Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

phân tích vai trề của thị trường chứng khoán. đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán việt nam 12 năm qua. bènh luận nhận định ô thị trường chứng khoán việt nam như một sềng bạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.03 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
ĐỀ TÀI 2
PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. ĐÁNH GIÁ
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 12
NĂM QUA. BÌNH LUẬN NHẬN ĐỊNH: « THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM NHƯ MỘT SÒNG BẠC »
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Lớp : Thị trường chứng khoán 1
Khóa : 51 Hệ : Chính quy
Hµ Néi, n¨m 2012
1
Phần 1: Cở sở lý thuyết về thị trường chứng khoán
I. Khái niệm:
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao
đổi các loại chứng khoán.
Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa
cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin
về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát
triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
II. Đặc điểm
1. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của thị
trường chứng khoán trong tổng thể thị trường tài chính thể hiện:
- Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
2
TT Tiền tệ
Thị trường vốn
TTCK
Thời gian đáo hạn
1 năm
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên


thị trường vốn và công tài chính trên thị trường tiền tệ.
- Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi
diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ
sở hữu).
3
t
TT Vốn cổ phànTT Nợ
TT Cổ phiếu
TT Trái phiếu
2. Phân loại thị trường chứng khoán
3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
a. Nhà phát hành: Cty cổ phần, quỹ đầu tư…
b. Nhà đầu tư:
- Profession: Những nhà đầu tư đưa ra quyết định mua bán chứng khoán dựa
vào các phân tích kỹ thuật, số liệu khoa học.
4
Phân loại
TTCK
Hình thức luân chuyển vốn
TT sơ cấp
TT thứ cấp
Hàng hóa
TT tập trung
TT phi tập trung (OTC)
TT thứ 3VN: UPCOM
Nơi giao dịch các ck
của công ty đại chúng
chưa niêm yết trên sở
GD CK
Hình thức tổ chức

Cổ phiếu
Trái phiếu
CK phái sinh
- Free rider: đưa ra quyết định theo tâm lý thị trường, theo tin đồn, theo động
thái của các nhà đầu tư profession.
- Vĩ nhân”: những người mua bán chứng khoán theo xu hướng ngược với xu
hướng chung của thị trường.
c. Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- NHTM: ở Việt Nam, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc kinh doanh
chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu cính phủ.
- Công ty chứng khoán: được lập ra để chuyên sâu vào thực hiện các nghiệp
vụ liên quan đến chứng khoán.
+ Môi giới
+ Quản lý danh mục
+ Tư vấn đầu tư
+ Tư doanh chứng khoán
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán
d. Các cơ quan quản lý và giám sát TT
- Cơ quan quản lý Nhà nước: ở Việt Nam: quản lý cấp cao nhất: Ủy ban CK
Nhà nước
- Sở giao dịch CK
- Hiệp hội Nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
5
- Tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm (Standard & Poor, Moody, Fich…): cung
cấp các dịch vụ đánh giá năng lực trả cả gốc và lãi đúng hạn, hoặc tiềm lực
tài chính của tổ chức phát hành.
4. Đặc diểm khác của TTCK:
- Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cầm vốn và người

cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian
tài chính.
- Là thị trường gắn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do
tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng
khoán, mà giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu.
- Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát
hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị
trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể
chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ muốn.
III. Vai trò của thị trường chứng khoán
TTCK là một thể chế tài chính bậc cao, hoạt động của nó thông qua các công
cụ là cổ phiếu, trái phiếu… và với nhiều loại hình khác nhau phù hợp với tâm lí
muôn vẻ của người dân, qua đó cho phép các DN, các tổ chức tài chính và chính
phủ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế. Thực tế
phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của
thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế, 6 vai trò cơ bản bao gồm:
6
1. Tập trung tích tụ và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế.
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng
vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Năm 2010, TTCK Việt Nam phát huy vai trò này như sau:
Thứ nhất, mức vốn hóa thị trường có tăng, nhưng thanh khoản của thị trường
thấp hơn năm 2009. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của 623 công ty niêm yết trên
các SGDCK (sàn giao dịch chứng khoán) là 726.000 tỷ đồng, chiếm 39% GDP
năm 2010, tăng khoảng 1,7% so với mức vốn hóa thị trường năm 2009.
Thứ hai, số lượng các trung gian tài chính không tăng, nhưng tổng mức vốn
điều lệ các công ty gia tăng đáng kể. Thị trường hiện có 105 công ty chứng khoán
với tổng vốn điều lệ là 33.300 tỷ đồng, tăng 1,3 lần so với năm 2009; 47 công ty

