Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

nghiên cứu tình hình vay và sử dụng vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng trên địa bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.11 KB, 82 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số nhưng
chỉ chiếm khoảng 17% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế trong hệ thống tổ
chức tín dụng. Kinh tế thị trường phát triển thì làm cho nông nghiệp, nông thôn
và đặc biệt là người nông dân càng khó có cơ hội tiếp cận với các nguồn tài
chính, tín dụng. Việc phân bổ vốn đầu tư còn mất cân đối và chưa hợp lý, thiếu
trọng điểm, trọng tâm còn biểu hiện tình trạng ban phát, nguồn vốn đầu tư cho
phát triển nông nghiệp - nông thôn có nhiều kênh đáp ứng cho nhiều đối tượng,
nhưng chưa được phối hợp đồng bộ để đầu tư, sử dụng có hiệu quả mà còn trong
tình trạng dàn trải, chồng chéo do thiếu nguồn vốn giá rẻ nên lãi suất các khoản
cho vay thương mại đối với nông nghiệp - nông thôn ở mức rất cao. Mặt khác
hiệu quả sử dụng vốn của các hộ nông dân chưa cao, rủi ro lớn và thường xảy ra
trên diện rộng Đây là một trong những lý do tại sao tình hình khu vực nông
nghiệp nông thôn Việt Nam chưa có những cải thiện mạnh mẽ cả về đời sống
kinh tế xã hội và đời sống người dân.
Có nhiều nguyên nhân làm cho khu vực nông thôn khó tiếp cận các nguồn
tài chính. Trước hết, do tích lũy của khu vực nông nghiệp nông thôn rất thấp.
Đặc biệt tỷ lệ lạm phát càng cao, mức tích lũy của người dân càng thấp trong khi
nhu cầu về vốn để đầu tư cho sản xuất ngày càng nhiều. Trong khi đó, không có
vốn huy động thành thị chuyển về cho vay nông thôn mà lại có tình trạng vốn
huy động từ địa bàn nông thôn lại chuyển ra cho vay tại đô thị .
Giải bài toán về vốn cho thị trường tài chính nông thôn trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập WTO là một vấn đề hết sức khó khăn. Việt Nam, cũng như
các nước đang phát triển trên thế giới, phải đối phó với vấn đề thiếu vốn nói
1
chung, đặc biệt thiếu vốn cho lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nước ta nhưng trong thời gian qua
nông hộ vẫn còn phải đối mặt với vòng luẩn quẩn nghèo khổ bởi vì thu nhập
thấp, nông hộ cần vốn để có thể trang bị kỹ thuật mới nhưng phần lớn vẫn còn


phải áp dụng các phương thức canh tác truyền thống dẫn đến kết quả là năng
suất thấp và thu nhập cũng thấp …vì thế cần có biện pháp nhằm cung cấp vốn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay trên cơ sở phân tích nhu cầu vay vốn và
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay.
Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của nguồn vốn cho người nông dân có ý
nghĩa cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Giải quyết vấn đề vốn
cho nông hộ và xem vốn là một trong những thành phần chủ yếu trong tiến trình
đưa nông dân, nông nghiệp và nông thôn đi lên với sự phát triển kinh tế bền
vững mà nước ta đang hướng đến.
Việc cho các hộ sản xuất nông nghiệp trong những năm qua của các tổ
chức tài chính trong và ngoài quốc doanh tuy đã đạt được những kết quả nhất
định song vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề tín dụng nông thôn là vấn đề
phức tạp đối với các nước đang phát triển đặc biệt là đối với Việt Nam, một
nước xuất phát điểm là thuần nông, đi lên chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Để
góp phần giải quyết được đòi hỏi trên phải có những nghiên cứu về nhu cầu vốn,
khả năng tiếp cận vốn vay cũng như đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay của
nông hộ là một vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay trên phạm vi cả nước.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với mong muốn thâm nhập vào thực tế, hiểu
rõ hơn những vướng mắc của người dân trong vấn đề đi vay cũng như sử dụng
vốn vay, tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu tình hình vay vốn và hiệu quả sử dụng
vốn tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn của hộ nông dân trên địa
bàn xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội”.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích và đánh giá thực trạng và hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ nông
dân xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội; Từ đó đề xuất giải
pháp nhằm góp phần giải quyết vấn đề vốn vay và nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn vay của hộ sản xuất nông dân tong quá trình phát triển nông nghiệp
và nông thôn của xã Nam Triều trong thời gian tới.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích và đánh giá mục đích, nhu cầu vay vốn và sử dụng vốn vay để
phát triển sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trong xã.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận và vay vốn phục vụ
cho phát triển sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân ở xã.
- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn vay của nông hộ và các nhân tố ảnh
hưởng tới hiệu quả đó.
- Đề xuất ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng được vay vốn và hiệu
quả sử dụng vốn vay cho phát triển sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân ở xã
trong thời gian tới.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài.
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận vốn vay của người nông
dân?
- Vốn vay đã có tác động như thế nào đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp?
- Nông hộ vay vốn có sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả không?
- Các giải pháp nào có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp của nông hộ?
3
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các tổ chức tín dụng nông thôn trên địa bàn xã Nam Triều và các tổ
chức tín dụng nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Xuyên, các tổ chức xã hội và
các nguồn vốn nhàn rỗi khác trong dân cư trên địa bàn xã.
- Các hộ nông dân vay vốn tín dụng trên địa bàn xã Nam Triều, huyện
Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình vay và sử
dụng vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiên cứu và các nhân
tố tác động tới thực trạng đó. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao trình độ

phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người dân trong xã.
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu tại xã Nam Triều, huyện Phú
Xuyên, Thành phố Hà Nội
- Phạm vi thời gian:
+ Các thông tin số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài thu thập trong
khoảng thời gian từ năm 2009 – 2011, tập trung vào năm 2011 và giải pháp đề
ra trong thời gian tới.
+ Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 01/2012 – tháng 06/2012
4
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Một số khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.1.1.1. Khái niệm về tín dụng
* Khái niệm về tín dụng
Tín dụng ra đời từ rất sớm gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất
hàng hoá, nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất và kinh doanh của con người. Tín
dụng xuất phát từ gốc từ La Tinh là Credittum nghĩa là tin tưởng và tín nhiệm.
Thuật ngữ “Tín dụng” diển giải theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam có nghĩa là sự
vay mượn; Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng
giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng
sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại tín dụng là lòng tin
nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sử dụng vốn đúng mục đích,
có hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi suất vào đúng thời hạn quy định.
Theo cuốn từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng trang 349 thì: “Tín dụng là
một phạm trù kinh tế, thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay,
nó là sự chuyển nhượng qua một lượng giá trị hay một lượng hiện vật theo điều
kiện mà hai bên đã thoả thuận”.
* Bản chất của tín dụng

Bản chất đặc trưng nhất của tín dụng là tính không thay đổi về trạng thái
và giá trị, mặc dù nó luôn luôn được lưu chuyển và thay đổi về phương thức
giao dịch. Nó được thể hiện ở một số khía cạnh:
5
- Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển cho người
khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Lúc này vốn được chuyển từ người
cho vay sang người vay.
- Thứ hai: Sau khi nhận được vốn tín dụng bên đi vay được quyền sử
dụng để thoả mãn mục đích nhất định.
- Thư ba: Hết thời hạn do hai bên thoả thuận, bên đi vay hoàn trả lại cho
bên cho vay một giá trị lớn hơn vốn vay ban đầu, phần tăng thêm này được gọi
là tiền lãi.
Theo C.Mark thì: “Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong
một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay
nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải bỏ ra để thanh toán, cũng không
phải tự đem bán mà cho vay chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay
trở lại điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định”. Đồng thời ông còn vạch rõ
yêu cầu của việc tiền quay trở lại điểm xuất phát cần phải: “Giữ nguyên giá trị
của nó và đồng thời lớn lên trong quá trình vận động”.
Nhà kinh tế học người Pháp – Ông LouisBaudin đã định nghĩa: Tín dụng là sự
trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai.
Một nhà kinh tế học lại quan niệm tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh
mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các tác nhân và thể nhân trong nền kinh
tế hàng hoá.
Tóm lại, tín dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng đều phản
ánh sự trao đổi mà một bên là người đi vay và một bên là người cho vay.
2.1.1.2. Lãi suất tín dụng
Một trong những đắc trưng cơ bản của tín dụng là sau một thời gian nhất
định ngưòi sử dụng phải hoàn trả cho ngưòi chuyển nhượng một lượng giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu. Phần giá trị lớn hơn chính là lợi tức tín dụng. Lợi tức tín

dụng là phần người đi vay phải trả cho người cho vay. Lợi tức tín dụng cũng
biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn như giá cả hàng hoá thông
6
thường. Lợi tức tín dụng không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị vốn vay
như giá cả hàng hoá thông thường mà nó độc lập tương đối hay nhỏ hơn nhiều
so với giá trị vốn vay. Lợi tức là số tuyệt đối nên để biểu hiện một cách tổng
quát về lợi tức tín dụng người ta sử dụng chỉ tiêu tương đối gọi là lãi suất.
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho
người cho vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một khoảng thời gian nhất định
sử dụng số tiền vay đó. Lãi suất tín dụng có thể tính theo tháng hoặc năm (ở Việt
Nam thường công bố theo tháng còn ở các nước khác thường công bố theo
năm).
Tuỳ theo hình thức tín dụng mà người ta phân biệt lãi suất tín dụng thành
các loại khác nhau với những quy định cụ thể khác nhau.
Lãi suất tín dụng thương mại tính trên cơ sở giá giữa việc trả tiền ngay với việc
kéo dài thời gian trả tiền, người ta thông báo cho người mua biết có thể mua
chịu hoặc trả tiền ngay.
Lãi suất tín dụng nhà nước là lãi suất các trái phiếu, tín phiếu theo công
bố khi nhà nước phát hành trái phiếu, tín phiếu. Lãi suất này có thể cố định trong
suốt thời gian vay.
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là: “Lãi suất tín dụng là
tỷ lệ phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong
một thời kỳ nhất định”.
Lãi suất tín dụng =
Số lợi tức thu được trong kỳ
* 100(%)
Số tiền vay phát ra trong kỳ
Trong đó:
+ Lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay, hay nói cách khác đó

chính là phầm giá trị tăng thêm so với phầm vốn gốc mà người cho vay thu được
sau một thời gian nhất định.
7
+ Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi tức cao
hay thấp khác nhau.
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bảy kinh tế quan trọng của nền
kinh tế thị truờng. Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vay
và sử dụng vốn tín dụng. Do đó nó tác động nên tất cả mọi thành phần của nền
kinh tế quốc dân.
2.1.1.3. Khái niệm về phát triển nông nghiệp và nông thôn
Phát triển nông nghiệp và nông thôn là sự thay đổi về đời sống kinh tế xã
hội ở nông thôn theo hướng tích cực, được biểu hiện trong sự tăng trưởng kinh
tế, nâng cao thu nhập, giảm bớt tình trạng đói nghèo cùng với sự cải thiện về
văn hoá, y tế giáo dục của con người ở nông thôn. Sự phát triển Nông nghiệp và
nông thôn chính là sự tăng trưởng về mặt kinh tế và sự phát triển tích cực xã hội
khu vực nông thôn.
2.1.2. Vai trò của tín dụng đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn
2.1.2.1. Vai trò của tín dụng đối với tình hình CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và chính phủ rất
quan tâm chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế nông thôn, đặc biệt chương
trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đã trở thành chiến lược trong chính
sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Thực hiện chương trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải có
vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Để giả quyết vấn đề này đòi hỏi sự
tăng đầu tư của Chính phủ và hỗ trợ tín dụng cho nông nghiệp nông thôn. Tín
dụng đóng vai trò như là yếu tố đầu vào cho quá trình CNH-HĐh nông nghiệp
nông thôn.
2.1.2.2. Vai trò của tín dụng đối với kinh tế hộ
Dựa vào tín dụng người nông dân có thể đầu tư thêm các yếu tố đầu vào

