Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng lạm phát và ảnh hưởng tới kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.06 KB, 44 trang )

Nguyễn Minh Sáng
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1. Định nghĩa lạm phát:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế
khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền
tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của
đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ
hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường
toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây
tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm
phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người
ta gọi là sự ổn định giá cả.
2. Đo lường
Lạm phát: được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông
thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các
liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả
trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số
giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung
bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua
chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so
với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá
cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích
thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá
trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
1
Nguyễn Minh Sáng


trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
• Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có
hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính.
Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể
được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt
trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao
động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được
mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều
quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các
chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo
này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao
động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao
hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều
chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng
lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm
phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
• Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận
được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác
với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị
nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng
đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong
PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin
rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
2
Nguyễn Minh Sáng
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành

phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng
phải tính đến là các dịch vụ.
• Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán
buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số
này rất giống với PPI.
• Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa
một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất
được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này
bao gồm cả vàng và bạc.
• Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm
quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với
tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo
theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh
tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm
phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân.
Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu
dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách
kiềm chế lạm phát của mình.
• Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo
chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo
Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market
Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm
phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu
dùng cá nhân".
3
Nguyễn Minh Sáng
 Thiểu phát: trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là
một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường
nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một

năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng
tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu
phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung
ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4
phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp
đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm
phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam
cho rằng đây là thiểu phát.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát,
đó là:
• (1) Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ
lại đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị
trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên
cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền,
nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.
• (2) Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền
công thực tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và
tăng thơi gian nghỉ ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn
ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình
trạng trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
4
Nguyễn Minh Sáng
 Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm
một năm.
 Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.
 Siêu lạm phát

Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng
nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu
lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm
phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp
đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu
lạm phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền;
(2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một
ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời
gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ
số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
3. Tác động của lạm phát trong kinh tế
3.1. Lạm phát dự kiến:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây
ra những tổn thất cho xã hội:
• Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào
người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm
phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền.
Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà
kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh
5
Nguyễn Minh Sáng
do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều
hơn so với không có lạm phát.
• Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
• Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong
trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát
sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không
muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá

sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị
trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến
tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân
trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh
hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân
không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải
nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu
nhập thực tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để
làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước
này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định
của mình.
3.2. Lạm phát không dự kiến:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của
cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng
thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người
đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn
6
Nguyễn Minh Sáng
dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát
không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất
lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác
động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do
lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm
phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã
hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách
độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm
cách chống lại loại lạm phát này. 4. Nguyên nhân:

4.1. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức
toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua
sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ
khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu
cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới
cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
4.2. Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền
và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể
giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó
mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, nghĩa là lạm phát.
4.3. Lạm phát do chi phí đẩy
7
Nguyễn Minh Sáng
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí
nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ
tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
4.4. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người
lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng
tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm
phát nảy sinh vì điều đó.
4.5. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản
phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị

trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy
sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
4.6. Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi
giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường
OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì
giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên.
4.7. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào
để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn
8
Nguyễn Minh Sáng
do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến
cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
4.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới
đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu
trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
5. Kiềm chế lạm phát
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương
thức để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên
bang Mỹ có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc
thiết lập các lãi suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các
chính sách tiền tệ). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là
cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử
dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá.
Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm
soát lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm
phát một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát

khi nó ở mức cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng
cách giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung,
thông thường là thông qua các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ
cũng lưu ý đến vai trò của chính sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của
các hàng hóa cơ bản từ các công trình nghiên cứu của Robert Solow. Các
nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định
tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như
9
Nguyễn Minh Sáng
vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để
khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện
trong thực tế thông qua các tiến trình nghiệp vụ thị trường mở.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm
soát giá cả (xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại
Mỹ trong những năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một
trong những vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào
thời gian mà các biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía
cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của
"cầu". Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác
dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó
làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá
phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất
nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm
soát lạm phát trong thời gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như
là một cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất
có hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải
tăng thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch

