con người tạo ra một bộ não khổng lồ bao quát toàn bộ hành tinh
chúng ta. Sau thế hệ máy tính Nơron điện tử sẽ là thế hệ máy tính Nơron
quang tử mà sự nối mạng của chúng tạo thành hệ thống internet 3. Sự tác
động to lớn của mạng internet 3 chỉ có thể so sánh được với những chuyện
khoa học viễn tưởng.
Đồng hành với cuộc cách mạng thông tin là cuộc cách mạng công
nghệ lần thứ năm cũng được mở đầu bằng việc chế tạo ra máy tính điện tử
vào giữa thế kỷ XX. Cuộc cách mạng công nghệ này đã đưa công nghệ lên
một bước phát triển mới, cao hơn, cơ bản hơn về chất - đó là quá trình tự
động hoá và trí năng hoá các phương tiện vật chất. Năng lượng được khai
thác chủ yếu của hệ thống công nghệ này là trí năng - sản phẩm đặc thù của
tư duy con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử, trí năng vốn là tố chất tự nhiên và độc tôn
của con người được chuyển qua các phương tiện vật chất; điều này không
chỉ làm tăng thêm sức mạnh mà còn làm "khôn hơn" các phương tiện kỹ
thuật. Các thế hệ người máy (Robot) liên tiếp ra đời, ngày càng thông minh
hơn, đảm trách được nhiều hơn các chức năng quan trọng, nguy hiểm, khéo
léo, tinh vi của con người. Trong cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần
thứ năm. cách mạng thông tin và cách mạng công nghệ không chỉ song hành
mà đã thực sự hoà nhập vào nhau làm một, ở đây, mạng internet vừa là nền
tảng, vừa là biểu tượng rực rỡ nhất, vừa là đỉnh cao của sự hoà nhập đó.
17
Trong giai đoạn đẩu của thời kỳ phát triển công
nghệ thông tin, chúng chủ yếu tập trung ở các nước
giàu có và phát triển. Sự xuất hiện của máy tính và
internet đã tạo ra một bước đột phá về giao tiếp
thông tin bằng công nghệ.
Những năm 50, công nghệ thông tin đã làm nên một
hệ thống thông tin là đáp ứng các yêu cầu quản lý tác nghiệp: quản lý

công việc mua bán, chi tiêu hàng ngày, quản lý thời gian làm việc và
tính ra tiền lương cho các nhân viên, quản lý nhân sự…
Năm 1970 nó giúp tạo lập nên một hệ thống thông tin quản lý: Phục
vụ các công việc quản lý hành chính, tổ chức, nghiệp vụ, sản xuất
kinh doanh của cơ quan hay xí nghiệp
Năm 1980, công nghệ thông tin đạt tới mức tạo nên hệ thống thông tin
tri thức: các hệ thống trợ giúp quyết định phục vụ thực chất cho các
hCách mạng thông tin đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời
sống, đưa xã hội loài người chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông
tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đặc biệt sự xuất hiện của
công nghệ thông tin (CNTT), nhất là Internet đã làm cho khoảng cách trên
thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé.
Toàn cầu hóa
Tri thức và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Vốn sản xuất,
hàng hóa, sức lao động, thông tin và công nghệ đều có xu hướng trao đổi, sử
dụng và được điều phối xuyên quốc gia. Mối quan hệ kinh tế thương mại,
công nghệ và hợp tác giữa các nước, các doanh nghiệp ngày càng được tăng
cường nhưng đồng thời tính cạnh tranh cũng trở nên mạnh mẽ trên phạm vi
toàn cầu, không chỉ có các công ty xuyên quốc gia mà ngay cả các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều quốc gia đã bãi bỏ các quy định hạn chế
đối với các công ty nước ngoài để tăng mức độ mở cửa cho thị trường
CNTT. Điều này làm cho người tiêu dùng được hưởng giá dịch vụ thấp hơn
và có nhiều sự lựa chọn về dịch vụ và nhà cung cấp hơn. Tuy nhiên, tác
động tiêu cực là có thể làm kìm hãm sự phát triển cung cấp dịch vụ ở nông
thôn và doanh nghiệp trong nước.
Chuyển dịch sản xuất
18
Do áp lực cạnh tranh lớn, giá nhân công cao, nhiều công ty ở các nước phát

