Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
I. Mở đầu
Lạm phát luôn luôn tồn tại,lạm phát luôn là một hiện tượng kinh tế và xảy ra ở bất
cứ một nền kinh tế nào. Kể cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Lạm phát
luôn là lỗi lo lắng của chiến lược phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Chỉ cần một sự thay
đổi về chỉ số giá tiêu dùng đã làm ảnh hưởng cho sự vận hành và phát triển ổn định thị
trường. Việt nam đã trải qua nhiều thời kì biến động kinh tế khác nhau. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997cho đến năm 2007, nhìn chung đã duy trì được sự
tăng giá cả ở mức độ hợp lý nhất định. Nhưng việc ra nhâp WTO năm 2007, qua đó hội
nhập càng sâu- rộng vào nền kinh tế thế giới cũng như bản thân nền kinh tế Việt Nam
phát triển lên cao đã bộc lộ nhiều yếu kém nội tại và lạm phát đang trở nên ngày càng
nhức nhối. Chỉ số lạm phát trong những năm gần đây cao hơn, vượt các nước trong khu
vực Đông Nam Á và vươt xa hơn so với mục tiêu đề ra của chính phủ. Do vậy, nhà nước
đã quyết tâm đưa ra những chính sách để đẩy lùi lạm phát. Cụ thể,ngày 24/02/2011 thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kí Nghị quyết số 11/NQ – CP về những giải pháp nhằm kiềm
chế lạm phát và ổn định kinh tế vi mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tác động đến lạm phát có
rất nhiều yếu tố. Sự tác động này diễn ra theo quy mô và theo thời kì khác nhau của từng
nền kinh tế trong đó có lãi suất.
Lãi suất là một trong những biến vĩ mô quan trọng bâc nhất. Theo GS Kinh tế học
N.GregoryMankiw “ là mức giá liên kết giữa hiện tại và tương lai “ với quan điểm đó lâu
nay vẫn được ưu tiên sử dụng như một công cụ cơ bản trong nhóm các giải pháp tiền tệ.
Không ngoại lệ Mỹ- nền kinh tế số 1 thế giới vào tháng 12/2008 để đối phó với khủng
hoảng tài chính toàn cầu, FED đã điều chỉnh lãi suất USD xuống mức thấp nhất trong lịch
sử 0-0.25%. Còn chúng ta, trong lich sử đã đối mặt với siêu lạm phát trong những năm 80
trên 300%, lạm phát cao những năm 90 trên 50%.Lúc đó chính phủ đã sử dụng chính
sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt. Lãi suất ngân hàng được đẩy lên mức trên 12%/ năm.
Điều đó có hiệu quả rõ rệt làm giảm lạm phát xuống 12.7% năm 1995. Bởi vậy, các nhà
kinh tế quan tâm đến lãi suất để điều chỉnh lạm phát. Nhưng thời gian gần đây, chúng ta
đã sử dụng công cụ lãi suất nhưng hiệu quả của nó chưa được cải thiện. Có phải chúng ta
còn nhiều thiếu sót hay chúng ta vận dụng chưa thật sự đúng với nền kinh tế Viêt Nam ở
giai đoạn này. Hay chúng ta chưa khai thác một cách chủ động công cụ này? Nếu có, sự
tương quan của nó đến chỉ số CPI như thế nào? Liệu chúng ta có nên sử dụng? hay sử
dụng như thế nào trước diễn biến thị trường hiện tại? Giải đáp những câu hỏi đó tôi khảo
cứu và đưa ra đề án: “Tác động của lãi suất đến tình hình lạm phát ở Việt Nam giai
đoạn 2007-2011”
II. Lý Thuyết
1. Lạm Phát và ảnh hưởng của lạm phát.
Khái niệm lạm phát:
“Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế “ (theo
N. Gregory Mankiw).
1.1. Đo lường lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung.
1
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Tỷ lệ lạm phát = 100% x (Pt - Pt-1) / Pt-1
Pt : Mức giá tại thời điểm t.
Pt-1 : Mức giá tại thời điểm trước đó.
Để đo lường mức giá chung ta sẽ sử dụng các chỉ số : Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số
giá sinh hoạt ( CLI), chỉ số giá sản suất (PPI), chỉ số giá bán buôn (WPI).
1.2. Nguyên nhân lạm phát.
• Cung ứng tiền tệ : Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc
trường phái tiền tệ, khi cung tiền tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng
kéo dài và gây ra lạm phát.
• Lạm phát do chi phí đẩy : Xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực
hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra.
• Lạm phát cầu kéo : Diễn ra do tổng cầu AD tăng nhanh hơn tiềm
năng sản suất của nền kinh tế gây ra lạm phát.
• Lạm phát do thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách cũng là một
nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
• Lạm phát theo tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái giữa các đồng nội tệ
so với đơn vị tiền tệ nước ngoài cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.3. Phân loại lạm phát.
• Lạm phát vừa phải : loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm
và tỉ lệ lạm phát dưới 10%/năm.
• Lạm phát phi mã ( Lạm phát hai con số trở lên) : tỷ lệ tăng giá ở
mức hai hoặc ba chữ số.
• Siêu lạm phát : Giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Các
cuộc chiến siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến
tranh, nội chiến, cách mạng, đôi khi là thiên tai, do ngân sách của chính phủ…
1.4. Những tổn thất xã hội do lạm phát
Lạm phát trong dự kiến:
• Chi phí mòn gầy: do lạm phát là thời gian và lỗ lực phải bỏ ra thêm
trong giao dịch khi chúng ta muốn giảm khoản tiền nắm giữ.
• Chi phí thực đơn: khi lạm phát là những chi phí vật chất bỏ ra để
điều chỉnh nhằm giữ những biến số thực tế không đổi khi lạm phát xảy ra.
• Phân bố sai nguồn lực gây ra nhầm lẫn, bất tiện, méo mó do hệ
thống thuế gây ra.
Lạm phát ngoài dự kiến: Còn phân bố lại thu nhập một cách bất hợp lý
2. Lãi suất và vai trò của lãi suất trong nền kinh tế.
Khái niệm lãi suất:
“ Lãi suất là giá của người đi vay phải trả người cho vay để được sử dụng một
khoản tiền trong khoảng thời gian xác định”.
2
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Lãi suất được hiểu một cách chung nhất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan
hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ hoặc cho thuê những hình thức tiền tệ
hoặc các hình thức về vốn gọi là lãi suất.
Lãi suất sinh ra là người đi vay đã chiếm dụng vốn của người có vốn với mục đích
phục vụ cho nhu cầu sinh lời của mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng) trong khi người cho vay mất đi cơ hội sinh lời với chính nguồn vốn sẵn có.