quản lý quỹ, với tổng vốn điều lệ là 2.100 tỷ đồng, quản lý tổng tài sản trên
100.000 tỷ đồng, trong đó có 23 quỹ đầu tư với tổng vốn điều lệ là 13.300 tỷ đồng.
Thứ ba, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư gia tăng
mạnh, đạt 1,1 triệu tài khoản, tức tăng 126% so với 793.000 tài khoản năm 2009.
Trong đó, số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài khoảng 15.000 tài khoản và
góp phần đáng kể trong giao dịch dẫn dắt thị trường.
Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc
phân phối vốn một cách có hiệu quả.Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng
công nghệ mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi.thực tế trên thị
trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải tới tất
cả các nhà đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các chứng khoán.
7
Chỉ những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ
trên thị trường.
Thị trường chứng khoán tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài
chính, điều này buộc các ngân hang thương mại và các tổ chức tài chính phải quan
tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của
các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát
chặt chẽ của các ngân hang thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến khích
tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị trường chứng
khoán cũng là yêu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là
các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia
cũng như trong phạm vi quốc tế.
1. Vai trò tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp
Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, việc cạnh tranh trên thị trường ngày
càng tăng, nhu cầu về quản lý chuyên nghiệp cũng tăng theo. Bởi việc nắm giữ vốn
không đi đôi với năng lực quản lý. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc
chuyên môn hóa, tiết kiệm vốn và chất xám (chính là việc kết hợp giữa người nắm
giữ vốn nhưng không có khả năng quản lý với người quản lý tốt nhưng không có

vốn trong tay). Một trong những biểu hiện của vai trò này có thể thấy thông qua
quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng trong những năm trước thời kỳ đổi mới cũng như nhiều
năm về sau này, việc hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân là do nhà nước vừa là người sở hữu vừa là người
quản lý các doanh nghiệp nhà nước mà không có sự giám sát nào từ bên ngoài.
Chúng ta biết rằng tuy nói rằng nhà nước sở hữu và quản lý nhưng thực chất nhà
8
nước cử ra những cá nhân đứng ra đảm nhận những công việc này. Động cơ nào
thúc đẩy DNNN tìm kiếm lợi nhuận, động cơ nào thúc đẩy DNNN làm ăn uy tín,
động cơ nào thúc đẩy DNNN minh bạch trong tài chính hoàn toàn không có.
Chính vì nhập nhằng giữa sở hữu và quản lý, đồng thời nguồn vốn lại từ ngân sách
nhà nước, chính vì thế việc thất thoát vốn, tham nhũng, việc sử dụng vốn không
hiệu quả đang là thực trạng đáng buồn của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Rất nhiều DNNN làm ăn yếu kém vẫn thường “sống sót” sau một thời gian dài
thua lỗ.
Việc thị trường chứng khoán ra đời đã tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước. Từ đó góp phần mình bạch hóa, thực hiện việc gián sát
từ bên ngoài đối với các hoạt động của chúng. Tính đến cuối năm 2009, Việt Nam
đã cổ phần hóa được khoảng 4.000 doanh nghiệp nhà nước, trong đó Nhà nước vẫn
nắm 53% tổng vốn điều lệ. Đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa như
Vietcombank, Vietinbank, Bảo Việt góp phần cho các doanh nghiệp này hoạt động
phát triển hơn, đồng thời cũng góp phần tăng tuy mô hàng hoa của thị trường, làm
nền tảng cho thị trường phát triển. Tuy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước vẫn còn rất nhiều bất cập, thế nhưng, nhìn nhận về mặt tích cực, việc này sẽ
lam tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
2. Thực hiện tái phân phối công bằng hơn
Vai trò này được hiểu là thị trường buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành
chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung vốn cho phát triển kinh tế.
Gia đình trị, khép kín sẽ dẫn đến quản trị yếu kém, thiếu minh bạch, không đủ