lạc mà việc kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao.
6. Phương pháp tính:
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắc là CPI, từ các chữ tiếng Anh
Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay
đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi
tương đối vì chỉ số này dựa vào một “rổ hàng hóa” đại diện cho toàn bộ hàng
tiêu dùng.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự
thay đổi của mức giá chính là lạm phát.
10
Nguyễn Minh Sáng
Phương pháp tính chì số giá tiêu dùng:
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền
theo công thức Laspeyres của giá cả thời kỳ báo cáo (kỳ t) so với thời kỳ cơ
sở. Để làm được điều đó, phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định
lượng hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ
hàng hóa tại mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng
số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc làm cơ sở so sánh.
Chỉ số giá tiêu dùng của cả nước được tính bằng phương pháp bình
quân gia quyền giữa chỉ số giá tiêu dùng của các vùng kinh tế với quyền số
tương ứng của từng vùng so với cả nước. Chỉ số giá tiêu dùng của từng vùng
được tổng hợp từ chỉ số giá của các tỉnh với quyền số tương ứng vủa từng
tỉnh, thành phố trong vùng. Trong đó, chỉ số giá tiêu dùng của cấp tỉnh,
thành phố đã và đang được tính theo phương pháp bình quân gia quyền giữa
biến động giá của các nhóm mặt hàng với quyền số tương ứng, theo kỳ gốc
cố định (thường là 5 năm).

Công thức tổng quát:
I
t 0

=


=
=
n
i
ii
n
i
i
t
i
qp
qp
1
00
1
0
=

=
n
i
i
W

1
0
×











p
p
i
t
i
0
(1)
Trong đó:
I
t 0

: chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc 0;
p
t
i
: giá mặt hàng i kỳ báo cáo t;

p
i
0
: giá mặt hàng i kỳ gốc;
11
Nguyễn Minh Sáng
W
i
0
: quyền số cố định năm 2005.
Công thức (1) tính chỉ số giá dài hạn (kỳ báo cáo so với kỳ gốc). Công
thức này đã được áp dụng nhiều năm và có nhiều ưu điểm như cách tính dễ
hiểu, ngắn gọn; nhưng cũng có một số nhược điểm khi giải quyết vấn đề
chọn mặt àhng mới thay thế mặt hàng cũ không còn bán trên thị trường, hàng
thời vụ hoặc hàng thay đổi chất lượng.
Tuy nhiên, khi tính chỉ số theo phương pháp này, mọi so sánh phải
thông qua một kỳ gốc đã chọn (ví dụ kỳ gốc năm 2000). Do đó, có một số
hạn chế khi phải xử lý những thay đổi về mặt hàng, về điều chỉnh chất lượng
mặt hàng… qua các kỳ điều tra. Để khắc phục nhược điểm trên, chỉ số giá
tiêu dùng sẽ được tính theo công thức Laspeyres chuyển đổi – hay phương
pháp so sánh với kỳ gốc ngắn hạn. Công thức này hoàn toàn tương thích với
công thức Laspeyres gốc và có dạng tổng quát như sau:
I
t 0

=

=

n

i
t
i
W
1
1

×












p
p
t
i
t
i
1
(2)
Trong đó:
W

t
i
1−
=
W
i
0

×












p
p
i
t
i
0
1
Điểm mới trong công thức (2) là thay cho việc tính chỉ số cá thể mặt
hàng kỳ báo cáo so trực tiếp với kỳ gốc bằng việc tính chỉ số cá thể mặt hàng

kỳ báo cáo so với kỳ trước sau đó nhân với chỉ số cá thể mặt hàng đó kỳ
trước so với năm gốc.
p
p
i
t
i
0
=
p
p
i
0
1
1