2.1. Phân loại lãi suất
Lãi suất có rất nhiều cách phân loại khác nhau như: nội tệ- ngoại tệ, phân
loại theo thời gian, phân loại theo mục đích sử dụng… Nhưng ở đây chúng ta sẽ
nghiên cưu lãi suất theo 2 nhóm theo nhân tố tác động:
Lãi suất tự do, thay đổi do ảnh hưởng cung cầu thị trường.
Lãi suất do ngân hang nhà nước công bố bao gồm : Lãi suất chiết
khấu, lãi suất cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng trên thị
trường liên ngân hang, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở….
2.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế.
Công cụ khuyến khích đầu tư: Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi
ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm của chủ thể kinh tế, tạo nên quỹ cho
vay đáp ứng theo nhu cầu của nền kinh tế.
Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp:
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong tiền tệ nhà nước nhằm điều tiết lưu
thông tiền tệ kích thích điều tiết và định hướng các hoạt động kinh doanh của các
đơn vị kinh tế.
Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô
3
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Lãi suất là công cụ có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của nền kinh tế.
3. Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát:
Hiệu ứng Fisher
Hiệu ứng Fischer do nhà kinh tế học người Mỹ Irving Fisher đưa ra vào thời
kì đại khủng hoảng 1930-1939. Đây là một nội dung quan trọng trong thuyết số lượng
tiền tệ của ông, nhằm mục đích lí giải hiện tượng khủng hoảng của nền kinh tế. Ông
cho rằng nguyên nhân chủ chốt gây ra đại khủng hoảng là tín dụng dễ dãi dẫn đến sự
nợ nần quá mức, gây ra nận đầu cơ và các bong bóng tài sản, và khi bong bong tài sản
vỡ dẫn đến tài sản giảm giá trị, đói tín dụng, ảnh hưởng đến các ngành sản xuất, dẫn
đến giảm phát.
Hiệu ứng Fisher mô tả mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và hai loại lãi suất là lãi
suất danh nghĩa và lãi suất thực tế. Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên thì tỉ lệ lãi suất danh
nghĩa cũng tăng lên cùng một tỉ lệ, trong khi tỉ lệ lãi suất thực tế không thay đổi.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Ví dụ, nếu ngân hàng trả cho khoản tiền tiết kiệm mà bạn gửi trong một năm
với lãi suất danh nghĩa là 14% mà tỉ lệ lạm phát trong thời gian đó là 12% thì lãi suất
thực tế bạn nhận được sẽ là 14%-12%= 2% cũng chính là hiệu ứng Fisher 14%-
12%=2%.
4
Kích thích đầu
tư,kích thích tiêu
dùng
Tăng
tổng cầu
Sản lượng
tăng, giá tăng
Thất nghiệp
giảm
Hạn chế đầu tư,
kích thích tiêu
dùng
Giảm
tổng cầu
Sản lượng
giảm,giá giảm
Thất nghiệp
tăng
Lãi suất thấp
Lãi suất cao
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Vậy, khi tỉ lệ lạm phát tăng 1%thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng 1% thì lãi suất
danh nghĩa được gọi là hiệu ứng Fisher.
Sự ảnh hưởng của lãi suất đến tỷ lệ lạm phát thông qua cơ chế lan
truyền tiền tệ
Lãi suất là một công cụ quan trong bậc nhất của chính sách tiền tệ. Nó được
áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt
chẽ và mềm dẻo tùy theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung
ứng vốn. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ
trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát ngân hàng nhà
nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Vì thế dân chúng và các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào
ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như
vậy, cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn đến giá giảm.
Nhưng theo hiệu ứng Fisher chúng ta biết rằng:
Tỷ lệ suất danh nghĩa = tỷ lệ lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát
Do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc
tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực
dương ) qua đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm
lại, khi lãi suất tiền gửi cao thì đồng thời thúc đẩy nhiều người gửi tiền vào ngân hàng
thương mại (NHTM) và ngược lại NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh
doanh có lãi sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền cho vay cao thì sẽ
tạo tâm lý của người đi vay vì kinh doanh bằng vốn vay ngân hàng không có lợi
nhuận. Như vậy dùng lãi suất có thể làm tăng hoặc giảm lượng tín dụng của NHTM
để đạt được mục đích chính sách tiền tệ làm ổn định lạm phát. Do đặc tính của nền
kinh tế Việt Nam chúng ta không thể dùng chính sách lãi suất với tỉ lệ lãi suất cao để
giảm tỉ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước với lãi
suất nước ngoài. Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ phổ điển ( Phổ thông
và cổ điển) do đó các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất
quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn và cung cấp vốn.
Tác động gián tiếp của lạm phát đối với lãi suất thông qua lĩnh vực tín
dụng và tiền tệ
Lạm phát xảy ra đã làm cho lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng sụt giảm
với tâm lý đồng tiền mất giá trị thực của nó dân chúng muốn nắm giữ những tài sản
có giá trị ổn định hơn như ngoại tệ, vàng, BĐS…. mà không phải là tiền gửi ngân
hàng. Lượng tiền gửi giảm khả năng cho vay của NHTM lúc này các NHTM điều
chỉnh lãi suất sao cho phù hợp với lạm phát để thu hút người gửi tiền, Ngân hàng đã
gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Nhưng lãi suất của hệ thống ngân hàng được
chỉ đạo bởi NHNN do vậy mức lãi suất thực này phải ổn định. Hơn nữa, Lãi suất thực
= lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát. Mà tỉ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực ổn
định thì phải tăng lãi suất danh nghĩa. Sự quan hệ tỉ lệ thuận này khiến cho lãi suất
danh nghĩa tăng.
5
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn ổn định nữa. Chức năng kinh
doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn như lúc ban đầu khi chưa có lạm phát xảy ra, vì
lạm phát xảy ra chẳng ai muốn nắm giữ một lượng tiền mặt. Do dó, lạm phát đã làm
quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp lại.
III. Thưc trạng
1. Tình hình lạm phát và lãi suất ở Việt Nam 2000-2011
A. Lạm Phát
1. Ảnh hưởng từ thị trường kinh tế thế giới.
Thứ nhất, Giá dầu và nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia
tăng trong những năm gần đây, đặc biệt là nhóm các nước mới nổi ở khu vực Châu Á,
nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với
những bất ổn với xung đột chính trị tại các nước Trung Đông là nguyên nhân đẩy giá dầu
lên cao chưa từng có trong lịch sử 145USD/ thùng trong tháng 3 năm 2008, đồng thời giá
các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng.
Như vây, giá dầu đã tăng 72% , sắt thép tăng 114%, Phân bón tăng 59.6%, khí lỏng tăng
95%. So với những năm trước đó. Điều này đã ảnh hưởng đến chi phí sản xuất đầu vào
của doanh nghiệp. Đây là hiện tượng lạm phát do chi phí đẩy.
Thứ hai, Giá lương thực, thực phẩm liên tục tăng : xuất phát từ quá trình biến
đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh diễn ra liên tục cùng với những năm tăng
trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm mà thế giới công nghiệp hóa mạnh.