niềm tin đối với người bên ngoài, trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm kinh doanh
yếu, nguồn lực hạn chế, không tập trung và tích tụ là những nguyên nhân dẫn đến
không phát triển.
9
Gia đình trị đến cổ phần hóa: 1/3 số công ty trong danh sách S&P 500 (500
công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất của Mỹ) và hơn 40% trong số 250
công ty lớn nhất ở Pháp và Đức là những công ty gia đình. Những con số này đủ để
nói lên sự thành công của mô hình công ty gia đình ngay trong thời đại kinh doanh
mới.
Tuy nhiên, để đạt đến vị thế đó, các công ty này phải đối mặt với rất nhiều
thách thức.Chưa tới 30% trong số đó tồn tại được qua thế hệ thứ 3. Và để thành
công lâu dài, các ông chủ công ty gia đình phải đồng thời làm được 2 mục tiêu vốn
rất khó song hành: đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất và tiếp tục giữ quyền sở
hữu công ty.
Ở châu Á, điển hình là Hàn Quốc, một số tập đoàn lớn vẫn nằm dưới sự kiểm
soát của các gia đình như Samsung của gia đình Lee, Hyundai thuộc về gia tộc
Chung, LG là của họ nhà Koo. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích phương Tây, các
công ty gia đình muốn lớn mạnh và cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì cần phải
lột xác, trong đó có việc giảm bớt vai trò của quản trị gia đình và mở rộng quyền
sở hữu cổ phần cho đối tác bên ngoài.
Tại Việt Nam, rất hiếm thấy công ty gia đình tồn tại qua thế hệ thứ 3. Sự
chuyển giao công ty theo hình thức “cha truyền con nối” cũng chỉ mới bắt đầu ở
thế hệ thứ 2, như Gốm sứ Minh Long, Nệm Liên Á. Còn lại, khi đứng trước sứ
mệnh đưa doanh nghiệp tăng trưởng, hầu hết các nhà sáng lập công ty gia đình đều
chọn hình thức chuyển đổi cổ phần để gọi vốn và tăng hiệu quả quản lý.
Công ty Minh Phúc, Giấy Sài Gòn và Gỗ Đức Thành là 3 trường hợp đã trải
qua thời kỳ chuyển đổi cổ phần với nhiều thách thức. Câu chuyện của 3 công ty
này cho thấy, việc chuyển đổi đã mang lại những hiệu quả kinh doanh rất khả quan
như tốc độ tăng trưởng được cải thiện, quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn, phần
10

lớn được nhận vốn từ các quỹ đầu tư và có triển vọng niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, mỗi công ty đều gặp những vấn đề khó giải quyết. Đó
cũng chính là những thách thức chung cho các công ty gia đình trong quá trình
chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Cụ thể, đến tháng 10.2004 Cty Minh Phúc (được thành lập năm 1998 với hoạt
động chính là nhập và phân phối nguyên vật liệu cho ngành in, chủ yếu là giấy) đã
cổ phần hóa để gọi vốn phát triển quy mô , Trước khi chuyển đổi, ông Tiến sở hữu
60% Công ty. Sau khi chuyển đổi, tỉ lệ sở hữu giảm còn 32,4%. Những kế hoạch
phát triển của ông Tiến đã được hiện thực hóa sau khi Minh Phúc gặp được một
quỹ đầu tư lớn vào tháng 11.2004, không lâu sau khi Công ty chính thức chuyển
đổi sang cổ phần. Quỹ này đã đầu tư vào Minh Phúc 1 triệu USD, tương đương
28,2% vốn điều lệ Công ty. Năm 2009, doanh thu của Minh Phúc đạt 174 tỉ đồng.
Và với sự hỗ trợ của cổ đông, ông Tiến bắt đầu kế hoạch chuyển Công ty về một
địa điểm có diện tích 12.000 m2, gấp đôi diện tích hiện tại trong Khu Công nghiệp
Phong Phú (huyện Bình Chánh, TP.HCM). Tuy vậy Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp
ứng hơn 50% nhu cầu vốn , Ông cũng không giấu việc sẽ đưa Công ty bước qua
một giai đoạn mới: niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vào cuối
năm 2010. Cho đến nay Công ty đã tăng 24 lần so với khi chưa chuyển đổi cổ
phần, cổ đông tham gia cũng đa dạng về thành phần và số lượng.
3. Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK
Chúng ta biết rằng việc mở cửa TTCK làm tăng tình lỏng và cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng
cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài.
CôngThương - Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang sở hữu khoảng gần 6 tỷ USD
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 77% trong số đó tập trung vào 20 mã
11
chứng khoán vốn hóa lớn nhất. Nếu tính về số lượng nhà đầu tư mới tham gia thị
trường, thông tin từ Trung tâm Lưu ký chứng khoán cho thấy, tháng 1/2012, lượng
nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã số giao dịch tăng thêm 0,13% so với cuối năm
2011. Điều dễ nhận thấy là khối ngoại đang có xu hướng chuyển từ các giao dịch

