Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tìm hiểu hoạt động nghiệp vụ thị truờng mở - thực trạng và giải pháp phát triển ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.91 KB, 25 trang )

Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay, các chính sách tiền tệ của
NHTW đóng vai trị rất quan trọng. Trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan trọng
nhất, bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định nhất với những thay đổi trong
cơ sở tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Tuy
nhiên hiện nay còn tồn tại các vấn đề về số lượng, chủng loại hàng hoá, sức hấp dẫn
của nghiệp vụ thị trường mở…do nghiệp vụ này chưa thu hút được sự quan tâm của
mọi nguời. Do đó tìm hiểu về nghiệp vụ thị trường mở là một việc rất cần thiết, mang
đến một hiểu biết đầy đủ tạo cơ sở để có thể đánh giá và đưa ra những giải pháp cho
hoạt động thực tế của chúng ta. Ðồng thời trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của các
nuớc có thị trường tài chính phát triển sẽ có nhiều bài học được rút ra giúp chúng ta có
cái nhìn thực tế về vấn đề này và có hướng đi riêng của mình. Chính vì những lý do
trên, em đã chọn đề tài : “ Tìm hiểu hoạt động Nghiệp vụ thị truờng mở - Thực
trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam”.
Ðề tài gồm có 3 phần:
- Phần I : Lý luận về nghiệp vụ thị trường mở
- Phần II:Khái quát thực trạng tại Việt Nam
- Phần III: Nhận xét, đánh giá về thực trạng; đề xuất kiến nghị của bản thân.
Ðề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng thời gian
nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn cịn nhiều hạn chế nên chun đề này khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ
giáo để đề tài được hoàn thiện hơn!

SV: Đỗ Thị Nga

1



Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Sự ra đời và khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
1.1. Sự ra đời của công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những
năm 30 của thế kỉ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Anh
được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên,
công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi
sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm
cơng cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo mong muốn. Cách thức
đầu tiên được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường là:
- Bán chứng khoán Chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định
trong tương lai.
- Vay trên thị trường – thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ
người mơi giới với đảm bảo bằng chứng khốn Chính phủ.
- Bán hẳn các chứng khốn Chính phủ.
- Vay từ các Ngân hàng thương mại.
- Vay từ người gửi tiền đặc biệt
Bằng cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng vay
hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung ương ( NHTW) Thụy Sĩ cũng sử dụng
nghiệp vụ bán các chứng khốn Chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa.
Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng Nghiệp vụ thị
trường mở như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong
và sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này được
sử dụng như cơng cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh

kinh tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này, lượng chứng khoán Chính phủ
nằm trong tay các NHTW tăng lên
Đến năm 1920, Nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng vẫn chỉ được
sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả.
Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan trọng của Nghiệp vụ thị trường mở ngày càng

SV: Đỗ Thị Nga

2


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
tăng lên, nó được sử dụng như cơng cụ chính sách tiền tệ ở ba nước ban đầu này và
sau đó trở thành xu hướng ở hầu hết NHTW các nước khác.
Điều này xuất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khẩu; sự mở rộng và hồn
thiện của hệ thống thị trường tài chính; sự tăng lên của lượngc chứng khốn Chính
phủ và các chứng khốn có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay cơng cụ Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ
chính sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước

1.2. Khái niệm Nghiệp vụ thị trường mở
a. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị truờng mở” chỉ các hoạt động giao
dịch chứng khoán của các NHTW trên thị trường mở. Thơng qua hành vi mua, bán
chứng khốn này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống Ngân
hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền
cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các chứng
khốn là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khốn Chính phủ, các
chứng khốn đuợc phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc Ngân hàng gồm cả chứng

khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch Nghiệp vụ thị truờng mở có
thể là Ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác.
Về mặt thực tế, Nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của NHTW trên thị
trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và cơng cụ
giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khốn hay thị truờng tiền tệ, thị trường mở ở
các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình cơng cụ và thời hạn của các công cụ giao
dịch trên thị trường. Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng
khoán nợ ngắn hạn và những nguời tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy,
ở Nhật thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ hoặc Ðức
cho phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở .
Xét theo thời hạn của chứng khoán nợ thì thị trường mở ở những nước này bao
gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Theo cách này, khái niệm “ Nghiệp vụ
thị truờng mở” có ý nghĩa kinh tế khi nó gắn với cụm từ “Nghiệp vụ thị truờng mở”.
Có nghĩa là, các giới hạn khác nhau về đối tượng và các chủ thể giao dịch của NHTW
trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng

SV: Đỗ Thị Nga

3


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
nuớc
b. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
 Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng
ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các Ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua
ảnh hưởng đến tiền gửi của các Ngân hàng thương mại tại NHTW, và tiền gửi khách

hàng tại NHTM từ đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng cho vay của NHTM khi đó nó sẽ tác
động đến hệ số nhân tiền và sẽ tác động đến mức cung tiền. Bằng việc bán các chứng
khốn, NHTW có thể giảm bớt đi một khối lượng tiền dự trữ tương ứng (với điều kiện
các nhân tố khác không đổi) dù nguời mua là NHTM hay khách hàng của nó, số tiền
thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của Ngân hàng tại
NHTW. Trong trường hợp nguời mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua
chứng khoán sẽ giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Sự giảm xuống
của dự trữ sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống Ngân hàng và vì thế giảm khối
lượng tiền cung ứng. Hành vi mua chứng khốn của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở tới dự trữ ngân hàng
NHTW bán tín phiếu kho bạc  dự trữ ngân hàng ↓  khả năng cho vay
của NHTM ↓  m ↓  Ms ↓
 Tác động về giá
Hoạt động mua bán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến
mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của các Ngân hàng bị ảnh hưởng nó tác động đến cung cầu
vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Cung – cầu tiền TW thay đổi sẽ
dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này thông qua
dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ truyền tác động của
nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền
kinh tế và tốc độ tăng truởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất được thị
trường xác định.
Thứ hai, việc mua chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung -cầu
về các chứng khốn đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi
chứng khốn thay đổi, tỷ lệ sinh lời của nó cũng thay đổi. Nếu đó là những chứng
khốn có giá chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ

SV: Đỗ Thị Nga

4



Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
tác động trở lại đến lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán TPKB
Bán TPKB





giá TPKB giảm

lãi suất thị trường tăng





NHTW bán TPKB

đầu tư giảm





Dự trữ NH giảm cung vốn NHTW giảmLS ngắn hạn tăngLS thị trường tăng
Cơ chế tác động qua giá chứng khoán

Mua chứng khoán  lượng chứng khoán trên thị trường giảm  giá chứng
khốn tăng  lãi suất chứng khốn giảm

2. Hình thức giao dịch trong nghiệp vụ thi trường mở
NHTW thường thực hiện ngiệp vụ thị trường mở theo hai cách chủ yếu: giao
dịch mua bán có kì hạn và giao dịch mua bán hẳn. Ngoài ra , một loạt các nghiệp vụ
khác cũng được NHTW sử dụng, thí dụ như: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW,
giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ…

2.1. Giao dịch có kì hạn.( Mua bán có hồn lại)
- Giao dịch mua có kỳ hạn: Là việc NHTW mua và nhận quyền sở hữu giấy tờ
có giá từ tổ chức tín dụng, đồng thời tổ chức tín dụng cam kết sẽ mua lại và nhận lại
quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định.
- Giao dịch bán có kỳ hạn: Là việc NHTW bán và chuyển giao quyền sở hữu
giấy tờ có giá cho tổ chức tín dụng, đồng thời cam kết sẽ mua lại và nhận lại quyền sở
hữu giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các
hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao
dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khốn từ nguời mơi giới trên
thị truờng, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai.
Giao dich mua bán có kỳ hạn tồn tại duới dạng:
- Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng mua
bán với người giao dịch và người giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá của
NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
- Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán các

SV: Đỗ Thị Nga

5



Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
giấy tờ có giá cho nguời giao dịch và nguời giao dịch lại đồng ý bán lại các giấy tờ có
giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hồn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường mở
vì những lý do sau:
- Ðây là cơng cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
khơng dự tính trước đến dự trữ của các Ngân hàng.
- Chi phí giao dịch của một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt
bán đoạn
- Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ khơng hồn hảo
dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.
- Làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW

2.2. Giao dịch mua bán hẳn ( Mua bán khơng hồn lại)
- Giao dịch mua hẳn: Là việc NHTW mua và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá
từ tổ chức tín dụng, khơng kèm theo cam kết bán lại giấy tờ có giá
- Giao dịch bán hẳn: là việc NHTW bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ
có gía cho tổ chức tín dụng, khơng kèm theo cam kết mua lại giấy tờ có giá.
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của
NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường.
Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng khốn là đối
tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân hàng là dài hạn các
giấy tờ đó phải là các cơng cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải được phát hành bởi các tổ
chức đủ điều kiện theo quy định.

3.


Các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở

Về nguyên tắc thị trường mở là thị trường không giới hạn chủ thể tham gia.
Trên thị trường này, ai cũng có thể là đối tác tham gia thị trường mở của NHTW.
Chính vì vậy, ở Mỹ người ta gọi cơng cụ này là nghiệp vụ thị trường tự do. Tuy nhiên,
tùy từng quốc gia mà các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở có thể khác nhau.
Thơng thường các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở bao gồm:

3.1. Ngân hàng Trung ương
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường
thơng qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống
ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị truờng mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ.

SV: Đỗ Thị Nga

6


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín
dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh
doanh mà để quản lý, chi phối thị truờng làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện
theo đúng mục tiêu của nó
Như vậy, NHTW là người quyết định từng phiên giao dịch về: chủng loại và
khối lượng hàng hóa mua bán; phương thức giao dịch; thời gian tiến hành mua bán;
phương thức thanh toán…Tất cả các chủ thể khác tham gia đều phải chấp hành quyết
định của NHTW khi muốn tham gia nghiệp vụ thị trường mở.