trong sản xuất nông nghiệp như: thuê thêm đất canh tác, mua giống mới, phân
8
bón, thuốc trừ sâu, làm trang trại quy mô…Thu nhập của hộ nông dân phụ thuộc
vào hai yếu tố là giá trị sản xuất và chi phí trung gian. Nhưng cả hai yếu tố này
lại phụ thuộc vào giá cả và lượng đầu vào đầu ra. Sự bắt buộc phải trả lãi tín
dụng đã làm cho người dân buộc phải tính toán danh mục đầu tư để có thể hoàn
trả vốn và lãi suất đúng thời hạn. Tín dụng giúp gia tăng yếu tố đầu vào để tăng
khối lượng sản phẩm ở đầu ra giúp thay đổi thu nhập cho hộ gia đình.
Tín dụng là giải pháp quan trọng giúp cho người nghèo thoát nghèo. Nó
giúp cho người nghèo có thể mua được những yếu tố sản xuất để nâng cao thu
nhập cải thiện cuộc sống. Đầu tư tín dụng ưu đãi cho người nghèo ngoài việc
mang lại hiệu quả kinh tế còn mang lại hiệu quả xã hội.
Ngoài ra vốn tín dụng còn góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Trong điều kiện vốn đầu tư cơ bản của ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp
nông thôn còn hạn chế thì vốn đầu tư qua con đường tín dụng càng trở lên quan
trọng đối với đời sống của người dân nông thôn. Đồng thời vốn tín dụng còn
góp phần giải quyết việc làm cho những lao đọng dư thừa trong nông thôn.
2.1.3. Các hình thức tín dụng trong nông nghiệp nông thôn
Tín dụng được phân chia thành nhiều hình thức theo các tiêu thức nhất
định như thời gian, đối tượng, mục đích cho vay và hình thức biểu hiện của vốn,
chủ thể các quan hệ tín dụng.
* Theo thời hạn cho vay tín dụng được chia thành
- Tín dụng ngắn hạn (từ 1năm trở xuống)
- Tín dụng trung hạn (từ 1năm tới 5năm)
- Tín dụng dài hạn (trên 5năm)
* Theo mục đích sử dụng vốn vay tín dụng gồm hai loại sau:
- Tín dụng sản xuất, lưu thông hàng hoá
- Tín dụng tiêu dùng
* Theo hình thức biểu hiện vốn vay, tín dụng gồm có:
- Tín dụng bằng tiền

9
- Tín dụng bằng hiện vật
* Theo đặc điểm của vốn, tín dụng được chia:
- Tín dụng vốn lưu động cho vay để hình thành tài sản lưu động (TSLĐ)
- Tín dụng vốn cố định cho vay để hình thành tài sản cố định (TSCĐ)
* Theo chủ thể trong quan hệ tín dụng gồm:
- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới
hình thức mua bán chịu hàng hoá.
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
- Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tầng lớp
dân cư hoặc với các tổ chức kinh tế xã hội.
- Tín dụng tư nhân, cá nhân: Là quan hệ tín dụng giữa cá nhân và tư nhân
cho vay nặng lãi hoặc giữa các cá nhân với nhau.
- Tín dụng thuê mua: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp (người
thuê) với các tổ chức tín dụng thuê mua (các công ty tín dung thuê mua, được áp
dụng với các khoản đầu tư vào TSCĐ).
- Tín dụng bán trả góp, dịch vụ cầm đồ, ký cược tài sản…
* Theo phương diện tổ chức tín dụng chia thành hai loại đó là tín dụng
chính thống và tín dụng không chính thống
- Tín dụng chính thống: Là hình thức huy đọng vốn và cho vay thông qua
các tổ chức tài chính có đăng ký và hoạt động công khai theo pháp luật, hoặc
chịu sự giám sát và quản lý của chính quyền nhà nước các cấp. Các tổ chức tín
dụng chính thống bao gồm: Hệ thống ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Hệ thống
quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính, các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, các chương trình
dự án được thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng của chính phủ hay các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế: IMF, WB, ADB. Tín dụng chính thống luôn giữ vai trò
chủ đạo trong hệ thống tín dụng của các quốc gia.
10

- Tín dụng phi chính thống: Là tín dụng do các tổ chức, cá nhân nằm
ngoài các tổ chức tín dụng phi chính thống. Hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh vấn đề này.
Các nhà kinh tế Đức cho rằng: Tín dụng không chính thống là việc huy
động các nguồn vốn không thuộc ngân hàng giám sát như vốn của bạn bè, anh
em, họ hàng… Việc cung ứng nguồn vốn không chịu sự quản lý của nhà nước
nhưng vẫn theo nguyên tắc nhất định. Hầu hết các nghiên cứu về tín dụng nông
thôn đã chứng tỏ rằng: Thị trường tín dụng không chính thống rất phổ biến ở các
nước Châu Á.
Theo các nhà kinh tế học Indonexia thì lại cho rằng: Tín dụng không
chính thống là hình thức tín dụng chưa được thể chế hoá.
Ở Việt Nam, có tác giả cho rằng tín dụng không chính thống là hình thức
hoạt động ngoài khuôn khổ luật định. Tuy nhiên, hình thức tín dụng nàycó ý
nghã hết sức quan trọng trong việc cung ứng tiền đầu tư cho nền kinh tế, nhất là
ở khu vực nông thôn khi mà thị trường vốn chính thống chưa đủ mạnh. Hình
thức này bao gồm việc cho vay nặng lãi, chơi hụi họ, vay mượn bạn bè người
thân…
2.1.4. Hiệu quả của hoạt động tín dụng
2.1.4.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả
* Hiệu quả kinh tế: Là hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu đề cập đến
lợi ích kinh tế sẽ thu được trong hoạt động kinh tế. Nâng cao chất lượng hoạt
động kinh tế là tăng cường tận dụng các nguồn lực sẵn có trong hoạt động kinh
tế. Đây là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất của
đời sống con người ngày càng tăng.
* Hiệu quả xã hội: Là kết quả của hoạt động kinh tế xét trên khía cạnh
công ích, phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội. Cùng với hiệu quả kinh tế, hoạt
động sản xuất con gnười tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã
11
hội: như cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân
dân, tạo việc làm tăng thu nhập, giảm tỷ lệ thất nghiệp.