mua bán nhỏ, lẻ cổ phiếu sang các thương vụ chuyển nhượng lớn, hướng tới các
doanh nghiệp ăn nên làm ra, có nền tảng quản trị lành mạnh.
Tháng 1/2012, lượng nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã số giao dịch tăng
thêm 0,13% so với cuối năm 2011. Điều đó cho thấy, nhiều nhà đầu tư cá nhân, tổ
chức nước ngoài vẫn thể hiện tin tưởng vào sự ổn định của nền kinh tế của Việt
Nam.
4. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ phát hành huy
động nguồn tài chính mà không tạo áp lực lạm phát.
Chúng ta biết rằng Chính phủ đã không còn sử dụng biện pháp in tiền để tài
trợ cho chi tiêu từ năm 1998. Chính vì thế, TTCK đã trở thành một kênh huy động
vốn quan trọng của Chính phủ.
TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong nước trong những đợt gần đây, đặc biệt
trong năm 2009 đều không thu được kết quả như mong muốn, nguyên nhân chính
là do vấn đề lãi suất không hấp dẫn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009, 3
lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu USD
được đưa ra mời thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009, trái phiếu ngoại tệ kỳ hạn dài số
lượng bỏ thầu rất ít. Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được 100 triệu USD/100
triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47 triệu USD/100 triệu USD trái
phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt
phát hành thứ 3, và thứ 4 vào ngày 29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu
USD trong tổng số 200 triệu USD giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%. Tỷ lệ huy
12
động thành công có xu hướng giảm dần theo từng đợt phát hành kể từ đầu 2009 tới
nay. Tính chung cả năm 2009, khối lượng huy động đạt 530,2 triệu USD (tương
đương 9.278 tỷ đồng, theo tỷ giá ước tính 17.500 đồng/USD) trên tổng số 850 triệu
USD gọi thầu.
Đối với trái phiếu bằng nội tệ, việc huy động cũng còn nhiều hạn chế.
Tính đến hết năm 2009, có khoảng 70 đợt phát hành trái phiếu được thực hiện
bao gồm trái phiếu: kho bạc nhà nước (KBNN), ngân hàng phát triển, ngân hàng
chính sách xã hội và các trái phiếu chính quyền địa phương. Theo thống kê của

Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam (BIDV), chỉ có trên 2.000 tỷ đồng giá trị
trái phiếu KBNN được phát hành trên tổng số 15.000 tỷ đồng gọi thầu. Dư nợ trái
phiếu Chính phủ (TPCP) tính đến cuối 2009 vào khoảng 16,9% GDP. Nguyên
nhân do thị trường trái phiếu thứ cấp ảm đạm, thanh khoản ở mức thấp, thể hiện
qua giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trên thị trường cũng như các số liệu
thống kê giao dịch trung bình trong phiên. Tổng giá trị trái phiếu được chuyển
nhượng qua sàn trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỷ đồng, chỉ bằng 40% so với
mức 195.600 tỷ đồng của năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trung
bình trong một phiên giao dịch cũng giảm mạnh, xoay quanh mức 300 tỷ
đồng/phiên, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỷ đồng/phiên của năm 2008.Đặc biệt,
trái phiếu chính quyền địa phương gần như không được quan tâm. Trái phiếu kho
bạc bằng Việt Nam đồng chỉ thành công với tỷ lệ 15%, một con số rất khiêm tốn.
Như vậy có thể nói TTCK đã tạo ra một kênh huy động vốn khá tiềm năng
cho Chính phủ, cung cấp lượng vốn đáng kể cho việc đầu tư cũng như thực hiện
các chính sách tiền tệ của nhà nước.
13
5. Một trong những vai trò của TTCK là cung cấp một dự báo tuyệt vời
về các chu kì kinh doanh trong tương lai (hay nói cách khác là phong vũ biểu
của nền kình tế)
Tuy nhiên khi xem xét vấn để này cần nhận thức một điều là TTCK Việt Nam
chưa phải là phong vũ biểu của nền kinh tế. Lý do được đưa ra là: TTCK Việt Nam
chỉ được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế khi đo lường được "sức khỏe" của
toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của nền
kinh tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài
chính. Nó phải đáp ứng đủ 3 yếu tố chính sau:
a. Quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề
Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu
của nền kinh tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi
ngành nghề, đại diện cho một nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 712 DN niêm yết.