×

p
p
i
i
1
2

×

×

p

p
t
i
t
i
2
1



×

p
p
t
i
t
i
1−
12
Nguyễn Minh Sáng

Đẳng thức trên có thể viết như sau:
i
t
pi
0→
=
i
t

pi
01→−

×

i
tt
pi
1−→
(3)
Trong đó:
i
t
pi
0→
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;
i
t
pi
01→−
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ
gốc 0;

i
tt
pi
1−→
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước;
Công thức (2) có thể viết như sau:
I

t 0

=

=
n
i
i
W
1
0

×

i
t
pi
01→−

×

i
tt
pi
1−→
(4)
Trong đó:
I
t 0


: chỉ số giá tiêu dùng tháng báo cáo t so với kỳ gốc 0;

i
tt
pi
1−→
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước;
i
t
pi
01→−
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ
gốc 0;
W
i
0
: quyền số cố định năm 2005.
 Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các vùng và cả nước:
Tính chỉ số giá các vùng kinh tế:
- Tính chỉ số giá khu vực nông thôn của cá vùng (8 vùng) từ báo
cáo chỉ số giá khu vực nông thôn của các tình trong vùng.
13
Nguyễn Minh Sáng
- Tính chỉ số giá khu vực thành thị của các vùng (8 vùng) từ báo
cáo chỉ số giá khu vực thành thị của các tình trong vùng.
- Tính chỉ số giá vùng chung cho cả hai khu vực (8 vùng).
Tính chỉ số giá cả nước:
- Tính chỉ số giá khu vực nông thôn cả nước, từ chỉ số giá khu
vực nông thôn của 8 vùng.
- Tính chỉ số giá khu vực thành thị cả nước, từ chỉ số giá khu vực

thành thị của 8 vùng.
- Tính chỉ số giá chung cả nước.
Công thức tổng quát như sau:
I
t
V
0→
=


=
=

×
m
k
k
m
k
k
t
k
W
W
I
1
0
1
0
0

(5)
Trong đó:
I
t
V
0
0

: chỉ số giá cả nước kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
I
t
V
0
1

: chỉ số giá vùng 1 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
I
t
V
0
2

: chỉ số giá vùng 2 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
k : tỉnh tham gia tính chỉ số, m: số tỉnh tham gia tính chỉ số giá;
W
k
0
: quyền số cố định của tỉnh k;
I
t

k
0→
: chỉ số kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
- Cấp tỉnh, thành phố tính chỉ số giá tiêu dùng từ giá bình quân
hàng tháng
- Cấp vùng và trung ương tính chỉ số giá tiêu dùng từ chỉ số giá
của các địa phương, không tính trực tiếp từ giá bình quân vùng hoặc trung
ương.
14
Nguyễn Minh Sáng
15
Nguyễn Minh Sáng
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1995 - 2008
1. Tình hình biến động giá cả giai đoạn 1995 – 2005
Số liệu của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng các năm từ
1996 đến năm 2005, nhìn trên đồ thị giống như như đường cong có
đáy là năm 2000 và 2 đỉnh lần lượt là 1996 và 2005.
Hình 1: Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo
chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12
năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Hình 2: Biểu đồ so sánh lạm phát 1995-2005
16
Nguyễn Minh Sáng
Trong giai đọan 1996 đến 2005, giá tiêu dùng chung đã tăng 51%.
Như vậy, sau 10 năm giá tiêu dùng tăng 51% thấp hơn tốc độ tăng của thu
nhập bình quân đầu người của hộ gia đình; theo số liệu Tổng cục Thống
kê thu nhập bình quân đầu người năm 2004 (484,4 nghìn đồng) tăng
64,2% so với năm 1999 (295,0 nghìn đồng). Điều đó chứng tỏ đời sống
của người dân được cải thiện.

Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 1995 đến 2005
( nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
96-
05
Chỉ số giá tiêu dùng 1,127 1,045 1,036 1,092 1,001 0,994 1,008 1,04 1,03 1,095 1,084 1,51
Lương thực 1,206 1,002 1,004 1,231 0,921 0,921 1,060 1,026 1,029 1,143 1,078 1,45
Thực phẩm 1,193 1,163 1,021 1,086 1,005 0,993 1,002 1,079 1,029 1,171 1,12 1,88
Đồ uống và thuốc lá 1,193 1,160 1,021 1,053 1,026 1,003 1,011 1,036 1,035 1,036 1,049 1,51
May mặc, giày dép, mũ nón 1,078 1,032 1,032 1,023 1,019 1,004 1,008 1,011 1,034 1,041 1,05 1,28
Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,167 0,963 1,028 1,017 1,025 1,047 1,008 1,071 1,041 1,074 1,098 1,43
Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,053 1,012 1,042 1,025 1,035 1,023 1,009 1 ,008 1,019 1,036 1,048 1,29
Dược phẩm, y tế 1,011 0,998 1,016 1,087 1,041 1 ,036 0,998 1,005 1,209 1,091 1,049 1,65
Phương tiện đi lại, bưu điện 1,05 1,032 1,08 1,03 1,016 1,019 0,953 1,017 0,98 1,059 1,091 1,30
Giáo dục 1,117 0,993 1,027 1,096 1,038 1 ,041 1,036 1,012 1,049 0,982 1,05 1,37
Văn hóa, thể, giải trí 1,117 0,993 1,027 1,013 1,019 1,009 1,002 0,99 0,987 1,022 1,027 1,09
Hàng hóa và dịch vụ khác 1,098 1,085 1,087 1,04 1,031 1,041 1,014 1,02 1,043 1,052 1,06 1,58
Chỉ số giá vàng 0,976 1,025 0,934 1,007 0,998 0,983 1,050 1,194 1,266 1,117 1,113 1,87
Chỉ số giá đô la Mỹ 0,994 1,012 1,142 1,096 1,011 1,034 1,038 1,021 1,202 1,004 1,009 1,71
Phân tích biến động giá cả theo 10 nhóm hàng xếp theo thứ tự nhóm
có tốc độ tăng giá cao nhất đến thấp nhất như sau:
- Nhóm thực phẩm tăng 88%,
- Nhóm dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 65%,
17
Nguyễn Minh Sáng
- Đồ ướng và thuốc lá tăng 51%,
- Lương thực tăng 45%,
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 43%,
- Giáo dục tăng 37%,
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 30%,

- Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 29%,
- May mặc, giày dép, mũ nón tăng 28%,
- Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 58%
Ta nhận thấy trong 10 nhóm hàng trên, nhóm hàng thực
phẩm và nhóm hàng dược phẩm và dịch vụ y tế có tốc độ tăng cao
nhất; điều này có nghĩa là đời sống của nhóm người nghèo mà thu
nhập của họ chủ yếu dùng mua thực phẩm không được cải thiện bao
nhiêu.
Về mối quan hệ giữa ngọai thương và lạm phát: qua kinh
nghiệm các nước và khu vực lãnh thổ NIC (Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông, Singapore) cho thấy rằng các nước xây dựng chiến lược
tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu thường trải qua các giai đọan
lạm phát theo chu kỳ với các giai đọan sau:
- Giai đọan 1 xuất khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên khóang sản,
khi tích lũy một lượng lớn ngọai tệ (đất nước bớt đi một lượng hàng
hóa, thêm một lượng tiền) thì chuyển qua lạm phát cùng với nhập siêu
(bớt đi một lương tiền, thêm lượng hàng hóa chủ yếu là máy móc,
nguyên liệu để chuyển sang giai đọan 2 xuất khẩu dựa vào thâm dụng
lao động.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
% tăng
BQ 1 năm
(96-05)
18
Nguyễn Minh Sáng
Kim ngạch xuất khẩu
HH (tỷ USD) 5,45 7,25 9,19 9,36 11,54 14,48 15,03 16,71 20,15 26,49 32,45 20,1
% tăng so với năm trước 133,0 126,8 101,8 123,3 125,5 103,8 111,2 120,6 131,5 122,5
Kim ngạch nhập khẩu

HH(tỷ USD) 8,16 11,14 11,60 11,52 11,62 15,64 16,22 19,75 25,26 31,97 36,76 19,9
Qua biểu số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu, người viết cho rằng
nhập siêu giai đọan 1995 đến 1998 kèm với nó là chỉ số giá tiêu dùng
hơi cao, chủ yếu là nhập tư liệu sản xuất, giúp cho những năm sau
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu: 1999 (23%), 2000 (25,4%); cùng với
đó là tỷ lệ nhập siêu rất thấp; đây chính lúc kết thúc giai đọan xuất
khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên và khóang sản. Và bắt đầu từ năm
2001, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dựa vào các ngành thâm dụng lao
động đó là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với kim ngạch
xuất khẩu tăng với tỷ lệ cao, cùng với nó là chỉ số gía tiêu dùng cũng
có tăng cao.
Bảng 3: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Hàng công nghiệp
nặng và khóang sản
(%)
25,3 28,7
28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8
Hàng công nghiệp nhẹ
và TTCN (%)
28,5 28,9
36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3
Bảng 4: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tư liệu sản
xuất chiếm
(%)
84,8 89,9
91,5 93,6 94,7 93,8 92,1 92,1 92,2 93,3 94,3
19