Khiến diện tích đất trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả, đã làm sản lượng của
lương thực thực phẩm giảm mạnh. Tình trạng khan hiếm lương thực càng tăng.
Thứ ba, Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cuối năm 2008 diễn ra rộng khắp
trên phạm vi toàn thế giới đã đưa ra một hiện tượng là lượng tiền đồng loạt được các
quốc gia tăng lên đưa ra thị trường toàn cầu. Trước việc dầu và giá lương thực – thực
phẩm liên tục tăng đã đưa ra một cú sốc Cung rất lớn làm lạm phát toàn cầu tăng lên.
Ứng phó với tình hình này các NHNN của các nước phải tăng lãi suất để kiềm chế
lạm phát. Cụ thể:
Nhật Bản tăng 1 lần từ 0.25%-0.5% /năm.
EU tăng 2 lần từ 3.5%- 3.75%-4.0% /năm.
Anh tăng 3 lần từ 5.0%-5.5% /năm.
Trung Quốc tăng 6 lần từ 6.12%-7.47% /năm.
Việc các nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất
cùng với việc tăng giá dầu và giá lương thực- thực phẩm tăng cao chính là nguyên
nhân cơ bản của sự suy thoái kinh tế toàn cầu được bắt đầu từ tháng 3 năm 2008. Mà
biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn của Mỹ từ đầu tháng 7 năm 2007.
Trước cảnh lạm phát tăng cao như vậy NHNN của các nước đã bơm ra thị trường của
nước mình một lượng tiền lớn nhằm cứu vãn nền kinh tế của chính mình. Cụ thể,
Mỹ đưa ra nền kinh tế trên 2300 tỷ USD để cứu hệ thống ngân hàng
Châu Âu cũng đưa ra hơn hàng nghìn tỷ EUR để cứu hệ thống NH
6
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Nhât Bản, Anh cũng đưa ra một lượng tiền lớn.
Việc đưa ra thị trường một lượng tiền tệ lớn và đồng thời thực hiện cắt giảm
lãi suất từ tháng 8/2007 như Mỹ, Anh, Canada… Đưa một lượng tiền lớn ra thị
trường kết hợp với việc điều chỉnh lãi suất của các nước đã làm đẩy lạm phát toàn cầu
tiếp tục tăng cao.
2. Ảnh hưởng từ trong nền kinh tế của Việt Nam tác động đến lạm phát
o Chi phí sản xuất tăng cao. Đặc biệt là từ đầu năm 2000 đến cuối
năm 2011 giá xăng dầu điều chỉnh gần 30 lần giá từ 4,800 VNĐ đến 21,300
VNĐ. Đồng hành với giá xăng là giá điện, giá than… và các giá của những
vật liệu từ sự ảnh hưởng của giá xăng,dầu ,điện,khí đốt cũng tăng lên.
o Giá lương thực- thực phẩm tăng cao: Biến đổi khí hậu toàn cầu
trên thế giới đã tác động trực tiếp đến Việt Nam những hậu quả nặng nề.
Nhưng cơn bão càn quét miền trung, cùng với bệnh dịch do sâu bệnh đã phá
hoại mùa màng và giảm năng suất của lương thực- thực phẩm. Bệnh dich,
cúm gà, lợn tai xanh, long móng lở mồm ở gia súc…nạn ốc mưu vàng hại lúa,
đợt nắng hạn kéo dài, rét đậm rét hại kéo dài khiến sụt giảm sản lượng lương
thực- thực phẩm. Khiến cho giá của thị trường biến động mạnh. Cụ thể, Thịt
lợn giá tăng 250%-300%, thịt bò tăng 200%-225%. Gạo tăng 250% từ năm
2000 đến 2011.
o Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ liên tục được mở rộng từ
đầu năm 2001-2007 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong vòng mấy năm
gần đây, GDP Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức cao trên 8% và mục tiêu
giai đoạn này đối với chính phủ Việt Nam là tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu
được đề ra với nền kinh tế VN do vậy các chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng
thực hiện nhiều năm liền xong lại không quản lý chặt chẽ. Và đây cũng là lý
do tại sao lãi suất của các ngân hàng VN liên tục giảm, các ngân hàng đua
nhau mở rộng tín dụng, điều kiện cho vay trở nên dễ dàng và thị trường được
đón nhận thêm nhiều NHTM ra mắt. Do đó đã phần nào bơm một lượng tiền
vào nền kinh tế. Điều này đã gián tiếp gia tăng sưc ép cho việc tăng lạm phát
trong thời gian ấy. Dẫn đến sang năm 2008 nền kinh tế VN đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Nhà nước đã bắt đầu điều chỉnh mức lãi suất để
chống lại lạm phát nhưng vẫn không có tác dụng kết quả là mức lạm phát năm
2008 là 8.1%. Không dừng lại ở đó lạm phát đã viếng thăm VN, vào năm
2009-2010 khủng hoảng kinh tế đã bắt đầu xảy ra ở VN. Năm 2010 đạt 2 con
số 11.75% phá vỡ kỉ lục 2008 là 8.1% cao nhất trong thập kỉ vừa qua. Nếu
tính theo tổng cục thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 so với 2009 tăng
9.2%. Không dừng lại, mức lạm phát tiếp tục phi mã trong năm 2011 lên mức
18.58%. So với năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2011 tăng 18,58%.
o Luồng vốn từ nước ngoài vào VN gia tăng nhanh: Bắt đầu từ cuối
năm 2007 khi VN chính thức là thành viên của tổ chức WTO cùng với những
7
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
chính sách mới nhằm thúc đẩy mở cửa thị trường.Nên thị trường VN đã được
các nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn khá lớn vào. Đứng trước thực trạng đó,
NHNN Việt Nam đã phải cung ứng một lượng tiền VNĐ khá lớn để mua
ngoại tệ đó. Nhằm mục đích ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu.
Làm tăng phương tiện thanh toán, lãi suất tăng và lạm phát lại gia tăng.
3. Thực trạng và nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Với số liệu tỉ lệ lạm phát của các năm 2000-2011.
Hình 1: Tốc độ lạm phát ở Việt Nam
Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam.