3.2. Các đối tác của Ngân hàng Trung ương.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia
thị trường này rất đơng đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau
Ở các nước khác trên thế giới, đối tác của NHTW tham gia nghiệp vụ thị trường
mở có thể gồm các chủ thể sau:
- Các Ngân hàng thương mại
- Các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng
- Các hãng kinh doanh ( các doanh nghiệp)
- Các cá nhân và hộ gia đình
- Các nhà giao dịch chuyên nghiệp ( Dealers)
Ở Việt Nam, tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các tổ chức tín dụng thành lập
và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy công
nhận là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Các tổ chức tín dụng phải có đủ điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
- Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở bao gồm:
máy fax, máy vi tính nối mạng internet…
- Có giấy đăng kí nghiệp vụ thị trường mở.

a. Các Ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại: là một trung gian tài chính đặc biệt quan trọng đứng
ra nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, nhận một số luợng khổng lồ vốn gửi và dùng
tiền gửi đó cho vay trên thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là nguời cho vay.
Trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các thành phần kinh tế có nhu cầu. Tính chất đặc biệt
của NHTM là mối liên hệ mang tính hệ thống giữa các Ngân hàng và khả năng tạo
tiền gửi thanh toán. Việc mua bán giấy tờ có giá của đối tác này sẽ có tác động lan
truyền mạnh mẽ tới cả hệ thống. Trong điều kiện nguồn vốn tín dụng là chủ yếu,
những ảnh huởng này còn chi phối hành vi của các khách hàng của bản thân ngân

SV: Đỗ Thị Nga


7


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
hàng, từ đó mà tác động tới các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.

b. Các tổ chức phi tài chính.
Sau NHTM, NHTW thường giao dịch với các tổ chức tài chính phi tài chính.
Các tổ chức tài chính phi tài chính bao gồm: Các cơng ty bảo hiểm, cơng ty tài chính,
quỹ đầu tư…
Ðộng cơ chủ yếu của họ khi tham gia thị trường mở là sử dụng vốn nhàn rỗi để
mua bán chứng khoán có giá ngắn, dài hạn; duy trì khả năng thanh toán; đi vay nguồn
vốn cần thiết; cho vay các khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Sự có mặt của tổ chức tài
chính phi ngân hàng là rất cần thiết bởi chúng có khả năng thu hút các nguồn vốn tiết
kiệm khổng lồ cho nền kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng trong đầu tư và cùng cạnh
tranh với các NHTM. Cho nên, nếu NHTW muốn điều chỉnh lượng tiền trong lưu
thơng thì rất cần quan tâm tới bộ phận đối tác này. Tuy vậy, giữa các tổ chức tài chính
phi ngân hàng khơng có sự gắn kết mật thiết như hệ thống NHTM, khơng tham gia
vào q trình tạo tiền bởi nó khơng được nhận tiền gửi khơng kì hạn, khơng làm dịch
vụ thanh tốn.

c. Các nhà giao dịch thứ cấp
Ðối tác thứ ba có mức độ giao dịch ít hơn cả đối với NHTW là bộ phận các
khách hàng lớn nhưng riêng lẻ, dân cư có nắm giữ chứng khốn...Chính vì tính nhỏ
lẻ, khơng có sự liên kết và khó kiểm sốt của bộ phận này nên sự tham gia của chúng
bị hạn chế ở nhiều nuớc.
- Các doanh nghiệp: có nhu cầu bán chứng khốn để đổi ra tiền mặt hoặc để
kiếm lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua

các loại chứng khốn ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
để kiếm lời.
- Các hộ gia đình: Hộ gia đình tham gia thị trường mở nhưng họ phải chuyển
các giấy tờ có giá ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh
nhất, họ mua các chứng khốn phịng ngừa rủi ro bất ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá
nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự đoán.
- Các nhà giao dịch chuyên nghiệp. Tham gia vào thị trường mở với tư cách là
nguời trung gian trong việc mua bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối

SV: Đỗ Thị Nga

8


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
tác khác như các hãng sản xuất kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và
tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá
mua, giá bán.
Như vậy, xét cho cùng, việc mở rộng đối tác là quan trọng bởi nó tạo ra một
hình ảnh sơi động trên thị trường mở nhưng điều quan trọng hơn là các đối tác đó có
giúp NHTW thực hiện được mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ hay khơng. Tại các
nền kinh tế vay nợ, vốn của nền kinh tế chủ yếu do NHTM nắm giữ thì việc giới hạn
đối tác trong phạm vi hệ thống ngân hàng cũng không làm giảm đi tính hiệu quả của
các tác động do NHTW tạo ra. Ngược lại, với những nền kinh tế mang đậm nét thị
trường, đối tác càng nhiều thì hiệu quả điều tiết càng lớn. Do đó, ta thấy rằng, hiệu
quả của Nghiệp vụ thị trường mở mạnh hay yếu phụ thuộc vào các kênh truyền dẫn
tác động, khả năng kiểm tra giám sát của NHTW, chất lượng của đối tác hơn là số
lượng đối tác ít hay nhiều.