Con số này còn quá ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động.
Mặt khác, các DN niêm yết chủ yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những
DN lớn có sức chi phối nền kinh tế
Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP.Song đến
thời điểm hiện tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường
cũng giảm đi tương ứng. Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm
2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm 50% GDP và con số này phải tăng đến 70%
vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ lớn để có thể đưa TTCK thực sự
trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
14
b. Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN
niêm yết
Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu
đều chỉ sử dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của
các DN niêm yết; chưa thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản
ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch còn phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc
về tài sản vô hình của công ty (trình độ quản lý, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương
mại, chất lượng sản phẩm ) chưa phản ánh hết trong báo cáo tài chính.
Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác
động mạnh mẽ tới TTCK. Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác
định hay hoạt động kinh doanh của DN quyết định giá chứng khoán.
c. Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế
Ngày 8/11/2006, VN-Index xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau
(ngày 12/3/2007) VN-Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VN-
Index đã quay trở lại và thậm chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là
chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên xuống với biên độ lớn trong thời
gian ngắn là bất thường.Và điều này có phản ánh chính xác sự biến động của nền
kinh tế hay không?
Câu trả lời là không!
Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị

trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì
trong thời gian qua, sự ảm đạm của TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều
tới các thị trường còn lại, nếu có, thì cũng chỉ như sự ảnh hưởng của một hàng hóa
15
này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK, chưa thấy được bức tranh
khái quát của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, rõ ràng VN-Index hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt
Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò trên, có thể nói thị trường chứng khoán
Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế. Trước hết là nói đến vấn đề thông tin không
cân xứng. Ở Việt Nam hiện nay có thể nói thông tin được chuyển đến các nhà đầu
tư là không đầy đủ và không giống nhau. tình trạng tùy tiện trong công bố thông
tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc
cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản
lý.
Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường
khiến cho nhà đầu tư (NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà dần
dần chuyển sang lướt sóng nhiều hơn.
Hiện trạng sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích. Hoạt động phát hành
của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên
nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít
tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà
không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị
trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động chào bán riêng lẻ
không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của các cơ quan có thẩm
quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Bên
cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn hạn
chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo nên
những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều bất cập,
16

công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu
còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm
bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị
trường thứ cấp. Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
Tuy nhiên, theo nhận định, sau 10 năm phát triển, thị trường CK Việt Nam đã
có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, góp phần tăng trường
kinh tế, gia tăng thu nhập cho người dân.
Phần 2: Sự phát triển của TTCK trong 12 năm qua.
I. Sự ra đời và những bước đi đầu tiên
1.1. Sự ra đời
Ngày 11-7-1998, Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng
khoán và TTCK, chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập trung tâm giao dịch
chứng khoán tại TP HCM và Hà Nội.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTG ngày 11-7-1998 và chính thức đi
vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Ngày 8/3/2005, Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã
chính thức chào đời. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao
dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các
DN nhỏ và vừa với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
17
1.2. Phiên giao dịch đầu tiên
Ngày 28/7//2000, phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên của TTCK Việt Nam
mở cửa với mốc khởi điểm là 100 và một "mô hình đơn giản đến mức khó tin:
2+2+1+1, tức chỉ 2 cổ phiếu (REE của công ty cổ phần Cơ Điện lạnh và SAM của
Công ty CP Cáp và Vật liệu viễn thông), 2 công ty chứng khoán, 1 trung tâm giao
dịch chứng khoán kiêm chức năng trung tâm lưu ký, 1 ngân hàng chỉ định thanh
toán và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
II. Giai đoạn 2000- 2005: những bước đi đầu tiên