Nguyễn Minh Sáng
Xét yếu tố giá hàng nhập khẩu ảnh hưởng đến tình hình lạm phát,
ta thấy các năm 1998, 1999, 2001, 2002 giá hàng nhập khẩu giảm
trùng với tình hình thiểu phát các năm 1999, 2000. Các năm sau giá
nhập khẩu tăng lên thì chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng tương ứng. Như
vậy, mối tương quan giữa chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng
là khá chắc chắn.
Trong giai đọan 1996 đến 2005, chỉ số giá nhập khẩu tăng 18,8%;
trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng tăng 51%. Như vậy, chỉ số giá tiêu
dùng tăng, ngòai yếu tố do giá hàng nhập khẩu, còn do xuất khẩu, do
cung tiền và các yếu tố khác…
Bảng 5: Chỉ số giá hàng nhập khẩu từ 1995 đến 2005
( nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 96-05
Chỉ số chung 1,073 1,048 1,035 0,98 0,901 1,034 0,983 0,999 1,034 1,096 1,078
1,188
Hàng tiêu dùng
nhập khẩu
1,065 1,025 1,031 0,973 0,953 0,965 0,976 0,978 1,011 1,008 1,022 0,94
Tư liệu sản xuất
nhập khẩu
1,075 1,054 1,036 0,982 0,901 1,049 0,984 1,002 1,038 1,126 1,095 1,279
2. Tình hình biến động giá cả giai đoạn 2006 đến nay
2.1. Thực trạng:
Trong giai đọan 2006 đến tháng 3/2008 (27 tháng), chỉ số giá tiêu
dùng đã tăng 31,1%; trong đó:
- Lương thực tăng 55,3%,
- Thực phẩm tăng 44,5%,
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 49,5%,
- Phương tiện đi lại tăng 27,6%,…

Chỉ số giá đã tăng với 2 con số từ giữa năm 2007 đến nay.
20
Nguyễn Minh Sáng
Bảng 6: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008
( nguồn: Tổng cục Thống kê)

2005 2006 2007
3/2008
So
12/2007
Chỉ số
giá quý I
năm 2008
so với
cùng kỳ
năm 2007
Tháng
3/08
So
Tháng
12/05
Chỉ số giá tiêu dùng 1,084 1,066 1,1263 1,0919 1,1637 1,311
Lương thực 1,078 1,141 1,1540 1,1791 1,2152 1,553
Thực phẩm 1,120 1,055 1,2116 1,1308 1,2840 1,445
Đồ uống và thuốc lá 1,049 1,052 1,0678 1,0773 1,0696 1,210
May mặc, giày dép, mũ nón 1,050 1,058 1,0670 1,0842 1,0757 1,224
Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,098 1,059 1,1712 1,2061 1,1794 1,496
Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,048 1,062 1,0515 1,0663 1,0578 1,191
Dược phẩm, y tế 1,049 1,043 1,0705 1,0806 1,0773 1,207
Phương tiện đi lại, bưu điện 1,091 1,040 1,0727 1,1434 1,1004 1,276