* Hiệu quả môi trường: Đó là tác đọng đến môi trường tự nhiên của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, hiệu quả môi trường đang được các nhà
quản lý sử dụng làm công cụ đánh giá. Một hoạt động sản xuất được coi là hiệu
quả thì hoạt động đó không được gây ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái.
Nếu chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế, mà không quan tâmđến hiệu quả môi
trường, đôi khi dẫn đến mất mát của xã hội lớn hơn nhiều so với lợi ích kinh tế
đem lại. Hiệu quả môi trường được đánh giá bằng các chỉ tiêu dự tính như: sự đa
dạng sinh học, sự cân bằng sinh thái, độ sói mòn đất…
2.1.4.2. Hệ thống đánh giá hiệu quả
Bàn về vấn đề hiệu quả kinh tế, các nhà kinh tế ở nhiều nước, nhiều lĩnh
vực có quan điểm khác nhau, có thể tóm tắt thành hệ thống các quan điểm sau:
* Quan điểm thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết
quả đạt được với chi phí bỏ ra hoặc sử dụng các nguồn lực để đạt kết quả đó.
H = Q/C
Trong đó: Q là kết quả sản xuất đạt được
C là chi phí bỏ ra
Đại diên cho quan điểm này, Lulicop cho rằng: “Hiệu quả sản xuất là kết
quả của một nền sản xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần
thiết để đạt được hiệu suất vốn, tổng sản phẩm chia cho số lao động được hiệu
suất lao động”.
TS Trần Văn Đức cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là thể hiện phương pháp và
chất lượng kinh doanh vốn có của một phương thức sản xuất kinh doanh nhất
định”. “Đó là sự so sánh về số lượng giữ kết quả và chi phí sản xuất”.
Tuy vậy nếu xét hiệu quả kinh tế theo quan điểm này sẽ gặp khó khăn trong việc
xác định và đánh giá quy mô của hoạt động sản xuất kinh doanh.
12
* Quan điểm thứ hai: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó
H = Q – C
Quan điểm này phản ánh được quy mô của hiệu quả kinh tế nhưng lại không

phản ánh được chi phí bỏ ra để có kết quả đó. Vì thế không xác định được mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào.
* Quan điểm thứ ba: Xem xét hiệu quả kinh tế trong sự biến động của chi
phí và kết quả của sản xuất kinh doanh.
H = ΔK/ΔC
Trong đó: ΔK là phần tăng thêm của kết quả sản xuất
ΔC là phần tăng thêm của chi phí sản xuất
Kinh tế vi mô chú ý đến quan hệ tỷ lệ giữa mức độ tăng trưởng kết quả
sản xuất với mức độ tăng lên của chi phí biến đổi, từ đó chỉ ra điểm tói ưu để đạt
lợi nhuận cao nhất.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn hiện nay ở một số nước
trên thế giới
2.2.1.1. Tín dụng trong nông nghiệp nông thôn ở Nhật Bản
Ngay sau chiến tanh thế giới lần thứ II, chính phủ Nhật Bản dã khuyến
khích phát triển nông nghiệp bằng việc thành lập ngân hàng cầm cố bất động sản
và các ngân hàng công, nông nghiệp địa phương. Đến nay những tổ chức này đã
được thay thế bởi các tổ chức tài chính nông, lâm và thuỷ sản (AFFFC). Các tổ
chức này đã cung cấp tiền vay cho nông nghiệp với thời gian dài, số lượng lớn
và lãi suất thấp để đầu tư cho việc hình thành vốn cố định cho nông hộ và trang
trại nông nghiệp. Các AFFFC cung cấp tiền vay chủ yếu thông qua HTX nông
nghiệp, có tới 60% số dư nợ của AFFFC là qua ngân hàng HTX trung tâm nông,
lâm nghiệp.
13
Từ những năm 1960, chính phủ Nhật Bản đã có chương trình cho vay
nông nghiệp (GPALs) nhằm tăng đầu tư cơ bản cho nông nghiệp. số lượng
GPALs ngày càng tăng qua các năm, số lượng tiền vay cũng ngày càng tăng từ
156 tỷ yên (năm 1965) lên tới 693 tỷ yên (năm 1984), và số lượng tiền vay ngày
một tăng cao nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của người
dân trong nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản. Trong đó hơn 80% tổng số tiền vay