4.

Hàng hóa của nghiệp vụ thị trường mở

Chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở
không giống nhau ở từng nước. Về mặt lí thuyết , nghiệp vụ thị trường mở không giới
hạn cụ thể chủng loại cũng như thời hạn các chứng khoán giao dịch, tuy nhiên những
loại chứng khốn nợ chủ yếu bao gồm:

4.1. Tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là duới 12 tháng.
Ðây là công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì:
-

Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
Ðược phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu

cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ tài chính là người có vai trị
quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín
phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn
của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính
phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.

4.2. Tín phiếu Ngân hàng Trung Ương.

SV: Đỗ Thị Nga

9



Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
Tín phiếu Ngân hàng Trung ương là loại giấp tờ có giá ngắn hạn do NHTW phát
hành để làm công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm
hàng hóa trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của
NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ và là công cụ linh hoạt cho việc quản lí
vốn khả dụng.
Tuy nhiên việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi chính sách tiền tệ sẽ làm
cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên, cho dù NHTW hoạt động khơng vì mục
tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW địi hỏi phải có sự phối hợp nhất định
với bộ Tài chính. Khi NHTW và bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW
và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập
trung mua lại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường
tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành giấy tờ có giá này
khơng đạt được và có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hóa này.

4.3. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm
bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nuớc. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ
được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an tồn, khối lượng
phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái
phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.

4.4. Trái phiếu chính quyền địa phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương
khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thơng thường nguời
sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được huởng ưu dãi về thuế thu nhập từ trái
phiếu.


4.5. Chứng chỉ tiền gửi (CD)
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính phi
ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất
định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn
hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản
lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một
hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào nguời gửi
tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thơng của nó và do

SV: Đỗ Thị Nga

10


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở.

5. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
Hoạt động của thị trường mở thường được thực hiện thông qua phương thức
giao dịch song phương hoặc thông qua đấu thầu.

5.1. Giao dịch song phương.
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau
hoặc giao dịch thơng qua nhà mơi giới hoặc đại lý chứng khốn mà khơng mua bán
thơng qua hình thức đấu thầu. Xuất phát từ định nghĩa này, có hai loại thủ tục song
phương là:
- Các giao dịch của NHTW trực tiếp với các đối tác: Là hình thức giao dịch mà
NHTW trực tiếp giao dịch với một hoặc một số ít đối tác trong nuớc. Các đối tác này

được lựa chọn theo tiêu chí chung về tư cách đối tác. Các giao dịch song phương trực
tiếp với các đối tác có thể được áp dụng với các giao dịch có hồn lại, giao dịch
khơng hồn lại và giao dịch hốn đổi ngoại tệ.
- Giao dịch của NHTW thông qua sở giao dịch chứng khốn và các đại lí thị
trường. Ðối với các giao dịch này, các đối tác tham gia giao dịch với NHTW là không
bị giới hạn và thủ tục giao dịch các công cụ nợ được điều chỉnh theo tập quán thị
trường. Hình thức giao dịch song phương được áp dụng khi có những sự biến động
tiền tệ cục bộ ở từng đối tác của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở

5.2. Giao dịch theo phương thức đầu thầu
Việc mua hoặc bán các loại giấy tờ có giá giữa NHTW với các NHTM được
thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
Giá của giấy tờ có giá hoặc lãi suất giao dịch trên thị trường mở là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy, lãi suất cũng
là một mục tiêu mà NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên
nghiệp vụ thị trường mở. Ðấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng trên nghiệp vụ
này tuỳ thuộc vào mục tiêu của NHTW. Ðể có thể can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì
thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó lãi suất cố định do NHTW chỉ đạo. Khi mục tiêu
của chính sách tiền tệ nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một khối lượng
mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất ở đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu thị
truờng, còn lãi suất trúng thầu sẽ được xác định tại điểm đạt được khối lượng cần bơm
hoặc rút tiền khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng hoặc lãi suất
trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá.

SV: Đỗ Thị Nga

11


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ

GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

a. Đầu thầu khối lượng
NHTW công bố mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc
bán. Các ngân hàng dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá đó theo mức lãi suất
niêm yết truớc.
- Trường hợp tổng khối lượng dự thầu của các ngân hàng bằng hoặc thấp hơn
khối lượng NHTW cần mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu của từng ngân hàng là
khối lượng dự thầu của từng ngân hàng đó.
- Truờng hợp tổng khối lượng dự thầu vượt quá khối lượng NHTW cần mua
hoặc bán, khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu được phân bổ theo công thức nhất
dịnh.