Giáo dục 1,050 1,036 1,0197 1,0212 1,0199 1,079
Văn hóa, thể, giải trí 1,027 1,035 1,0169 1,0438 1,0261 1,099
Hàng hóa và dịch vụ khác 1,060 1,065 1,0902 1,1283 1,1193 1,310
Chỉ số giá vàng 1,113 1,272 1,2735 1,1846 1,4042 1,919
Chỉ số giá đô la Mỹ 1,009 1,010 0,9997 0,9812 0,9942 0,991
Gía tăng chóng mặt, trong đó lương thực và thực phẩm tăng cao nhất, đã
thực sự làm cho đời sống của tầng lớp dân cư cận nghèo và nghèo thực sự
khốn đốn.
21
Nguyễn Minh Sáng
3.2. Nguyên nhân
3.1.1. Nguyên nhân khách quan:
- Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên
nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng
dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu
biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện
góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản
xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng
hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước
tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược
này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng từ đầu năm 2008
đến nay, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng
81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong
suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá
trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh
tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền
kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim
ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%;
mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu
quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất

thuốc 60% mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi
những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị
trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao,
làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao.
- Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá
cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập
khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ
của các nước trong khu vực
22
Nguyễn Minh Sáng
- Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến
phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số
tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ
bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng
đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết
không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm dẫn đến nguồn cung thực
phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao. Quan hệ cung
cầu về hàng hóa, dịch vụ ở trong nước có diễn biến khác với các năm trước.
Sản lượng lương thực bị giảm do thời tiết, sâu bệnh, bão lũ, trong khi dân số
vẫn tăng trên 1 triệu người; giá cả thế giới tăng khá nhanh, xuất khẩu lại vẫn
giữ khối lượng như năm trước nên giá lương thực tăng cao là khó tránh khỏi.
Đàn gia cầm chưa phục hồi so với đỉnh cao cách đây mấy năm, nay lại
thường xuyên bị các dịch đe dọa; đàn gia súc tăng thấp, nay lại bị dịch lở
mồm long móng rồi đến dịch lợn tai xanh rình rập, trong khi giá thức ăn thì
đắt lên gấp bội Nhiều làng thuần nông mà có đến một nửa số hộ không
nuôi lợn, bởi chăn nuôi lợn trong nhiều năm chỉ "lấy công làm lãi" hoặc như
đem tiền bỏ ống mà thôi.
3.2.2 Nguyên nhân chủ quan:
Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu
tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính

nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ
việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan,
Malayxia cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các
nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam
(trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung
Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%).
23
Nguyễn Minh Sáng
Về nguyên nhân chủ quan, đại diện các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Công
Thương, Tài chính đều thừa nhận công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn
chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là
giá xăng dầu. Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số
giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho
phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt
Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều
hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với
lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép
tăng giá. Tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh và ở mức cao- tăng cao
hơn so với kế hoạch đề ra khoảng 10%-14%. Tổng dư nợ cho vay năm 2007
ước tăng khoảng 10%-14% so với kế hoạch đề ra từ đầu năm.
Từ đầu năm 2007, về chính sách tiền tệ có hai biểu hiện đã làm tăng sức
ép lạm phát. Thứ nhất, một lượng tiền lớn được cung ứng cho thị trường
chứng khoán khi chỉ số giá chứng khoán "phi mã" hồi đầu năm để đạt đỉnh
điểm vào 12/3 (1.170 điểm), đã vượt qua đỉnh sang dốc bên kia, hiện nay chỉ
còn 940 điểm và đang có dự đoán sẽ còn giảm xuống nữa! Một phần tiền sẽ
được quay về sau chỉ thị 03, một phần được đưa ra tham gia khi các đại gia
IPO, một phần đưa ra mua vàng, mua bất động sản và đưa vào lưu thông
hàng hóa, dịch vụ thông thường, tạo sức ép tăng giá tiêu dùng. Thứ hai,
nguồn vốn từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh. Tăng trưởng kinh tế liên
tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên

tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng
sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.
Về nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng
nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không
tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP
(sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để
24
Nguyễn Minh Sáng
phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là
tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát
tăng cao là điều không thể tránh khỏi. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt
Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào đột biến, từ
đó buộc Ngân hàng phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa
thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm này có
thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung
tiền cảu Việt Nam đã ngày một giãn rộng trong 3 năm qua.
Trong khỏang hai năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 đến tháng 6 năm
2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông
và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP
của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch
giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hầu như không đáng kể.
Hình 3: So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng
trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%.
Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng)
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ
25

×