8
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tỉ lệ
(%)
-0.5 -0.3 2.9 3.0 2.7 5.3 4.1 8.5 8.4 6.88
11.7
5
18.58
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Sự tăng lên liên tục của tổng cung và tổng cầu trong dài hạn tạo nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, đồng thời đã kéo theo sự tăng lên không ngừng trong mức giá. Mặt khác
do năng lực sản xuất (tổng cung) tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng cầu nên đã đẩy
mức giá tăng lên cao hơn đáng kể với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Có thể thể hiện xu hướng
này bằng đồ thị dưới đây:
Hình 2: Mô tả sự dịch chuyển tổng cung và tổng cầu trong dài hạn
P AS1 AS2 AS3
P2 1 2 E2
P3 E3
P1 E1 3 AD2
AD1
2000 2010 GDP
Trong dài hạn, đường tổng cung dịch chuyển sang phải khi năng lực sản xuất tăng lên
nhờ các yếu tố nguồn vốn đầu vào tăng. Ở Việt Nam, các nguồn lực này tăng rất nhanh, đặc biệt
là nguồn vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (năm 2000 với 391 dự án, tổng số vốn
đăng kí là 2.84 triệu USD và số vốn thực hiện 2.41 triệu USD- sang đến năm 2008 mặc dù khủng
hoảng kinh tế thế giới nhưng nguồn vốn FDI vào Việt Nam lại đạt mức kỉ lục 64 tỷ USD, Năm
2009 tổng vốn FDI vào Việt Nam chỉ đạt 21.48 tỷ USD, vốn giả ngân đạt 10 tỷ USD, chỉ 30% so
với năm 2008; bước sang năm 2010 tình hình được cải thiện hơn tổng số vốn FDI được giải ngân
đạt 11 tỷ USD tăng 10% so với năm 2009.
Bảng 2: Top 5 ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010.
Thứ tự Ngành
Số dự
án cấp
mới
Vốn đăng ký
cấp mới
(triệu USD)
Vốn đăng ký
tăng thêm
(triệu USD)
Vốn đăng ky
cấp mới và
tăng thêm
(Triệu USD)
1 KD Bất động sản 27 6.710,6 132,1 6.842,7
2 CN chế biến, chế tạo 385 4.032,2 1.048,9 5.081,2
3
Sản xuất,phân phối điện,
khí, nước, điều hòa
6 2.942,9 9,8 2.952,6
4 Xây dựng 141 1.707,8 26,8 1.734,6
9
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
5 Vận tải kho bãi 16 824,1 55 879,1
(Nguồn: MPI &GSO)
Tính đến 20/11/2011, có 919 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt
9,91 tỷ USD và có 324 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư, với tổng vốn đăng ký tăng
thêm gần 2,78 tỷ USD, tăng 50% so với cùng kỳ năm 2010.Điểm đáng chú ý, công
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước
ngoài, với 382 dự án đầu tư đăng ký mới có tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 6,24 tỷ
USD, chiếm 49,1% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 11 tháng.Đứng thứ hai là lĩnh vực sản
xuất phân phối điện với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,53 tỷ USD;
thứ ba là lĩnh vực xây dựng với 119 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới
và tăng thêm khoảng 1,19 tỷ USD.tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với tổng
số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 464,13 triệu USD, chiếm 3,7%.
Do năng lực sản xuất của nước ta tăng chậm hơn tốc độ tăng giá của tổng cầu
(hay nói cách khác là cung thay đổi không kịp so với cầu) đã đẩy mức giá tăng nhanh hơn
đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điều này thể hiện ở trên biểu đồ hình 2
đã nêu Nếu năng lực sản xuất của nước ta tăng nhanh hơn mức tăng thực tế trong những
năm qua thì đường tổng cung AS1 (Tổng cung thực tế năm 2000) chuyển dịch mạnh hơn
sang bên phải với vị trí AS3 (giả sử đó là năm 2010) thay vì vị trí AS2 (thực tế của năm
2010). Tai đó điểm cân bằng E3 (Giao của AD2 và AS3) với mức giá P3 < P2 mức giá
thực tế của nước ta năm 2010.
Xét đến tại sao nước ta lại có thực trạng như vậy, nhân tố nào quyết định năng lực
sản xuất, năng suất lao động. Có phải các nhân tố đầu vào : Vốn, lao động,tài nguyên hay
trình độ khoa học- kỹ thuật. Có lẽ trong đó trình độ khoa học – công nghệ đóng vai trò
quyết định.
Để lý giải điều trên khi mà muốn tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua:
Do trình độ khoa học – ki thuật – công nghệ của nước ta còn nhiều non yếu và lạc hậu.
Phần lớn là công cụ sản xuất thô sơ, chưa được cải tiến chỉ khoảng 30% đạt tiêu chuẩn
quốc tế. nên năng suất lao động kém. Làm sản lượng còn ít chưa đáp ứng nhu cầu sử
dụng. Làm tổng cầu thiếu hụt và đẩy mức giá lên cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Như vậy lạm phát của nước ta trong những năm gần đây tăng đột biến không chỉ
là hệ quả tích lũy của quá trình tăng trưởng dài hạn mà còn thêm cả kết quả của năng lực
sản xuất yếu kém vì trình độ khoa học kĩ thuật có hạn vẫn chưa được cải tiến trong nhiều
năm qua.
Một nguyên nhân nưa đã như nói ở trên đó là: Một lượng tiền khá lớn đã chảy vào
nước ta do chính sách thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Với lượng ngoại tệ lớn như
vậy NHNN đã phải đưa ra nền kinh tế lượng tiền mặt đưa vào lưu thông. Cung tiền tăng,
10
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
đã tác động đến các hoạt động đầu tư, tín dụng, tiêu dùng của dân chúng cũng chính vì đó
mà tăng theo. Cũng là nguyên nhân của lạm phát.
4. Bảy giải pháp kiềm chế lạm phát chủ yếu tại Việt Nam
Chính phủ đã chỉ đạo và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
• Một là, thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt:
Do cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng liên tục tăng qua các năm là
nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát. Nhận biết được điều đó, chính phủ chủ trương
chỉ đạo NHNN kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng
ngay từ đầu năm.
Thông qua việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTM và tăng lãi suất cho vay sẽ
làm cho đầu tư giảm qua đó làm giảm tổng cầu từ (Y2->Y1) và làm giảm tỷ lệ lạm phát.
Nhưng dù có thắt chặt thì vẫn phải đảm bảo tính thanh khoản của hoạt động kinh
tế và của các ngân hàng, tổ chức tài chính,tổ chức tín dụng để việc sản xuất hàng hóa và
nhập khẩu không bị hạn chế.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách nhà nước, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm
thâm hụt ngân sách
Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước chiếm
khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Năm 2010, ước tính các dự án FDI đã giải ngân được 11
tỷ USD, tăng 10% so với năm 2009, trong đó giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) ước tính đạt 8 tỷ USD. Vốn FDI chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm
2010 cao hơn 2009 ( chiếm 25.5%). Tính đến 20/10/2011, thu hút vốn FDI mới chỉ đạt
11.273,9 triệu USD, bằng 78,2% cùng kỳ năm 2010. Trong đó: vốn đăng ký là 8.876,2
triệu USD của 861 dự án được cấp phép mới (giảm 29,9% về vốn và giảm 19,3% về số
dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 2.397,7 triệu USD của 264 lượt
dự án được cấp phép từ các năm trước. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về
cầu, giảm nhập siêu, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Như vậy bằng cách giảm đi chi
tiêu của chính phủ, Chinh phủ đã tác động trực tiếp đến tổng cầu. Làm tổng cầu giảm kéo
theo lạm phát giảm.
i LM1
E2 LM2
P2
P1 E1
IS
11
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
0
Y2 Y1 Y
Hình 3: CSTT Thắt chặt
Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp làm đường LM dịch chuyển từ
LM1 đến LM2. Lúc này điểm cân bằng mới của nền kinh tế sẽ là E2 thay cho vị trí của
E1 dẫn theo sự sụt giảm về thu nhập Y từ Y1 -> Y2. Sự sụt giảm của tổng cầu làm cho
mức giá cân bằng của kinh tế giảm xuống. Đầu năm 2011 NHNN đã có công văn chỉ đạo về
tín dụng cho các NHTM. Với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa 20%, tỷ trọng tín dụng phi sản
xuất đến 30/6 là 22%, 31/12 là 16%. Thắt chặt tài chính tiền tệ đã kiềm chế lạm phát.