triển buộc phải chuyển cơ sở sản xuất sang những nước có nguồn lao động
rẻ, cơ chế thuận lợi và có tiềm năng thị trường. Về công nghiệp phần mềm,
xu hướng mà các công ty Mỹ đang áp dụng là thuê các lập trình viên có kỹ
năng cao nhưng chi phí thấp ở những nước đang phát triển, đặc biệt là Ấn
Độ để phát triển hoặc viết các chương trình phần mềm. Khi chi phí cho lập
trình viên Ấn Độ ngày một tăng lên thì việc thuê sẽ được chuyển sang các
nước khác như Trung Quốc, Việt Nam. Nhiều công ty có lượng dữ liệu lớn
cần xử lý (chẳng hạn như các hãng hàng không) đã thuê nhân lực ngay ở các
nước đang phát triển để nhập dữ liệu.
Về công nghiệp phần cứng, các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn
Độ cũng là điểm đến của nhiều công ty lớn có nhu cầu thuê gia công lắp ráp
phần cứng. Việt Nam có khả năng chiếm một thị phần trong lĩnh vực lắp ráp
điện tử do các công ty lớn bao giờ cũng muốn có những cơ sở dự phòng.
Chuyển giao công nghệ
Cạnh tranh về chất lượng các sản phẩm CNTT sẽ ngày càng mạnh hơn dẫn
đến yêu cầu về chuyển giao công nghệ mới nhất với hiệu quả kinh tế cao
nhất. Sự ra đời của các Quỹ đầu tư mạo hiểm cho CNTT, các cơ chế chỉ định
thầu chuyển giao công nghệ dài hạn… sẽ tạo điều kiện cho quá trình này.
Một vấn đề đang được các công ty CNTT quan tâm là sở hữu trí tuệ. Các
quốc gia rất chú trọng đến vấn đề này, đặc biệt là qua các Hiệp định thương
mại như WTO để củng cố và áp dụng các quy chế về sở hữu trí tuệ của họ.
Khi mà tốc độ truyền thông băng rộng và tốc độ xử lý của máy tính không
ngừng tăng lên thì ngành công nghiệp nội dung sẽ bị đe dọa nhiều hơn bởi
nạn vi phạm bản quyền. Đối với các nước đang phát triển nền công nghiệp
phần mềm và nội dung thông tin thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ càng
trở nên cấp thiết. Cũng cần lưu ý rằng, chi phí của phần mềm và nội dung
hợp pháp có thể quá cao và việc sử dụng quyền sở hữu tốn kém này có thể
hạn chế quá trình ứng dụng và phát triển CNTT.
Tăng đầu tư
Hiện nay, CNTT&TT toàn cầu đang có sự hồi phục tương đối rõ sau ảnh

hưởng từ sự sụp đổ hàng loạt của các công ty CNTT&TT và sự suy thoái
của nền kinh tế Mỹ cuối thập niên 1990. Theo Gartner Dataquest, chi tiêu
toàn cầu cho CNTT&TT năm 2003 là 2.302 tỷ USD, tăng 5% so với năm
2002 (2.190 tỷ USD). Chi tiêu cho dịch vụ CNTT tăng khá tốt (7,9%), cho
19
phần cứng chỉ tăng 1,1%, còn cho phần mềm tăng 2,2%. Chi tiêu cho viễn
thông đạt con số trung bình của CNTT là 5%. Theo số liệu của IDC, chi tiêu
cho CNTT trong năm 2003 tại các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương
(chưa tính Nhật Bản) đã đạt con số gần 80 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm
2002. Dịch vụ CNTT tại khu vực này trong năm 2003 tăng 10,3%, năm 2004
là 10% và tiếp tục giữ nhịp độ đó trong các năm 2005-2008. Trước tình hình
này, các tập đoàn công nghiệp CNTT&TT lớn càng đẩy mạnh hơn việc khai
thác thị trường và các nguồn lực, chủ yếu là nguồn nhân lực tại các nước
đang phát triển để hạ giá thành nghiên cứu và sản xuất.
Phần mềm nguồn mở "lên ngôi"
Trong vài năm trở lại đây, xu thế phát triển và ứng dụng phần mềm nguồn
mở (PMNM) trên thế giới diễn ra khá mạnh, đặc biệt là tại châu Á - Thái
Bình Dương, nơi đang triển khai nhiều dự án với sự tham gia của chính phủ.
Các nhà hoạch định chính sách và nhiều chuyên gia CNTT đã nhìn nhận:
phát triển PMNM sẽ giúp giảm sự lệ thuộc vào các hãng phần mềm quốc tế,
tiết kiệm ngân sách chính phủ, tạo thêm sự lựa chọn cho người sử dụng và
đồng thời mở cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp phần mềm, nâng cao
khả năng phát triển của ngành công nghiệp bản địa và có thể là một "lối
thoát" cho các quốc gia trước sức ép bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia đã khuyến cáo sử dụng PMNM và
đầu tư cho phát triển PMNM: Malaysia gần đây đầu tư 30 triệu USD, Nhật
Bản dành 10 triệu USD riêng trong năm 2003. Nhiều công ty đa quốc gia
như Oracle, IBM, HP cũng đang phát triển PMNM.
PMNM với đặc tính chia sẻ mã nguồn có tiềm năng khai thác lớn nhất trong
lĩnh vực đào tạo và các ứng dụng Internet thông dụng. Với hàng chục triệu