b. Đầu thầu lãi suất
NHTW công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán. Các ngân hàng tự
đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do mình chọn. Các đơn dự thầu được xếp
theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần trong truờng hợp NHTW cần mua hoặc lãi suất
dự thầu tăng dần nếu NHTW cần bán. Nghĩa là khi NHTW mua thì những đơn dự
thầu ứng với lãi suất cao sẽ được phân bổ truớc cho đến khi khối lượng phân phối
được sử dụng hết và nguợc lại.
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất trong trường hợp NHTW cần
mua hoặc là lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW cần bán mà tại mức lãi suất đó đạt
được khối lượng giấy tờ có giá NHTW cần mua hoặc cần bán. Khối lượng trúng thầu
của các ngân hàng là khối lượng của các mức dự thầu có lãi suất bằng và cao hơn mức
lãi suất trúng thầu với trường hợp NHTW mua giấy tờ có giá hoặc lãi suất dự thầu
bằng và thấp hơn lãi suất trúng thầu nếu NHTW bán giấy tờ có giá.
Phương pháp xác định giá: Sau khi đã xác định được khối lượng trúng thầu của
tổ chức tín dụng, NHTW phải xác định lãi suất áp dụng từng mức trúng thầu cho tổ
chức tín dụng làm cơ sở xác định giá bán hoặc mua giấy tờ có giá. Có 2 phương pháp
xác định là theo lãi suất thống nhất ( Hà Lan) hoặc theo lãi suất riêng lẻ (Mỹ).


SV: Đỗ Thị Nga

12


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

II. KHÁI QUÁT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM

1. Vài nét chung về nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam
Việc thực hiện quá trình đổi mới hoạt động Ngân hàng theo xu hướng hội nhập
quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung chuyển sang sử dụng cơng cụ gián tiếp
điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở. Sau một thời gian
nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chuẩn bị đủ mọi điều kiện, ngày
12/7/2000, Ngân hàng Nhà nuớc đã chính thức đưa cơng cụ nghiệp vụ thị truờng mở
vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng
trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước, từ sử dụng công cụ trực
tiếp sang sử dụng các cơng cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với
thông lệ quốc tế.

2. Thực tế hoạt động trong thời gian qua
2.1. Doanh số giao dịch

Năm

2008
2009
2010


Doanh số mua

947.205,900
966.880,460
2.101.420,401

6 tháng 2.300.062

Doanh số
bán

Tổng

% so với

doanh số

năm

giao dịch

trước

88.859
100,162
7.294,919

1.036.066
966.980

2.108.715

0

2.300.062

260,1%
211,5%

Doanh số
Số

bình

phiên

quân/

402
329
491

phiên
2.577
2939
3.240

241

9544


2011
Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở liên tục tăng, năm sau cao hơn
năm trước theo cả hai chiều mua và bán. Trong các hình thức giao dịch thị trường mở
thì hình thức NHNN mua các GTCG - “bơm” tiền ra là chủ yếu, có thời điểm là
100% trong tổng doanh số trúng thầu như 6 tháng đầu năm 2009 và năm 2010. Tuy
nhiên, 6 tháng đầu năm 2011, NHNN lại “hút” là chủ yếu, (tháng 5 và 6); NHNN chỉ
bơm ra khoảng 13.056 tỷ đồng. Điều này cho thấy thị trường mở là một “kênh” cung
ứng hoặc thu hút tiền về quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của CSTT
Như vậy, khi các TCTD thiếu hụt nghiêm trọng vốn khả dụng thì thị trường mở
thực sự là “phao” hỗ trợ cho các TCTD này, bảo đảm khả năng thanh toán cho các
SV: Đỗ Thị Nga

13


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
TCTD trong trường hợp thị trường có những biến động đột xuất. Điều này đã góp
phần ổn định thị trường tiền tệ ngay tức thì, đáp ứng yêu cầu điều tiết vốn khả dụng
của các thành viên tham gia thị trường mở.

II.2.Tần suất và phương thức giao dịch.
a. Tần suất giao dịch.
Qua bảng số liệu trên cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN đã thực
hiện 241 phiên giao dịch mua có kỳ hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các
TCTD nên NHNN chỉ chào các phiên giao dịch mua có kỳ hạn và chủ yếu là kỳ hạn
ngắn, chỉ có 7 ngày và tất cả các phiên đều đấu thầu khối lượng.
Các chủ thể tham gia thị trường trong 6 tháng đầu năm 2011cũng tăng mạnh,
gần như các chủ thể đăng ký tham gia thị trường, nếu có đủ điều kiện đều được giao

dịch và đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Các chủ thể tham gia gồm: 05 NHTM Nhà
nước, 32 NHTMCP, 01 ngân hàng liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng nước ngồi, 04
cơng ty tài chính.

b. Phương thức đấu thầu, xét thầu
Trong gần 3 năm trở lại đây, NHNN chủ yếu thực hiện đấu thầu khối lượng với
khối lượng được công bố trước trong những phiên chào mua. Khối lượng giao dịch
bình quân trong từng phiên tăng dần trong các năm chứng tỏ nghiệp vụ thị trường mở
ngày càng đóng vai trò quan trọng tác động đến tổng lượng tiền trong nền kinh tế
(M2).