Ba là, tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh
hậu quả của thiên tai, dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực thực phẩm.
Văn bản của chính phủ Số 12/2011/QĐ-TTG đã hỗ trợ phát triển công nghiệp, Về
tài chính: “Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được hưởng ưu đãi về thuế xuất
nhập khẩu theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.” và
“Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp công nghệ cao
được xem xét, cho hưởng các chính sách về thuế theo theo quy định của pháp luật về
công nghệ cao”
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã
là thành viên đầy đủ của tổ chức WTO , Đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng nhanh, thị
trường xuất khẩu được mở rộng, Vì vậy Phát triển sản xuất là giải phát gốc, tạo hiệu quả
nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế
lạm phát, giảm nhập siêu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung – cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Cân đối cung – cầu về hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu
dùng là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ, tích trữ.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng.Nhập siêu đã và đang
tăng trong năm gần đây, điều đó đã đe dọa đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các
biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sơ đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu. Làm việc này, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt nhiều giải pháp: NHNN đảm bảo
đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách
tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể: Tăng cường hỗ trợ công tác xúc
tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu ; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến
hoạt động xuất khẩu để làm giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và
các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả
việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng ko thiết yếu .
12
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Năm là , triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng:
Hiện nay , tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở
các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy,
chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh
nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá.
Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để
đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: Xăng
dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm….; Ngăn chặn tình trạng
buôn lậu qua biên giới , đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản .
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh và xã hội
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là
vùng nghèo, hộ nghèo , vùng bị thiên tai,người lao động có thu nhập thấp , chính phủ đã
chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. Từ tháng năm năm 2010 thủ tướng
chính phủ quyết định tăng mức lương cơ bản lên 730.000 vnđ.
B. Lãi suất.
Thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội với lãi suất âm , chính sách lãi suất hoàn
toàn cứng nhắc theo kiểu hành chính , phổ biến là lãi suất do bao cấp tín dụng .Bước vào
nhưng năm đầu của thời kỳ đổi mới Việt Nam đã đổi mới chính sách lãi suất thả nổi , trần
lãi suất , lãi suất chiết khấu… Nhưng sự đổi mới này còn mang tính thụ động và việc
điều hành trên thị trường tiền tệ còn bấp bênh.
Những năm đầu giai đoạn 2000-2011 chính sách lãi suất đã từng bước đổi mới
phù hợp với cơ chế thị trường bước đầu lãi suất USD đã được tự do hóa vào tháng 6 năm
2001 sau đó đến lãi suất đồng Việt Nam được tự do hóa (6/2002). Mặc dù chính sách lãi
suất được coi là tự do hóa nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Lãi suất
cơ bản được áp dụng từ 8/2000 và được xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi
suất cho vay của hơn 30 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. NHNN quyết định lãi
suất cho vạy của các NHTM không phải tuân theo mức giá trần và đưa ra lãi suất thực tế
cùng biên độ dao động 0.5%-1.0% vào năm 2001. NHTM linh động giải quyết từng
trường hợp cho vay cụ thể .
Lãi suất cho vay = Lãi suất thực tế + Biên độ dao động
Giai đoạn 2001 – 2007 dường như mức lãi suất cơ bản đứng yên ( chỉ dao động
quanh 7.5% - 8.5% ) mãi cho đến năm 2008 mức lãi suất mới được điều chỉnh từ 8.5%
lên 8.75% , đặc biệt trong lần điều chỉnh ngày 16/5/2008 lên 12% lãi suất cơ bản được trả
13
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
lại cho đúng chức năng của nó thành một cơ sơ để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất
cho vay của NHTM thay vì mức lãi suất cho vay rất cứng nhắc và mờ nhạt trước đó
Bảng : Lãi suất cơ bản 2000- 2011
Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
9%/năm 2868/QĐ-NHNN 29/11/2010 01/12/2010
9%/năm 2619/QĐNHNN 05/11/2010" 05/11/2010
8%/năm 2561/QĐ-NHNN 27/10/2010 01/11/2010
8%/năm 2281/QĐ-NHNN 27/9/2010 01/10/2010
8%/năm 2024/QĐ-NHNN 25/8/2010 01/09/2010
8%/năm 1819/QĐ-NHNN 27/7/2010 01/08/2010
8%/năm 1565/QĐ-NHNN 24/6/2010 01/07/2010
8%/năm 1311/QĐ-NHNN 31/5/2010 01/06/2010
8%/năm 1011/QĐ-NHNN 27/4/2010 01/05/2010
8%/năm 618/QĐ-NHNN 25/03/2010 01/04/2010
8%/năm 353/QĐ-NHNN 25/2/2010 01/03/2010
8%/năm 134/QĐ-NHNN 25/01/2010 01/02/2010
8%/năm 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009
7%/năm 2459/QĐ-NHNN 28/10/2009 01/11/2009
7%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
14
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
7%/năm 2024/QĐ-NHNN 26/8/2009 01/09/2009
7%/năm 1811/QĐ-NHNN 30/7/2009 01/08/2009
7%/năm 1539/QĐ-NHNN 30/6/2009 01/07/2009
7%/năm 1250/QĐ-NHNN 22/5/2009 01/06/2009
7%/năm 1015/QĐ-NHNN 29/4/2009 01/05/2009
7%/năm 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009