Ngay sau phiên giao dịch đầu tiên, VNIndex liên tục tăng điểm trong 12
tháng, đạt đỉnh 571,04 điểm vào ngày 25/06/2001. Thời kỳ này, do lượng hàng hóa
ban đầu còn ít, cầu lớn hơn cung gấp nhiều lần dẫn đến hiện tượng các nhà đầu tư
tranh nhau mua giá trần khiến chỉ số VNIndex tăng liên tục.
Sau khi đạt đỉnh 571,04 VNIndex điều chỉnh giảm liên tục trong gần 4 tháng,
mất 64% giá trị,còn 203 điểm vào ngày 5/10/2001. Tiếp đó là cú nảy lên 301 điểm
trước khi rơi vào giai đoạn suy giảm kéo dài trong 2 năm từ tháng 11/2001 đến
tháng 11/2003.
Năm 2004 và 2005, thị trường “đi ngang”, không có tăng giảm lớn.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN)
chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ
lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực
ngân hàng).
=> Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được
sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường
18
chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền
kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Bảng thống kê số liệu TTCK VN giai đoạn 2000- 2005
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%
tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam lúc này có 4.500
tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái
phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao
dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so
với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP
của cả nước đạt gần 1%.
III. Năm 2006: bước phát triển đột phá của TTCK Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với

hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 sàn: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung
tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.
19
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số CTNY/ĐKGD 5 5 20 22 26 32
Mức vốn hóa TTCP 0,28 0,34 0,48 0,39 0,64 1,21
Số lượng CTCK 3 8 9 11 13 14
Số tài khoản KH 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
Điểm lại những con số nổi bật của thị trường chứng khoán VN trong năm
2006:
- Vào giữa năm 2006, kênh truyền thông CNN đã nhận định chỉ số VN-
Index của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam lên gần 600 điểm
vào đầu tháng 4 là chỉ số tăng trưởng nhanh thứ hai trên thế giới chỉ sau
Zimbabwe. Đến cuối năm 2006 chỉ số VN-Index tiếp tục tăng hơn 30%
và đạt mức 751,77 điểm (tăng 144,8% so với cuối năm 2005), chỉ số
HASTCIndex tăng 152,4%, chính thức ghi dấu Việt Nam trở thành
TTCK tăng trưởng nhanh nhất thế giới năm 2006.
- Mức 809,86 điểm mà VN-Index đạt được ngày 20-12 khiến tất cả các nhà
đầu tư trong và ngoài nước phải thừa nhận tỷ suất lợi nhuận cực cao của
TTCK Việt Nam. Đây là chỉ số VN-Index đạt mức cao nhất kể từ khi
TTCK chính thức hoạt động 28-7-2000. Tính chung, so với đầu năm, chỉ
số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới
170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa
nhận là quá ấn tượng. Điều này cũng khiến hàng loạt quỹ đầu tư nước
ngoài đã và đang gấp rút tìm kiếm cơ hội đầu tư tại thị trường mới nổi
nhưng cực kỳ hấp dẫn này.
- Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến.
Tổng giá trị vốn hóa thị trường của cổ phiếu toàn TTCK theo số liệu mới
công bố của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đạt trên 240.000 tỷ đồng (15
tỷ USD), chiếm khoảng 25% GDP cả nước.Trong đó giá trị thị trường cổ

phiếu niêm yết tại sàn TPHCM gần 148.000 tỷ đồng (9 tỷ USD) chiếm
15,36 GDP; giá trị thị trường cổ phiếu giao dịch tại sàn Hà Nội trên
102.000 tỷ đồng (6 tỷ USD) chiếm khoảng 10% GDP. Như vậy mục tiêu
20
Chính phủ đặt ra cho chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 có quy
mô bằng 10%-15% GDP đã nhanh chóng vượt xa trong năm 2006.
- Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM
đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với
tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham
gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao
dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Mỗi ngày có khoảng 80-100
công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo
Luật Doanh nghiệp là chính.
- Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần
so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số công ty niêm yết tăng gần 5
lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch
đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong
vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối
2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Những điểm đáng chú ý khác trong năm 2006:
- Luật chứng khoán tạo ra một cuộc đua mới: Luật Chứng khoán sau
khi được thông qua trong phiên họp thứ 9 của Quốc hội khóa XI ngày 23-
6-2006 đã được ban hành ngày 1-7-2006 và bắt đầu có hiệu lực từ 1-1-
2007. Luật ra đời với nhiều sửa đổi như nâng vốn điều lệ tối thiểu của
một công ty chứng khoán lên 170 tỷ đồng, của công ty quản lý quỹ lên 25
tỷ đồng. Chính những thay đổi này đã gián tiếp tạo ra cuộc đua thành lập
công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ trong vài tháng qua với tổng
cộng hơn 70 công ty đã được cấp phép mới.
21