II.3.Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở
Lãi suất trên thị trường mở cũng có nhiều biến động: nếu năm 2008, mua có kỳ
hạn 7 ngày lãi suất bình quân là 12,82%/năm, 14 ngày là 13,12%/năm, thì năm 2009,
đã giảm xuống tương ứng là 7,23%/năm và 7,51%/năm và năm 2010 tương ứng
8,35%/năm và 7,69%/năm. Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã
tăng lên 10%/năm, từ ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã được đẩy
lên mức 14%/năm, khơng dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên thị
trường mở lên 15%.
Như vậy, tất cả những sự điều chỉnh trên đều cho thấy quyết tâm kiềm chế lạm
phát mà hiện nay đang được Chính phủ đang ưu tiên hàng đầu. Có thể nói, NHNN đã
sử dụng linh hoạt, thận trọng, có hiệu quả các cơng cụ CSTT trong đó có nghiệp vụ thị
trường mở, phục vụ tốt mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của mình.

SV: Đỗ Thị Nga

14


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ

GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

III. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG NÀY, ĐỀ XUẤT,
KIẾN NGHỊ CỦA BẢN THÂN
1. Những thành tựu đạt được
Cho đến nay, Nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, đúng quy định,
việc điều hành Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN đã phù hợp với mục tiêu chính sách
tiền tệ bám sát diễn biến của nền kinh tế thị trường và phần nào điều chỉnh vốn khả dụng
của các tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa vốn và bơm thêm khi thiếu vốn.
Một số thành tựu công cụ Nghiệp vụ thị trường mở đạt được trong thời gian qua:
Thứ nhất, NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả; công cụ nghiệp vụ
thị trường mở cùng với các cơng cụ chính sách tiền tệ khác, bước đầu đã kiềm chế lạm
phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của CSTT. Cùng với thị trường mở,
NHNN vẫn duy trì các cơng cụ khác của CSTT như chính sách tái cấp vốn, dự trữ bắt
buộc. Do vậy, trong các thời điểm cụ thể, thị trường mở được điều hành linh hoạt, góp
phần tạo sự phối hợp chặt chẽ với các cơng cụ CSTT khác nhằm đạt được mục tiêu
CSTT.
Thứ hai, qua nghiệp vụ thị trường mở; NHNN đã điều tiết linh hoạt vốn khả
dụng cho các TCTD. Nghiệp vụ thị trường mở có vai trị quan trọng trong việc điều
tiết cung cầu về vốn ngắn hạn cho các TCTD nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Có thể nhận thấy nghiệp
vụ thị trường mở Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế
đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, sự thay đổi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm tăng khả năng điều tiết
lãi suất thị trường của NHNN Việt Nam. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác
động đến lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lãi suất thị trường. Lãi suất thị
trường mở được điều hành linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu về quan điểm điều hành
CSTT trong từng thời kỳ thể hiện rõ vai trò của lãi suất thị trường mở trong việc hỗ
trợ NHNN điều tiết lãi suất thị trường.

Thứ tư, công tác dự báo vốn khả dụng của NHNN đã có nhiều cải thiện, kết quả
dự báo trong kì dự báo là 1 tháng khơng có nhiều sai lệch về tổng thể, nhưng trong dự
báo biến động hàng ngày còn nhiều sai số. Tuy nhiên, do việc thực hiện chào mua

SV: Đỗ Thị Nga

15


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
được thực hiện 2 phiên một ngày, nên việc chỉnh sửa sai lệch dự báo được tiến hành
nhanh chóng.
Thứ năm, các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở đã tăng lên về số lượng
và đa dạng về loại hình, xuất phát từ nhu cầu vốn khả dụng 6 tháng đầu năm và các
điều kiện tham gia thị trường của các TCTD, cho thấy các TCTD có đủ điều kiện đã
tham gia và đều có khả năng trúng thầu. Điều này càng khuyến khích các TCTD nắm
giữ GTCG và tăng tính cạnh tranh trên thị trường.

2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1. Hạn chế
Thứ nhất, NHNN còn gặp nhiều khó khăn trong điều hành nghiệp vụ thị trường
mở nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, điều này ảnh hưởng bởi, số lượng thành
viên tham gia thị trường mỗi phiên cũng khiêm tốn: hai năm 2008 - 2009 khoảng 50 60% các TCTD được công nhận là thành viên thị trường mở; năm 2010, các thành
viên tham gia tích cực hơn, có phiên số lượng thành viên tham gia là 40; năm 2011,
các thành viên tham gia cao nhất trong một phiên đã lên tới 44 thành viên.
Thứ hai, Chính sách tiền tệ đa mục tiêu kiểm sốt lạm phát, vừa hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế, do vậy, việc bơm tiền qua nghiệp vụ thị trường mở vẫn phải nằm trong
chỉ tiêu lượng tiền cung ứng tăng thêm được Chính phủ phê duyệt. Do đó, phần nào
làm giảm tính chủ động trong điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt

Nam.
Thứ ba, Dự báo cung - cầu vốn khả dụng của NHNN đơi khi chưa thật chính
xác. Sai số trong dự báo thường không đồng đều nên khó khắc phục. Các dự báo có
thời gian trên 1 tháng tuy đã được thực hiện, nhưng không thường xuyên và chỉ mang
tính dự báo về xu hướng và ước đoán theo dãy số liệu lịch sử và NHNN chưa có hệ
thống theo dõi kịp thời, đầy đủ.
Thứ tư, tăng hỗ trợ vốn khả dụng chưa đáp ứng được yêu của tất cả các TCTD
tham gia thị trường. Thực tế 6 tháng đầu năm 2011, đã có 49 thành viên tham gia thị
trường, song tham gia giao dịch thường xuyên chủ yếu là các TCTD có quy mơ lớn
với ưu thế về điều kiện giao dịch. Các TCTD quy mô nhỏ hoặc chưa quan tâm, hoặc
điều kiện tham gia thị trường yếu nên không thường xuyên tham gia thị trường.
Thứ năm, Còn nhiều bất cập trong việc điều tiết lãi suất nghiệp vụ thị trường mở.
Thời gian qua, NHNN Việt Nam đã điều hành linh hoạt lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở gắn với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để định hướng lãi suất

SV: Đỗ Thị Nga

16


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
thị trường, phát tín hiệu trong điều hành chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy vẫn có
thời điểm, NHNN lúng túng trong việc điều tiết lãi suất trên thị trường mở trong mối
quan hệ với các loại lãi suất khác.

2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa.
Hiệu quả của chính sách tiền tệ cần dựa trên cơ sở có sự phối hợp đồng bộ với

chính sách tài khóa. Mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm sốt lạm phát góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế phụ thuộc vào việc xây dựng và điều hành các chính sách
của quốc gia. Việc bội chi ngân sách có xu hướng gia tăng qua các năm đã tác động,
làm hiệu quả của chính sách tiền tệ bị sụt giảm.
Thứ hai, Giấy tờ có giá tham gia thị trưởng mở chưa đa dạng.
Theo Quyết định số 11/QĐ-NHNN ngày 06/01/2010 đã có sự thay đổi quy định
tỉ lệ chênh lệch giữa giá trị giấy tờ có giá (GTCG) tại thời điểm định giá và giá thanh
toán trong giao dịch mua bán có kì hạn giữa NHNN và các tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, trong Quyết định này, danh mục giấy tờ có giá tham gia thị trường mở chưa
được mở rộng.
Thứ ba, Cơ chế điều hành lãi suất cịn có những hạn chế nhất định.
Tháng 6/2001, NHNN cho phép tự do hóa lãi suất tín dụng ngoại tệ; tháng
6/2002, tự do hóa lãi suất nội tệ. Tuy nhiên, NHNN Việt Nam vẫn điều hành chính
sách lãi suất theo cơ chế kiểm soát trực tiếp, ban hành nhiều loại lãi suất khác nhau
như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Mặt khác, các loại lãi
suất trên do NHNN cơng bố nên mang nặng tính hình thức, vì vậy, tất yếu ảnh hưởng
đến lãi suất thị trường mở.
Thứ tư, Thu thập và xử lý thông tin cịn nhiều khó khăn.
Với tần suất giao dịch bình qn 1 - 2 phiên/ngày địi hỏi thơng tin về nhu cầu
vốn khả dụng của các TCTD, nhu cầu vay vốn, mặt bằng lãi suất phải được cập nhật
liên tục hàng ngày, hàng giờ tới ban điều hành thị trường. Tuy nhiên, NHNN vẫn chưa
có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường tiền tệ.. Điều này
xuất phát chủ yếu từ thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển.

3. Giải pháp phát triển thị trường mở ở Việt Nam hiện nay.
Một là: Về cơ sở pháp lý
NHNN nên giải quyết một số vấn đề hiện đang cản trở sự phát triển nghiệp vụ
thị trường mở, đó là: cho phép đa dạng hóa kỳ hạn giao dịch, tiến tới đưa ra giao dịch