dùng cho hiện đại hoá trang trại và cơ giới hoá trong nông nghiệp.
2.2.1.2. Tín dụng nông nghiệp và nông thôn ở Thái Lan
Tín dụng nông nghiệp nông thôn ở Thái Lan chia làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn (từ 6 – 12 tháng) cung cấp tín dụng cho những chi
phí hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp ngắn hạn ( thường là 1vụ sản
xuất).
- Tín dụng trung hạn (từ 1- 5 năm) cung cấp cho việc sử dụng mua sắm
trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
- Tín dụng dài hạn (từ 5 – 30 năm) cung cấp cho việc đầu tư dài hạn và
đầu tư sản xuất kinh doanh lớn.
Hầu hết các tổ chức tín dụng chính thống ở Thái Lan cung cấp tín dụng
ngắn, trung hạn và chỉ có một số tổ chức tín dụng đã đăng ký với nhà nước mới
cung cấp tín dụng dài hạn. Tổ chức tín dụng chính thống lớn nhất chuyên cung
cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn là ngân hàng BACC. Ngân hàng này
đựoc thành lập từ cuối năm 1966, đến nay đã có 657 chi nhánh và 850 văn
phòng trải rộng khắp khu vực nông thôn. BACC là ngân hàng của chính phủ và
99.7% nguồn vón của BACC do bộ tài chính cung cấp. Với lãi suất 13%/năm và
cho vay thông qua HTX tín dụng nông nghiệp
Tổ chức tín dụng chính thống thứ hai cung cấp cho nông nghiệp, nông
thôn là hệ thống ngân hàng thương mại như: Ngân hàng Băng Cốc, ngân hàng
Ayudhya, ngân hàng nông dân Thái Lan. Hình thức cho vay thế chấp đối với
nông dân, cá thể và không thế chấp đối với nhóm nông dân. Ngân hàng nhà
14
nước Thái Lan có vai trò quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực
nông thôn với lãi suất thấp. Nông dân Thái Lan vay vốn từ các tổ chức tín dụng
bằng nhiều cách, hộ giàu có tài sản thế chấp thì vay trực tiếp tại các tổ chức tín
dụng còn hộ nghèo vay gián tiếp bằng các tham gia vào HTX hay các hiệp hội
nhóm hộ nông dân.
Thái Lan là một nước có nền nông nghiệp rất phát triển, hiên nay Thái
Lan là một nước có lượng gạo xuất khẩu lớn nhất thế giới, gạo có chất lượng cao

và bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu. Và đó là một trong những yếu tố cơ bản để có
đựơc kết quả đó là hệ thống tín dụng nông thôn ở Thái Lan hoạt động rất có hiệu
quả.
2.2.1.3. Tín dụng trong nông nghiệp nông thôn ở Philippin
Chính phủ Philippin rất quan tâm đến việc sản xuất nông nghiệp, nâng
cao đời sống cho hộ nông dân bằng các biện pháp khác nhau. Đặc biệt là chính
sách tín dụng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Chính sách này chia làm hai thời kỳ:
Năm 1986 trở về trước: nông nghiệp cần thực hiện chính sách “tài chính chủ
đạo”. Đặc trưng cơ bản là Nhà nứoc can thiệp bằng cách trợ cấp, thực hiện kiểm
soát lãi suất thấp, miễn thuế nông nghiệp. Chính sách này được đánh giá là
không mấy hiệu quả.
Từ năm 1986 trở lại đây. Năm 1986 chính phủ đã ban hành chính sách tín
dụng với nội dung chủ yếu là thực hiện lãi suất cho hộ nông dân vay theo lãi
suất thị trường, giảm trợ cấp ưu tiên cho ngân hàng nông nghiệp, chấm dứt các
hoật động cho vay trực tiếp của các cơ sở nhà nước phi tài chính. Cung cấp các
dịch vụ và thực hiện cơ chế bảo hiểm để giảm rủi ro trong khi cho vay. Trong số
các cơ quan tổ chức có chất lượng hỗ trợ và phát triển khu vực nông thôn thì
ngân hàng Landbank, Tổng thống Ficen – Vramos đã phát biểu: Với chức năng
là một ngân hàng phát triển nông thôn, Landbank đã có những đóng góp quan
trọng trong công cuộc cải thiện nông nghiệp của Philippin”.
15
Landbank là một ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chuyên cho hộ
nông dân vay, có thể coi đây là Ngân hàng lớn nhất trong việc cho hộ nông dân
vay vốn, nó góp phần rất quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp ở
Philippin.
2.2.2 Hoạt động tín dụng ở Việt Nam
Nông nghiệp nông thôn Việt Nam có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế đất nước. Với hơn 70% dân số sống ở vùng nông thôn thì đây
là một nguồn nhân lực vô cùng dồi dào để cung cấp cho quá trình phát triển kinh
tế đất nước. Tuy nhiên nguồn nhân lực ấy vẫn còn phần nhiều là chưa qua đào

tạo. Tỷ lệ thất nghiệp ở vùng nông thôn là tương đối cao do tính đặc thù của sản
xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ, vì vậy những lúc nông nhàn thì người
dân nông thôn thường không có việc làm. Bên cạnh đó là sự phát triển cơ sở hạ
tầng ở một số vùng nông thôn còn chưa phát triển, còn nhiều bất cập trong qua
trình sản xuất kinh doanh dẫn tới đời sống một số vùng nông thôn còn thấp.
Nhằm đưa nông thôn Việt Nam phát triển đi lên thì Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân nông thôn có cơ hội phát triển làm ăn
kinh tế. Chính sách tín dụng nông thôn đang là vấn đề được quan tâm, tuy nhiên
trải qua từng thời kỳ thì những chính sách đó có sự thay đổi khác nhau cho phù
hợp.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các thành phần kinh tế hoạt
động theo chỉ tiêu và kế hoạch từ trên xuống, thành phần kinh tế tư nhân hầu
như không được thừa nhận. Cho nên đối tượng vay vốn của các tổ chức tín dụng
(ngân hàng) lúc đó chủ yếu là các đơn vị kinh tế quốc doanh, các tổ chức kinh tế
tập thể. Ngân hàng đảm đương việc cung cấp tín dụng theo chỉ tiêu kế hoạch từ
trên xuống.
Tín dụng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thời kỳ này chưa phát huy
được hết tác dụng của nó, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Do đó nền kinh tế nói
16
chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng là chậm phát triển, đời sống của
người dân nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn.
Mốc đánh dấu bước ngoặt đổi mới với nền kinh tế đất nước ta là chỉ thị
100 của Ban bí thư TW Đảng, khi nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN. Lúc này, tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn đã có nhiều thay đổi.
Năm 1989, kinh tế hộ được coi là đơn vị kinh tế cá thể thì ngân hàng nông
nghiệp Việt Nam ra đời, tiền thân của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn ngày nay. Trong đó có cả Ngân hàng thương mại, kho bạc nhà nước, Ngân
hàng phục vụ người nghèo, hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân. Các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân có thể vay vốn trực tiếp từ các tổ chức tín dụng chính thống nói