7%/năm 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009
7,0%/năm 172/QĐ-NHNN 23/1/2009 01/02/2009
8.5%/năm 3161/QĐ-NHNN 19/12/2008 22/12/2008
10,%/năm 2948/QĐ-NHNN 03/12/2008 05/12/2008
11%/năm 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008
12%/năm 2559/QĐ-NHNN 3/11/2008 05/11/2008
13.%/năm 2316/QĐ-NHNN 20/10/2008 21/10/2008
14%/năm 2131/QĐ-NHNN 25/09/2008 01/10/2008
14%/năm 1906/QĐ-NHNN 29/8/2008 01/09/2008
14%/năm 1434/QĐ-NHNN 26/6/2008 01/07/2008
14%/năm 1317/QĐ-NHNN 10/6/2008 11/06/2008
12%/năm 1257/QĐ-NHNN 30/5/2008 01/06/2008
15
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
12%/năm 1099/QĐ-NHNN 16/5/2008 19/05/2008
8.75%/năm 978/QĐ-NHNN 29/4/2008 01/05/2008
8.75%/năm 689/QĐ-NHNN 31/03/2008 01/04/2008
8.75%/năm 479/QĐ-NHNN 29/2/2008 01/03/2008
8.75%/năm 305/QĐ-NHNN 30/1/2008 01/02/2008
8.25%/năm 3096/QĐ-NHNN 01/01/2008
8.25%/năm 2881/QĐ-NHNN 01/12/2007
8,25%/năm 2538/QĐ-NHNN 31/10/2007 01/11/2007
8,25%/năm 2265/QĐ-NHNN 28/9/2007 01/10/2007
8,25%/năm 2018/QĐ-NHNN 30/8/2007 01/09/2007
8,25%/năm 1787/QĐ-NHNN 31/7/2007 01/08/2007
8,25%/năm 1546/QĐ-NHNN 29/06/2007 01/07/2007
8,25%/năm 1143/QĐ-NHNN 29/5/2007 01/06/2007
8.25%/năm 908/QĐ-NHNN 27/04/2007 01/05/2007
8,25%/năm 632/QĐ-NHNN 29/03/2007 01/04/2007
8,25%/năm 424/QĐ-NHNN 27/02/2007 01/03/2007
8,25%/năm 298/QĐ-NHNN 31/1/2007 01/02/2007
8,25%/năm 2517/QĐ-NHNN 29/12/2006 01/01/2007
16
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
8,25%/năm 2308/QĐ-NHNN 30/11/2006 01/12/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
2045/QĐ-NHNN 30/10/2006 01/11/2006
8,25%/năm 1887/QĐ-NHNN 29/09/2006 01/10/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
1714/QĐ-NHNN 31/08/2006 01/09/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
1522/QĐ-NHNN 31/7/2006 01/08/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
1234/QĐ-NHNN 30/06/2006 01/07/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
1044/QĐ-NHNN 31/05/2006 01/06/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
854/QĐ-NHNN 28/4/2006 01/05/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
581/QĐ-NHNN 30/3/2006 01/04/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
311/QĐ-NHNN 28/2/2006 01/03/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
140/QĐ-NHNN 26/01/2006 01/02/2006
0,6875%/tháng
(8,25%/năm)
1894/QĐ-NHNN 30/12/2005 01/01/2006
8,25%/năm 1746/QĐ-NHNN 01/12/2005 01/12/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
1556/QĐ-NHNN 28/10/2005 01/11/2005
17
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
0,65%/tháng
(7,8%/năm)
1426/QĐ-NHNN 30/9/2005 01/10/2005
0,65%/tháng
(7,8%/năm)
1246/QĐ-NHNN 26/8/2005 01/09/2005
0,65%/tháng
(7,8%/năm)
1103/QĐ-NHNN 28/7/2005 01/08/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
936/QĐ-NHNN 30/6/2005 01/07/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
781/QĐ-NHNN 31/5/2005 01/06/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
567/QĐ-NHNN 29/4/2005 01/05/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
315/QĐ-NHNN 25/03/2005 01/04/2005
0,65%/tháng
(7,8%/năm)
211/QĐ-NHNN 28/2/2005 01/03/2005
0,65%/tháng
(7,80%/năm)
93/QĐ-NHNN 27/1/2005 01/02/2005
0,625%/tháng
(7,50%/năm)
1716/QĐ-NHNN 31/12/2004 01/01/2005
0,625%/tháng
(7,50%/năm)
1522/QĐ-NHNN 30/11/2004 01/12/2004
0,625%/tháng
(7,50%/năm)
1398/QĐ-NHNN 29/10/2004 01/11/2004
0,625%/tháng
(7,5%/năm)
1254/QĐ-NHNN 30/9/2004 01/10/2004
18
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
0,625%/tháng
(7,5%/năm)
1079/QĐ-NHNN 31/8/2004 01/09/2004
0,625%/tháng
(7,50%/năm)
968/QĐ-NHNN 29/7/2004 01/08/2004
0,625%/tháng
(7,5%/năm)
797/QĐ-NHNN 29/6/2004 01/07/2004
0,625%/tháng
(7,5%/năm)
658/QĐ-NHNN 28/05/2004 01/06/2004
0,625%/tháng
(7,5%/năm)
2210/QĐ-NHNN 27/02/2004 01/03/2004
7,50%/năm 285/2003/QĐ-NHNN 31/03/2003 01/04/2003
7,44%/năm 792/2002/QĐ-NHNN 26/07/2002 01/08/2002
7,20%/năm 1247/2001/QĐ-NHNN
28/09/2001
01/10/2001
7,80%/năm 557/2001/QĐ-NHNN 26/04/2001 01/05/2001
8,40%/năm 237/2001/QĐ-NHNN 28/03/2001 01/04/2001
8,70%/năm 154/2001/QĐ-NHNN 27/02/2001 01/03/2001
9,00%/năm 242/2000/QĐ-NHNN 02/08/2000 05/08/2000
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam )
Bước sang năm 2008 khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ và dần lan
rộng ra toàn cầu thì NHNN cũng có những chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với tình
hình khủng hoảng đó.Cuộc đua lãi xuất bắt đầu từ tháng 5 và đạt đỉnh điểm vào tháng 6
khi lãi suất cơ bản treo ở mức 14% cao nhất trong vòng một thập kỷ qua đẩy mức huy
động tiền trong dân lên tới gần 20%, lúc này hoạt động của NHTM rất cầm trừng và nhỏ
giọt đợi chờ lãi suất tiếp tục tăng, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp
cần nguồn vốn.
19
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Sang đến năm 2009 – 2010 khi mà NHNN đã hết tình trạng “ sốc” trước cuộc
khủng hoảng kinh tế và đây cũng là lúc mà khủng hoảng kinh tế tác động trực tiếp đến
nền kinh tế VN. Lúc này lãi suất cơ bản nước ta khá ổn định rơi vào 7% - 8% , mãi đến
cuối năm 2010 đứng trước nguy cơ lạm phát quá mức dự tính ( lạm phát phi mã) NHNN
đã quyết định nâng mức lãi suất cơ bản lên 9% và duy trì tới nay nhằm hạn chế cung tiền,
kiềm chế lạm phát.
20
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Hình 4: Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất
Tỷ lệ lãi suất thực dương với lạm phát giai đoạn 1992 - 2007
Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc chốt trần
lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp hội các Ngân hàng có
họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với mức
10,5%/năm (dưới 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất
huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức 16
-18%/năm, lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-6,5%/năm.