SV: Đỗ Thị Nga


17


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
mua, bán kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường mở hoạt động linh hoạt và kịp thời,
sau đó bổ sung phương thức giao dịch hốn đổi ngoại tệ nhằm linh hoạt hơn trong
việc kiểm soát lượng tiền cung ứng.
Hai là: Nên xác định nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trị chủ yếu trong điều
tiết tiền tệ của NHNN, được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với các công cụ
khác của CSTT nhằm đạt mục tiêu CSTT. Mặt khác, nghiệp vụ thị trường mở xác
định rõ mục tiêu là điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cả toàn hệ thống TCTD.
Ba là: Đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các hàng hóa giao dịch trên thị
trường mở.
- Cần đa dạng hóa các hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm tạo những cơ
hội tốt cho các thành viên trong việc lựa chọn GTCG để tham gia giao dịch. Muốn
vậy, cần bổ sung các qui định vào chứng chỉ tiền gửi vào trong Luật Các công cụ
chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại GTCG này. Cần hồn
thiện cơ sở pháp lý để thương phiếu có thể được giao dịch trên thị trường mở. Bổ sung
thêm các loại GTCG khác tham gia giao dịch trên thị trường mở như trái phiếu do
NHNN phát hành, trái phiếu do cơng ty có uy tín phát hành.
- Cần tăng tính hấp dẫn các GTCG đang giao dịch.
Đối với tín phiếu Kho bạc Nhà nước, có thể bổ sung thêm các kỳ hạn phát hành
là 30, 60 ngày thay vì chỉ có các kỳ hạn đang phát hành hiện nay là 91,183 và 273 và
364 ngày, với lãi suất linh hoạt, sát lãi suất thị trường nhằm tăng tính thanh khoản cho
hàng hóa khi tham gia thị trường.
Bốn là: NHNN cần hồn thiện cơng tác dự báo hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở.
Công tác dự báo hiệu quả phải đảm bảo nguồn số liệu chính xác, đầy đủ bao

gồm: số lượng tiền cung ứng, dự trữ, nhu cầu vốn của các TCTD, cho vay chính phủ,
cho vay các TCTD, lãi suất liên ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh
tế,...
Cần phải có đội ngũ chuyên gia đảm nhiệm cơng tác thống kê, phân tích, xử lý
mơ hình và đưa ra kết quả báo cáo ban điều hành phục vụ cho công tác điều hành hoạt
động nghiệp vụ thị trường mở trong ngắn và dài hạn.
Năm là: Rà soát lại các lỗ hổng trong hệ thống thơng tin của NHNN để tăng
tính bảo mật dữ liệu, từ đó hướng tới chấp nhận hồn tồn các chữ kí điện tử.
Hiện nay, mặc dù bản đăng ký mua bán GTCG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng
đều được ký duyệt chữ ký điện tử trên mạng nhưng Sở Giao dịch NHNN yêu cầu phải
SV: Đỗ Thị Nga

18


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
có chữ ký của lãnh đạo NHTM trên bản in để chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký
điện tử và chữ ký cấp phòng của NHTM được uỷ quyền.
Sáu là: Phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ giỏi để điều hành thị
trường
Cần phân định rõ cán bộ triển khai cơng việc mang tính nghiệp vụ hàng ngày,
đội ngũ chuyên gia là người trực tiếp điều hành, hoạch định chiến lược làm công tác
tham mưu lãnh đạo. Muốn vậy, NHNN phải có quỹ hỗ trợ đào tạo với nguồn kinh phí
cố định hàng năm được phê duyệt các nguồn tài trợ khác từ bên ngoài.
Bảy là: Định kỳ nên tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động của các thành viên
tham gia thị trường mở.
Hàng quý, 6 tháng, 1 năm, nên lấy ý kiến thành viên tham gia thị trường về: kế
hoạch tham gia thị trường trong tương lai, kết quả đạt được, những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình tham gia thị trường mở và những đề xuất đối với nghiệp vụ thị

trường mở.
.

KẾT LUẬN
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu nhất của
chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam,khi đi vào hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã ít
nhiều phát huy được tác dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong đó
phương thức giao dịch chủ yếu được sử dụng là mua bán có kỳ hạn duới hình thức
hợp đồng mua lại. Tuy nhiên do những nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách
quan, nghiệp vụ này chưa phát huy được hết hiệu quả của nó.
Trên đây là lý luận về nghiệp vụ thị truờng mở, phân tích thực trạng ở Việt Nam,
qua đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của
nghiệp vụ này sao cho phù hợp với tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian
tới.
Nghiệp vụ thị trường mở là vấn đề tương đối mới mẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm ở Việt Nam. Vì vậy nâng cao hiểu biết về kỹ thuật và tầm quan trọng của nó
ở Việt Nam là rất cần thiết trong thời điểm này.

SV: Đỗ Thị Nga

19


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài
Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức và tìm hiểu thực tiễn, đề tài sẽ khơng
tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, quan
tâm của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC


SV: Đỗ Thị Nga

20


Đề án mơn học lý thưyết tài chính tiền tệ
GVHD: PGTS Nguyễn Hữu Tài

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Đại học KTQD
2. Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng Trung ương – NXB Đại học KTQD
3. Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 của Thống đốc Ngân
hàng

Nhà nước về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở.
4. Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN ngày 30/09/2008 của Thống đốc Ngân

hàng

Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ thị

trường mở ban hành kèm theo
5. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng – Lê Vinh Danh – NXB Chính trị Quốc gia
6. Tiền tệ ngân hàng và hoạt động tài chính – Rrederic S. Míshkin
7. Thời báo ngân hàng
8. Tạp chí tài chính tiền tệ
9. Các webside

/> />

10. Các đề tài, luận án, bài báo,...khác có liên quan

SV: Đỗ Thị Nga

21



×