trên. Ngoài ra, hộ nông dân có thể vay qua các tổ chức đoàn thể địa phương tín
chấp như: hội Cựu chiến binh, hội Phụ nữ, Hộ nông dân và Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh…Từ các tổ chức tín dụng Nhà nước hoặc vay thông qua
các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo Hiện nay thì các hộ nông dân có
thể vay vốn từ nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau như:
2.2.2.1. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo & PTNT):
NHNo& PTNT được thành lập theo quyết định số 400/CP ngày
14/11/1962, với vốn điều lệ là 5.190 tỷ VNĐ và thành lập theo quyết định số
287/QĐ_NH5 ngày 21/09/1996 của thống đốc ngân hàng nhà nước, đến nay
NHNo & PTNT Việt Nam là Ngân hàng thương mại Quốc doanh không chỉ giữ
vai trò chủ đạo và chủ lực trong vốn đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mọi lĩnh vực khác của
ngành kinh tế.
Là ngân hàng có mạng lưới ngân hàng đại lý lớn với trên 700 ngân hàng,
tổ chức tài chính ở gần 90 quốc gia khắp các châu lục. Là thành viên Hiệp hội
Tín dụng Nông Nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA) và
hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Quốc tế (CICA); đã đăng cai tổ chức nhiều hội
17
nghị quốc tế lớn như hội nghị FAO năm 1991, hội nghị APRACA năm 1996 và
năm 1998, được đăng cai tổ chức hội nghị tín dụng nông nghiệp quốc tế CICA
lần thứ 31, tháng 11 năm 2001 tại Hà Nội. Tiếp nhận và triển khai có hiệu quả
các dự án của các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng quốc tế đặc biệt là các dự
án của WB, ADB, AFD… với 53 dự án, tổng số vốn 1.645 triệu USD.
Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, NHNo & PTNT đã nỗ
lực hết mình, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ qua đó đóng góp to lớn
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá và phát triển kinh tế của đất nước.
2.2.2.2. Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH):
NHCSXH được thành lập theo quyết định số 131/2002/QĐ – TTg ngày
04/10/2002 của thủ tướng chính phủ trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng phục vụ
người nghèo được thành lập theo quyết định số 230/QĐ – NH5 ngày 01/09/1995

của thống đóc ngân hàng nhà nước. NHCSXH chủ yếu cho hộ nghèo vay vốn
nới lãi suất thấp để phát triển sản xuất không vì mục đích lợi nhuận, được nhà
nước đảm bảo khả năng thanh toán, không tham gia bảo hiểm tiền gửi, được
miễn thuế và các khoản nộp ngân sách khác, thực hiện tín dụng ưu đãi đối với
hộ nghèo và đối tượng chính sách xã hội để phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo
việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo,
ổn định xã hội.
2.2.2.3. Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCT):
NHCT Việt Nam được thành lập theo quyết định 402/CT ngày
14/11/1990 và thành lập lại theo quyết định số 285/QĐ – NH5 ngày 21/09/1996
của thống đốc ngân hàng nhà nước.
Là một trong bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất tại Việt Nam, có
tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
Có mạng lưới kinh doanh trải rộng khắp toàn quốc với 2 Sở giao dịch,
130 chi nhánh và trên 700 điểm giao dịch.
18
2.2.2.4. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND):
Quỹ tín dụng nhân dân được thành lập theo quyết định 390 TTg ngày
27/02/1993 của Thủ tướng chính phủ. QTDND là tổ chức tín dụng huy động tại
chỗ đồng vốn của mọi tầng lớp dân cư và cho vay để phát triển sản xuất kinh
doanh dịch vụ. Hiên nay QTDND đã huy động cà cho vay hàng nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên số lượng QTDND còn quá ít, mới tương đương hơn 10% địa bàn xã,
phường trong cả nước. Trình độ quản lý, nghiệp vụ của cán bộ trong QTDND
nhìn chung còn yếu. Chính vì vậy một số địa phương QTDND không phát huy
được vai trò của mình, dẫn tới hoạt động kém hiệu quả.
2.2.2.5. Các chương trình ưu đãi của Chính phủ:
Trong những năm qua Nhà nước đã thực hiện nhiều chương trình như:
Chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vay vốn cho nông dân nghèo… Nguồn
vốn cho những chương trình này chủ yếu là viện trợ của nước ngoài, trong đó