dòng mã lệnh sẵn có từ những thư viện mã nguồn mở, sinh viên có thể khai
thác để sáng tạo ra sản phẩm phần mềm mới. PMNM giúp sinh viên nhanh
chóng nắm bắt công nghệ, rút ngắn thời gian đào tạo kiến thức về CNTT,
nhanh chóng xã hội hoá hoạt động nghiên cứu, phát triển phần mềm.
Phát triển truyền thông đa phương tiện
Xu hướng hội tụ công nghệ viễn thông – tin học- truyền thông đại chúng
đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, hình thành những loại hình dịch vụ, khả
năng và cách tiếp cận mới đối với phát triển kinh tế xã hội. Truyền thanh,
truyền hình ngày càng được số hóa và sử dụng ngày càng nhiều công nghệ
mới nhất của CNTT. Các công nghệ số hóa hình ảnh, âm thanh mới vốn chỉ
20
được sử dụng trên nền máy vi tính cá nhân nay đã trở nên rất thông dụng,
dẫn tới việc sản xuất các thiết bị truyền thông đa phương tiện mới. Mạng
lưới viễn thông với băng thông rộng, tốc độ lớn đã tạo điều kiện cho dịch vụ
video theo yêu cầu phát triển mạnh. Internet đang từng bước trở thành
phương tiện đưa các chương trình truyền thanh, truyền hình, các xuất bản
phẩm điện tử đến với người sử dụng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ngược lại,
hệ thống truyền hình cáp đã có khả năng cung cấp dịch vụ Internet và truyền
số liệu. Sự hội tụ của CNTT, viễn thông và phát thanh, truyền hình đang tạo
ra một thị trường rất rộng lớn cho nội dung thông tin.
Nền tảng của kinh tế thông tin
Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, thời đại mà thông tin, trí
tuệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thời đại của nền kinh tế tri thức,
của xã hội thông tin. Khác với loại hình kinh tế trước đây lấy công nghiệp
truyền thống làm nền tảng sản xuất, lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên làm
chỗ dựa để phát triển sản xuất, kinh tế thông tin lấy công nghệ cao làm lực
lượng sản xuất, lấy trí lực - nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu,
lấy CNTT làm nền tảng để phát triển. Trong nền kinh tế thông tin, năng lực
cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực thu thập, lưu trữ, xử lý và trao
đổi thông tin.

Để tận dụng mọi cơ hội do CNTT đem lại và đảm bảo việc đầu tư vào phát
triển chính phủ điện tử và thương mại điện tử có hiệu quả, người dân phải
nhận thức đầy đủ về các khả năng của CNTT và có thể sử dụng các tiện ích
do CNTT cung cấp. Chính phủ nhiều nước đang áp dụng các chính sách phổ
cập dịch vụ một cách mạnh mẽ. Tại nhiều nước phát triển, Chính phủ đã cố
gắng đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ hội học tập và sự hiểu biết cơ
bản về sử dụng CNTT. Ở một số nước, khoá đào tạo đầu tiên cho người thất
nghiệp là khoá học về CNTT miễn phí bởi chính phủ nhận rõ tầm quan trọng
của CNTT đối với cơ hội tìm việc làm cho những người này.
III. Ảnh hưởng của công nghệ thông tin tới Hệ sinh thái nhân văn
Trong thế giới đương đại. khi mà sự phát triển của xã hội đang diễn ra
theo cách thức đa phương, đa cực, đa trình độ thì việc đạt đến trí năng hoá
toàn cầu cuộc sống của nhân loại là một điều hết sức khó khăn, phức tạp và
lâu dài. Những khó khăn, phức tạp đó không phải từ đâu mang đến cho con
người mà chúng được nảy sinh ngay trong quá trình phát triển của xã hội.
21
Con người sáng tạo ra thông tin và công nghệ, và bằng các cuộc cách mạng
thông tin - công nghệ, con người đã tiến hành các quá trình chinh phục thiên
nhiên, biến đổi xã hội với các nền văn minh từ thấp đến cao. Song, không
phải bao giờ con người cũng có thể điều khiển, kiểm soát được hết những
lực lượng vật chất do mình sáng tạo ra; mặt khác, không phải bao giờ những
sáng tạo của con người cũng đúng và hợp quy luật. Thực tế đã cho thấy,
khoa học, công nghệ, thông tin một khi đã trở thành những thực thể vật chất
độc lập, chúng cũng có những quy luật phát triển nội tại của mình. Vì vậy,
những hậu quả tiêu cực của các cuộc cách mạng thông tin - công nghệ đối
với thiên nhiên, đối với con người và xã hội loài người trong nhiều trường
hợp là không thể lường trước được.
Ngược dòng lịch sử hơn 300 năm qua, khi cuộc cách mạng thông tin -
công nghệ lần thứ ba mới bắt đầu và sau đó là cuộc cách mạng thông tin -
công nghệ lần thứ tư, đã đưa một bộ phận của thế giới bước vào nền văn