Đến ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động,
để thị trường tự điều tiết vì thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi suất
trần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, một vài
NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy động lên cao hơn mức trần 12%. Việc đẩy
lãi suất huy động lên trên 12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút được nhiều
vốn vì họ vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.
Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá mức thì có
thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với lãi suất quá
cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi nhuận lớn cho các ngân
hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là quá lớn 6-7%, trước
đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã
tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có mấy hoạt động
21
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh
nghiệp.
Sự tác động của lãi suất thông qua cơ chế lan truyền tiền tệ.
Quan sát biểu đồ dưới đây chúng ta sẽ thấy được mối tương quan nay.
Hình 5: Sự dịch chuyển đường LM
r LM1(M1/P1)
r1 LM2 (M2/P2)
r2
IS
0
P Y1 Y2 Y
P2
P1
AD2
AD1
0 Y1 Y2 Y
Ở mức lãi suất r1, thì đường LM1 cắt IS tại điểm cân bằng thứ nhất. Tại đó xác định được
mức thu nhập Y1 và tương ứng với đường tổng cầu AD1 với mức giá chung của thị trường là P1.
Giả định rằng đây được coi là gốc do đó tỷ lệ lạm phát bằng 0.
22
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
Khi chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua việc cắt giảm lãi suất để
kích thích đầu tư thì đường LM1 sẽ dịch chuyển đến vị trí mới là đường LM2 cắt đường IS tại
điểm cân bằng thứ hai với mức lãi suất r2 và thu nhập Y2.
Tương úng với sự dịch chuyển của đường LM, đường tổng cầu từ AD1 sẽ dịch chuyển
đến AD2 kéo theo mức giá cân bằng mới P2. Vì P2>P1 nên có thể kết luận đây là sự tăng lên của
mức giá chung và nền kinh tế đã rơi vào tình trạng lạm phát. Như vây, đi cùng với việc cắt giảm
lãi suất trong vấn đề thực hiện chính sách tiền tệ của chính phủ vô hình đã gây nên sức ép tăng
giá và gây ra lạm phát.
Ngược lại nếu muốn kiềm chế lạm phát thì chính phủ có thể dùng chính sách tiền tệ thắt chặt,
tăng lãi suất cho vay làm LM2 dịch chuyển đến LM1.Kéo theo là sự dịch chuyển AD2 về AD1
qua đó giảm mức giá cân bằng của nền kinh tế và giảm lạm phát.
Kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.
Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp tương quan tỷ lệ nghịch tới xu hướng và động
thái lạm phát của một nước. Lãi suất thấp, giá trị của đồng tiền càng rẻ do vậy kích thích đầu tư
và tiêu dùng, Như vậy, càng tăng lạm phát tiền tệ và lạm phát cơ cấu. Do đó khi có lạm phát xảy
ra chính phủ nào đã có những chính sách để đề cao bản tệ. Mà tiêu chuẩn là chính sách lãi suất
thực dương (lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất tiền gửi,mà lãi suất tiền gửi phải lớn hơn mức
lạm phát) Việc tăng lãi suất còn được coi là một công cụ bảo vệ tỷ giá hối đoái trước sự biến
động nhanh về biến động của luồng vốn trên thị trường quốc tế và trước những thâm hụt cán cân
thanh toán quốc tế. Nâng lãi suất để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư để tăng tiết kiệm trong
đầu tư và tiêu dùng, hạn chế tích trữ - đầu cơ, làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản
vay, làm tăng cung và giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu. Mức lãi suất càng cao hơn mức lạm
phát thì tức thời nó tác động đến việc giảm lạm phát càng thấy rõ rệt.
Tuy nhiên, lãi suất cao quá sẽ thu hẹp đầu tư xã hội dẫn đến tăng đình trệ và suy thoái,
thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao ở đầu vào sẽ được các doanh nghiệp
đưa nó vào chi phí và tính vào giá hàng hóa và dịch vụ ở đầu ra, từ đó làm tăng mức giá của xã
hội chung, tức là tăng lạm phát phí đẩy. Hơn nữa, nguyên tắc của thị trường là phải sinh lời qua
các hoạt động đầu tư và tín dụng, muốn không gây áp lực cho lạm phát tương lai bởi gánh nặng
nợ lãi huy động cho ngân hàng và ngân sách nhà nước. Đặc biệt, nếu lãi suất cao còn làm tăng
lượng cung tiền từ ngoại hối. Tăng lạm phát tiền tệ ngoại nhập. Điều này càng làm nhức nhối
trong bối cảnh tự do hóa tài chính cao theo cam kết hội nhập trong các tổ chức tài chính quốc tế
(Vì nếu lãi suất cao làm cho lượng tiền ngoại tệ đổ vào vì chênh lệch lãi suất so với thị trường lãi
suất khu vực và quốc tế.)
Vì thế, mức lãi suất tuân theo quy tắc của nó. Quy tắc bất phương trình : L1<L2<L3<L4,
trong đó: L1 là mức lạm phát, L2: lãi tiền gửi, L3: lãi cho vay, L4: lợi nhuận bình quân xã hội
trong cùng thời hạn lãi suất. Nhiệm vụ của nhà nước là phải tìm ra mức “trần” lãi suất hoặc sử
dụng “lãi suất cơ bản” sao cho phu hợp với điều kiện cụ thể và mục tiêu vĩ mô kinh tế- xã hội.
Đồng thời cũng phải luôn tính đến mặt trái luôn song hành. Việc nâng cao hay hạ lãi suất nếu
không sẽ vướng phải vòng xoáy mới của lạm phát theo mức độ phản ứng của các chủ thể kinh tế
23
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
2. Đánh giá tác động của việc sử dụng công cụ lãi suất vào kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
Cả trong thực tế và lý thuyết đã chứng minh, những biến động của lãi suất có tác động to
lớn đến hoạt động sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Khi lãi suất thực tăng lên, người tiêu dùng
tăng tiền gửi tiết kiệm để tiêu dùng trong tương lai. Nhu cầu tiêu dùng cho nhà cửa và các vật
dụng có tính bền lâu giảm xuống. Đối với doanh nghiệp, lãi suất tăng làm cho chi phí tăng, điều
này yêu cầu các doanh nghiệp cân nhắc khi sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn, dự án đầu tư với
vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp có thể thực hiện với mức lãi suất cao này sẽ giảm
xuống vì sự khả thi của dự án. Theo đó, chi phí cho việc nắm giữ vốn lưu động tăng làm giảm
đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
Nếu như giai đoạn 2000-2006 mục tiêu của chính phủ là tăng trưởng kinh tế. Chính sách
tài khóa được nới lỏng. Cung tiền tăng 25% trong khi đó lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ không
đổi. Từ năm 2007 chỉ số lãi suất có chiều biến động ( Xem bảng lãi suất cơ bản) và được điều
chỉnh nhiều lần vào năm 2008.