ngân sách chiếm một phần nhỏ. Các chương trình này cung cấp vốn cho hộ nông
dân với lãi suất ưu đãi và thủ tục đơn giản. Vốn tới tay nông hộ qua kho bạc nhà
nước và các cơ quan chức năng. Với số vốn của chương trình mục tiêu quốc gia
xoá đói giảm nghèo đã góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đầu tư cho
nông, lâm, ngư nghiệp,…
2.2.2.6. Tín dụng không chính thống (TDKCT):
Với nền kinh tế thị trường hiện nay thì sự tồn tại tín dụng không chính
thống là tất yếu. Các tổ chức tín dụng này không chịu sự chi phối giám sát của
pháp luật. Ở Việt Nam có nhiều hình thức tín dụng không chính thống như vay
tư nhân, vay anh em, họ hàng, bạn bè, cầm đồ, hụi họ,… Mức cho vay với lãi
suất rất cao hoặc rất thấp hay thậm chí bằng không.
Những năm gần đây thì tín dụng chính thống phát triển khá mạnh đáp ứng ngày
càng nhiều nhu cầu vay vốn của nông dân. Tỷ lệ hộ sử dụng tín dụng không
chính thống giảm. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận vai trò của hình thức
này.
19
2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động tín dụng nông thôn hiện nay
Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn thời gian qua tuy đã đạt được
những kết quả nhất định, song so với mức tăng chung của toàn bộ nền kinh tế
còn thấp. Điếu đó cho thấy, tín dụng nông nghiệp nông thôn chưa đáp ứng nhu
cầu và mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả của tín dụng ngân
hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chưa cao, chưa
gắn kết được nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, tiềm
năng kinh tế nông nghiệp chưa được khai thác hiệu quả. Sở dĩ như vậy là do:
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp còn chứa nhiều rủi ro, do diễn biến thời
tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh luôn dình dập, thị trường tiêu thụ
sản phẩm nông sản ,thực phẩm chưa ổn định, một số mặt hàng xuất khẩu còn
phụ thuộc khá nhiều vào giá cả thế giới…Thêm vào đó, công tác nghiên cứu dự
báo kinh tế liên quan đến lĩnh vực này còn yếu nên đã gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho sản xuất. Tất cả những lý do đó đã gây ra những khó khăn

nhất định cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của các định chế tài chính.
Thu nhập của hộ nông dân còn thấp, cùng với việc sử lý quyền sử dụng
đất của người nông dân còn những bất cập, nên việc cho vay các khoản vốn lớn
để mở rộng sản xuất của các hộ gia đình nông thôn còn rất hạn chế.
Chính sách đất đai hiện nay cũng khó để tăng cường khả năng tích tụ
ruộng đất để mở rộng quy mô chuyên canh vật nuôi cây trồng theo mô hình các
trang trại, gia trại lớn như các nước phát triển khác. Điều này cũng hạn chế nhất
định nhu cầu vay vốn lớn để phát triển, tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu
nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH – HĐH.
Công nghệ ngân hàng, cũng như mạng lưới viễn thông mới chỉ phát triển
ở các vùng đô thị, vùng sâu vùng xa còn chưa phát triển, nên cũng rất hạn chế
đến việc tiếp cận vốn tín dụng của người dân, cũng như các định chế tài chính
khó có thể mở rộng mạng lưới của mình.
20
Bên cạnh đó, phần lớn người dân ở vùng nông thôn, đặc biệt là ở khu vực
miền núi, vùng sâu, vùng xa dân trí không đồng đều; chưa tiếp cận được khoa
học kỹ thuật nên nếu như không có một sự đảm bảo, tư vấn về việc làm kinh tế,
phát triển sản xuất từ phía người cung cấp vốn thì chắc chắn họ sẽ hạn chế tiếp
cận với vốn vay.
Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của
người dân đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Thủ
tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ
văn hoá thấp, và làm nảy sinh một số tệ nạn như cò vay vốn, phát triển hình thức
tín dụng nặng lãi… Và không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tư duy bao cấp vẫn còn trong hoạt động tín dụng đối với khu vực nông
nghiệp, nông thôn vẫn còn làm tồn tại làm tăng chi phí hoạt đọng của các định
chế tài chính, đồng thời tăng tính ỷ lại và bóp méo thị trường tài chính nông
thôn.
Chưa có chiến lược phát triển nông thôn phù hợp, quy hoạch vùng sản

xuất nông nghiệp chưa rõ ràng, thị trường tiêu thụ chưa mở rộng và chưa ổn
định, Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp kịp thời. Việc hỗ trợ
kỹ thuật cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi chưa đồng bộ, việc bao tiêu sản
phẩm chưa có kế hoạch, quy hoạch cụ thể, chắc chắn làm hạn chế mở rộng phát
triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều khó
khăn.
21
PHẦN THỨ BA
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Nam triều là một xã đồng bằng gồm có hai thôn: Thôn Phong Triều và
thôn Nam Quất, nằm ở phía đông huyện Phú xuyên, cách trung tâm huyện 1,5
km.
Phía Bắc giáp với xã Nam Phong
Phía Đông giáp với xã Hồng Thái
Phía Nam giáp với xã Phúc Tiến
Phía Tây giáp với thị trấn Phú Xuyên
Tuy Xã Nam Triều là một xã đồng bằng không nằm giáp trục giao thông
chính Hà Nội – Phủ Lý, nhưng lại có vị trí cách trung tâm huyện không xa, cách
thủ đô Hà Nội 35 km và lại gần tuyến đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ nên
cũng thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin văn hoá, giao lưu buôn bán của người
dân trong vùng với thị trường bên ngoài. Đồng thời, vị trí địa hình đó cũng
mang lại những điều kiện tương đối thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp
cũng như học hỏi kinh nghiệm sản xuất của những vùng lân cận.
Nhìn tổng quát địa hình đất đai của xã tương đối bằng phẳng. Tuy nhiên, có một
số vùng trũng dễ ngập úng vào mùa mưa bão ảnh hưởng đến năng suất và sản
xuất nông nghiệp.
3.1.1.2. Đặc điểm tình hình đất đai của xã

Tình hình sử dụng đất đai của xã được thể hiện qua bảng 1:
22
Bảng 1: Tình hình đất đai của xã Nam Triều năm 2011
Loại đất ĐVT
Số
lượng Cơ cấu (%)
A- Tổng diện tích đất tự nhiên ha 578.00 100
I- Đất nông nghiệp ha 316.57 54.77
1. Đất canh tác ha 303.07 52.43
_ Đất lúa ha 286.00
_ Đất chuyên màu ha 12.00
2. Đất trồng cây lâu năm ha 13.50 2.34
II- Đất chuyên dùng ha 187.35 32.41
1. Đất xây dựng ha 93.40 16.16
2. Đất giao thông ha 38.50 6.66
3. Đất thuỷ lợi ha 41.05 7.10
4. Đất nghĩa trang ha 3.40 0.59
5. Đất chuyên dùng khác ha 11.00 1.90
III- Đất khu dân cư ha 72.50 12.54
IV- Đất chưa sử dụng ha 1.58 0.27
B- Một số chỉ tiêu bình quân
1. Đất tư nhiên/khẩu m2
10.05