minh cồng nghiệp với bao chiến tích kỳ vĩ về kinh tế, xã hội, khoa học, công
nghệ, những tưởng con người có thể hoàn toàn chinh phục được những lực
lượng tự nhiên, thế nhưng, ngược lại, một bức tranh ảm đạm đã bao trùm lên
môi trường sinh thái. Những hậu quả sinh thái nghiêm trọng không chỉ đe
doạ sự sống của tự nhiên, mà còn đang đe doạ cả sự sống của con người và
xã hội. Thực tế đó đã buộc con người phải thay đổi chiến lược phát triển: từ
sự phát triển tăng tốc đối vối xã hội, với sự ưu tiên trước hết cho các mục
tiêu kinh tế, sang sự phát triển bền vững - một sự phát triển kết hợp hài hoà
giữa mục tiều kinh tế và mục tiêu sinh thái, sự phát triển vừa bảo đảm thoả
mãn nhu cầu của các thế hệ hôm nay, nhưng đồng thời, không xâm hại đến
cơ hội phát triển của các thế hệ mai sau. Cuộc cách mạng thông tin - công
nghệ lần thứ năm đã bước đầu đáp ứng được những yêu cầu khẩn thiết đó
của sự phát triển xã hội.
Thế nhưng, tuy mới bắt đầu cách đây khoảng hơn bốn thập niên và
bùng phát khoảng hơn một thập niên gần đây, cuộc cách mạng thông tin -
22
cống nghệ lần thứ năm đã có những biểu hiện tiêu cực và lần này, những hậu
quả tiêu cực đó đã và đang tác động trực tiếp, mạnh mẽ lên chính con người
và xã hội. Những mặt trái của công nghệ sinh học như sự lạm dụng các loại
chất hoá học vào trồng trọt và chăn nuôi. Kỹ thuật trên với việc tạo ra các
loài mới không bảo đảm chất lượng, tạo ra "vũ khí gen" và "bom sắc tộc" có
sức huỷ diệt cả một chủng tộc, một nòi giống; vấn đề nhân bản vô tính
người; v.v. đang ngày ra những hậu quả khôn lường.
Những hậu quả tiêu cực của công nghệ thông tin và việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào các lĩnh vực công nghệ khác như công nghệ nguyên
tử, các công nghệ chế tạo vũ khí,v.v. đang đặt con người trước những mối đe
doạ mới về công ăn, việc làm, về quyền tự do, bình đẳng, công bằng, về an
ninh quốc phòng và kinh tế, về sức khoẻ và sự sống, Con người bằng trí
tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ đã không ngừng khai thác, biến
đổi các dòng vật chất, năng lượng, thông tin của thế giới, thông qua các cuộc

cách mạng thông tin - công nghệ, đưa xã hội loài người bước từ nền văn
minh này sang nền văn minh khác cao hơn. Ngày nay, với những gì đã diễn
ra, con người hiểu ra rằng sự phát triển tiếp tục của xã hội loài người phải là
sự phát triển bền vững, sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa ba mục tiều cơ bản
mang tính chiến lược: mục tiêu kinh tế (tăng trưởng và phát triển kinh tế
không ngừng), mục tiêu xã hội - nhân văn (sự sống, sức khoẻ, học vấn, công
bằng, bình đẳng, tự do, hạnh phúc, cho mọi nguồn và mục tiêu sinh thái
(bảo vệ và không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống). Bằng con
đường khai thác nguồn tiềm năng trí tuệ (trí năng) thông qua cuộc cách
mạng thông tin - công nghệ lần thứ năm, con người với tất cả sự khôn
ngoan, khéo léo của mình đang hướng đến tạo dựng một nền văn minh mới
về chất - nền văn minh đậm đà chất trí tuệ và nhân văn
23

×