- Chứng khoán trở thành kênh đầu tư hấp dẫn nhất: Ngay đầu năm,
TTCK đã khởi đầu một cơn sốt kéo dài hơn 2 tháng làm nhiều người lo
ngại cho nguy cơ “bong bóng” do việc tăng giá quá nhanh của thị trường
và nhiều nhà đầu tư lao vào mua cổ phiếu theo phong trào. Nhiều người
dân đã chuyển từ các kênh đầu tư phổ biến trước đây như gửi tiết kiệm,
mua ngoại tệ, nhà đất… sang đầu tư cổ phiếu. Chứng khoán trở thành
kênh đầu tư mới và hấp dẫn nhất trong năm 2006 bất chấp điều này làm
cản trở sự hồi phục của thị trường địa ốc
- Cắt giảm ưu đãi thuế, các doanh nghiệp đua nhau lên sàn: Theo Công
văn số 10997/CV-BTC của Bộ Tài chính ngày 8-9-2006, các doanh
nghiệp lên niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK sau ngày 31-12-
2006 không được hưởng ưu đãi miễn giảm 50% thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 2 năm liên tiếp kể từ ngày lên sàn như trước đây, tạo ra cuộc
đua thứ hai trên TTCK là đua lên sàn. Chỉ trong tháng 12 có đến 51
chứng khoán mới niêm yết tại TTGDCK TPHCM và 69 cổ phiếu khác
tranh nhau giao dịch tại TTGDCK Hà Nội, nâng tổng số cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ giao dịch trên cả 2 thị trường lên con số 195 đơn vị với
quy mô vốn hơn 25.000 tỷ đồng mệnh giá.
- TTCK tăng nóng sau ngày VN gia nhập WTO: Nhiều nhà phân tích
đánh giá cao triển vọng của nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Bên cạnh các cơ hội thì vẫn còn phải chịu nhiều thách thức, nhưng TTCK
không cảm nhận vậy, các nhà đầu tư chỉ nhìn thấy một “biển” cơ hội phía
trước và giá cổ phiếu cứ vùn vụt tăng từng ngày kể từ đầu tháng 11, thời
điểm Việt Nam ký kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
22
- Tổng thống Mỹ G.W.Bush đã đến thăm Trung tâm Giao dịch chứng
khoán (TTGDCK) TPHCM và gặp gỡ quan chức của các doanh nghiệp
lớn tại Việt Nam. Việc Tổng thống Mỹ đích thân gõ chiêng mở cửa phiên
giao dịch đã kích thích sức mua mạnh mẽ trên thị trường. Lần đầu tiên
giá trị giao dịch khớp lệnh của sàn chứng khoán TPHCM vượt ngưỡng 21

triệu USD/ngày và với hàng loạt quỹ đầu tư nước ngoài cùng lúc đánh
giá rất tốt về Việt Nam, các kỷ lục về giá trị giao dịch liên tục bị phá vỡ. (
Ngày 20-11-2006).
IV. Năm 2007: giai đoạn thị trường chứng khoán VN bùng nổ
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế.
Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
4.1. 3 tháng đầu năm 2007
Đây là giai đoạn có có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn giao dịch
đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt
động và HASTC Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có
thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt
mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn
hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ
trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường
không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu
tăng mạnh.
23
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt
các cổ phiếu từ Bluechip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… tất cả
đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong
đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE
(122,66%), ACB (197%),… Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên
sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/CP), FPT (665.000 đ/CP), DHG
(394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM (250.000đ/CP),
KDC (246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB (292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải
kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung

bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi
phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ đồng.
4.2. 5 tháng tiếp theo từ 4/2007 đến dầu tháng 9/2007
Do nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm
soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá
nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh
rõ rệt.
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và
HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VNIndex chỉ
trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm
tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. HASTC – Index trở về mốc 321,44 điểm
(24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh.
Thị trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch
của các cổ phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm.
24
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối
Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng
do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như
Chỉ thị 03, Luật thuế Thu nhập cá nhân …thị trường nhanh chóng trở lại trạng thái
mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh. Giai đoạn đầu Tháng 8, thị trường xác lập
mức đáy 883,9 điểm của VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của Hastc - Index
(23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày
30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn
600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100
CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối
này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối

NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với
giai đoạn đầu năm.
4.3. Những tháng cuối năm: thị trường dần phục hồi nhất là trong khoảng
thời gian từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là
các mã cổ phiếu bluechip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6
tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ
phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VNIndex đã
có những phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày
3/10/2007), HASTC Index cũng gần chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm
ngày01/10/2007).
25

×