2. Đất nông nghiệp/hộ m2 1891.09
3. Đất nông nghiệp/Khẩu m2 550.17
_ Đất canh tác/khẩu m2 526.71
_ Đất trồng cây lâu năm/khẩu m2 23.46
Theo như bảng phân loại đất của Hà Nội thì xã Nam Triều có đất đai
thuộc loại đất màu mỡ, với tổng diện tích đất tư nhiên là 578 ha, trong đó đất

nông nghiệp là 316.57 ha chiếm tỷ lệ 54.77 % so với tổng diện tích đất tự nhiên,
đất chuyên dùng là 187.35 ha chiếm 32.41 % tổng diện tích đất tự nhiên, đất khu
dân cư là 72.50 ha chiếm 12.54 % tổng diện tích đất tự nhiên và số diên tích đất
chưa sử dụng là 1.58 ha chiếm 0.27 % tổng diện tích đất tự nhiên. Nhìn chung
thì xã Nam Triều có diện tích đất nông nghiệp thuộc loại lớn của huyện Phú
Xuyên, trong đó chủ yếu là đất canh tác (đất trồng lúa) là 303.07 ha chiếm 52.43
% đất nông nghịêp và đất trồng cây lâu năm là 13.50 ha chiếm 2.34 % diện tích
23
đất nông nghiệp. Nhìn chung trong những năm gần đây diện tích đất đai của xã
Nam Triều không có sự thay đổi nhiều. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho
diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm dần qua các năm, đất chuyên dùng
thì có xu hướng tăng lên. Cùng với quá trình đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH,
Đất nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần cũng đồng nghĩa là cơ cấu ngành
nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần. Nhằm tạo hiệu quả trong sản xuất
nông nghiệp năm 2009 cũng là năm mà xã thực hiện dồn điền đổi thửa, mỗi hộ
chỉ còn từ một tới hai mảnh ruộng, quy hoạch cho đấu thầu xây dựng những khu
trang trại nông nghiệp rộng lớn. Phần diện tích đất chưa sử dụng thì có sự thu
hẹp, đến nay thì chỉ còn khoảng 1,58ha
Bảng 2: Tình hình sử dụng đất đai của xã Nam Triều qua 3 năm
(2009 – 2011)
ĐVT: Ha
Loại đất
2009 2010 2011
DT CC (%) DT CC (%) DT
CC
(%)
A- Tổng diện tích đất tự nhiên 578.00 100 578.00 100.00 578.00 100
I- Đất nông nghiệp 330.20 57.13 322.05 55.72 316.57 54.77
1. Đất canh tác 316.00 54.67 321.00 55.54 303.07 52.43
_ Đất lúa 310.00 302.00 286.00

_ Đất chuyên màu 6.00 10.00 12.00
2. Đất trồng cây lâu năm 14.20 2.46 10.05 1.74 13.50 2.34
II- Đất chuyên dùng 182.00 31.49 185.20 32.04 187.35 32.41
1. Đất xây dựng 90.20 15.61 92.70 16.04 93.40 16.16
2. Đất giao thông 36.70 6.35 37.50 6.49 38.50 6.66
3. Đất thuỷ lợi 40.70 7.04 40.60 7.02 41.05 7.10
4. Đất nghĩa trang 3.40 0.59 3.40 0.59 3.40 0.59
5. Đất chuyên dùng khác 11.00 1.90 11.00 1.90 11.00 1.90
III- Đất khu dân cư 63.40 10.97 68.00 11.76 72.50 12.54
IV- Đất chưa sử dụng 2.40 0.42 1.75 0.30 1.58 0.27
(Nguồn: Ban thống kê xã Nam Triều - Phú Xuyên - Hà Nội)
24
3.1.1.3. Khí hậu thời tiết
Xã Nam Triều là một xã nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, khí hậu
của xã cũng mang nét đặc trưng của khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng, khá
thuận lợi về nhiều mặt, không khắc nghiệt và đặc biệt rất thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp, phát triển ngành nghề trồng trọt và chăn nuôi. Nhiệt độ trung bình
hàng năm thường giao động trong khoảng từ 15
0
C đến 38
0
C. Nhiệt độ cao nhất
thường vào các tháng 5,6,7 của mùa hè, nhiệt độ có thể lên tới 37
0
C – 38
0
C.
Những tháng lạnh nhất là vào các tháng chạp, tháng giêng và tháng hai, nhiệt độ
có thể xuống tới dưới 10
0

C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1800 – 2000
mm. Mưa thường tập trung vào các tháng 7,8 và chiếm gần 40% lượng mưa của
cả năm.
Độ ẩm bình quân dao động khoảng trên dưới 80%, vào các tháng 10,11,12
có độ ẩm không khí thấp nhất trong năm khoảng 70% và những tháng có độ ẩm
cao có thể lên tới 90%.
Số giờ nắng trong năm là từ 1088 – 1820 giờ, những tháng có số giờ nắng
nhiều nhất trong năm là vào các tháng 5, 6, 7.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
3.1.2.1.Tình hình dân số và lao động của xã qua 3 năm (2009 -2011)
Về dân số và lao động của xã Nam Triều, theo số liệu của ban dân số xã
thì tính đến cuối năm 2011 toàn xã có 5754 nhân khẩu và 1674 hộ; Là địa
phương có mật độ dân số khá cao và phân bố ở hai thôn:
+ Thôn Phong Triều: 3.850 nhân khẩu, 1.070 hộ.
+ Thôn Nam Quất: 1904 nhân khẩu, 604 hộ.
Tình hình dân số và lao động trong xã qua 3 năm 2009 – 2011 được thể hiện cụ
thể ở bảng 3 như sau:
25

×