Thực tế là, từ năm 2007- 2011 lãi suất thực tế khá cao. Lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng
về cung – cầu vốn vay. Sau đây là những gì mà tác động của những diễn biến lãi suất tới diễn
biến tình hình lạm phát ở Việt Nam.
Đối với cá nhân : Lãi suất thực có tác động cùng chiều với hành vi tiết kiệm và ngược
chiều với hành vi tiêu dùng của các cá nhân. Như vậy, nếu các yếu tố là không đổi ảnh hưởng
của lãi suất tới cá nhân là lãi suất tiết kiệm tăng sẽ khuyến khích tiết kiệm hơn tiêu dùng. Tổng
cầu có xu hướng giảm làm kiềm chế lạm phát.
Đối với doanh nghiệp: Diễn biến của thị trường có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Lãi suất cao đòi hỏi doanh nghiệp phải cơ cấu lại danh mục đầu tư, cân nhắc sự
lựa chọn các dự án mang lại nhuận từ vốn vay. Điều đó góp phần việc đầu tư tràn lan thiếu hiệu
quả như hiện nay. Chỉ số ICOR luôn ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh. Năm 2007 dừng ở
mức 5-6 nhưng sang năm 2010 chỉ số đã tăng lên 8. Xu hướng năm 2011 chỉ số ICOR giảm
xuống. Do chính sách điều tiết của chính phủ đã tác động đến đầu tư.
Đối với ngân hàng thương mại (NHTM): Lãi suất tăng nằm ngoài ý muốn của NHTM
nhưng lạm phát cao đang làm khác hàng thiệt thòi khi khách hàng gửi tiết kiệm. và duy trì được
vốn huy động ngân hàng đã phải tăng lãi suất để giữ khách. Thật vậy, với lãi suất huy động mà
NHNN công bố 14%/năm với VNĐ, 2% USD. Nhưng các ngân hàng vẫn huy động với lãi suất
cao hơn là 19% nhằm thu hút một lượng vốn của dân cư. Sự thỏa thuận lãi suất của các ngân
hàng với khách hàng với lượng tiền gửi lớn hay nhỏ khác nhau.
Việc điều chỉnh lãi suất này là cần thiết. xong còn chậm chạp và chưa dứt khoát. Nó bị
thụ động ngay sau khi gặp hậu quả mà không phải là chủ động dự báo trước. Không có nhưng
biện pháp ngăn chặn từ trước. Việc đưa ra việc điều chỉnh là dựa trên số liệu thống kê của tháng
hiện tại. chứ không phải là một dư báo của tháng sau. Chúng ta có thể ước lượng quy tắc giản
đơn của NHNN qua phương trình sau: r = α +β∏ +ɛ
24
Lý thuyết tài chính tiền tê Nguyễn Thị Ngọc Nhung -BH210587
(r : lãi suất , ∏ là tỷ lệ lạm phát, ɛ là sai số. trong đó α,β là hằng số)
Trong giai đoạn 1/2003 đến 6/2011 đã ước lượng được α = 5.73, β = 0.29 . Hằng số β
thấp cho thấy lãi suất khá thụ động với diễn biến lạm phát. Điều này cho thấy rõ quan điểm lỏng
với lạm phát và chạy theo tăng trưởng tín dụng và cung tiền những năm gần đây. Sự phản ứng
không theo sát này còn khiến các NHTM muốn nâng mức lãi suất lên vượt trần cho phép qua
nhiều hình thức huy động khác nhau, tạo nên sự tồn tại của cơ chế 2 lãi suất.
Trong quá khứ lãi suất đã thể hiện được khả năng kiềm chế lạm phát rất hiệu quả (1990)
Nhưng đến nay thì vấn đề vận dụng nó chưa thực sư phát huy hết tác dụng, vì nó chưa được thay
đổi nhanh chóng, thiếu tính đón đầu,luôn thụ động trước các diễn biến bất lợi.
Trước tình hình hiện nay, tăng lãi suất huy động sẽ làm các NHTM đảy nhanh tốc độ
huy động vốn. Nhưng chính điều này đẩy các doanh nghiệp đến khó khăn cho việc vay vốn. Nếu
như trước kia chỉ mất 9-10%/ năm thì bây giờ ít nhất các doanh nghiệp cũng phải mất đến 14%.
Lại bị cộng hưởng bởi lạm phát, chi phí đầu vào tăng. Kéo theo tăng giá sản phẩm và việc tăng
giá này lại phần nào gây áp lực cho lạm phát.
Thắt chặt tín dụng phải đúng trọng tâm. Vì những ngành như công nghiệp chế biến, khai
khoáng… nông nghiệp trồng trọt, lương thục, thực phẩm. sẽ có chi phí sản suất và giá thành
trong nước sẽ không rơi vào tình trạng tăng cao. Trong trường hợp này, tăng lãi suất không
những không giúp bình ổn giá cả , lạm phát mà còn có tác động trái chiều.
Nhưng thay đổi la bao nhiêu? Để định lượng được điều này NHNN phải sát sao trong vấn
đề này và kiểm soát thực hiện của các NHTM. Ngày 22/03/2011 NHNN đã ban hành thông tư
số 06/2011/TT-NHNN quy định về điều tra thống kê trong lĩnh vực tiền tệ hoạt động của ngân
hàng và hoạt động ngoại hối. Với quyết định này chúng ta mong rằng NHNN sẽ đánh giá thực tế
hơn về tình hình thực hiện chính sách tiền tệ để đưa ra những chỉ đạo đúng đắn hơn trong việc
quản lý tiền tệ đẩy lùi lạm phát và giúp cho chính phủ trong việc tăng trưởng kinh tế, ổn định xã
hội.
IV. Kết luận
Cũng như đối với các quốc gia khác. Vấn đề lạm phát luôn là nỗi lo trăn trở mà các chính
phủ đương thời đang gặp phải. Biến động của nó vô cùng phức tạp và khó lường trước cũng như
giải quyết nó một cách triệt để. Chỉ có thể hạn chế và ngăn chặn nó sao cho nó xảy ra và duy trì ở
mức ổn định. Bởi vậy, trong đề án này tôi đã cố gắng khảo sát tình hình biến động của lãi suất
(tập trung từ 2007 trở lại đây) và tác động của nó đến những biến động của lạm phát. Để từ đó
nhận ra chính sách lãi suất hiện tại còn những hạn chế gì gặp phải. Chính sách lãi suất tốt là
chính sách theo sát với thị trường, được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu của kinh tế ở
những giai đoạn khác nhau. Do một số hạn chế mà thời gian qua chính sách lãi suất chưa đem lại
hiệu quả rõ rệt tác động đến nền kinh tế, cụ thể là chỉ số về tỉ lệ lạm phát. Chúng ta cần đưa ra
những lãi suất linh hoạt và đúng thời kì. Ngân hàng trung ương với chức năng của mình là điều
25