Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

các phương pháp đánh giá dự trữ buồng trứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.92 MB, 36 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khả năng tạo trứng trưởng thành tốt cho sự thụ tinh có thể coi là một
phần thiết yếu trong chức năng sinh sản của người phụ nữ. Khả năng này
giảm dần theo tuổi, phụ thuộc vào số lượng trứng còn hiện diện bên trong
buồng trứng. Số lượng trứng trong buồng trứng hay dự trữ buồng trứng
(ovarian reserve) của một người phụ nữ bao hàm 2 khía cạnh: số lượng nang
noãn sơ cấp và chất lượng của các nang noãn này.
Cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm ngày càng sâu sắc hơn trong lĩnh
vực hỗ trợ sinh sản, với mong muốn dự báo khả năng đáp ứng của buồng
trứng với thuốc kích thích buồng trứng, từ đó có thể dự báo cơ hội có thai của
các phụ nữ tham gia chương trình thụ tinh trong ống nghiệm, khái niệm dự trữ
buồng trứng được sử dụng ngày càng rộng rãi. Hơn 2 thập kỷ qua, có rất
nhiều phương pháp gọi là nghiệm pháp đánh giá dự trữ buồng trứng (ovarian
reserve tests - ORTs) được sử dụng để đánh giá dự trữ buồng trứng. Rất nhiều
nghiệm pháp trong số đó trở thành xét nghiệm thường qui cho những bệnh
nhân hiếm muộn phải điều trị bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mục đích của
các nghiệm pháp này là giúp tiên lượng liệu bệnh nhân sẽ đáp ứng như thế
nào với kích thích buồng trứng và cơ hội có thai của họ.
1
1. SINH LÝ SỰ PHÁT TRIỂN NANG NOÃN
Ở người phụ nữ, sự phát triển của noãn và khả năng thụ tinh chỉ đạt được
sau một thời gian dài phát triển và biệt hoá trong nang noãn. Quá trình này bắt
đầu rất sớm từ trong phôi thai cho đến khi phóng noãn. Hơn nữa toàn bộ quá
trình phát triển của noãn gắn chặt với sự tăng trưởng và trưởng thành về mặt
chức năng của tế bào vỏ, tế bào hạt của nang noãn thể hiện qua sự chế tiết của
các hormone sinh dục của những tế bào này. Vì vậy, sự phát triển và trưởng
thành của noãn không thể tách rời với sự phát triển và trưởng thành của các
nang noãn trong buồng trứng của người phụ nữ [Error: Reference source not
found], [Error: Reference source not found], [Error: Reference source not
found].
1.1. Sinh lý sự phát triển nang noãn (Folliculogenesis)


Sự phát triển của nang noãn gồm một chuỗi các sự kiện xảy ra một cách
có trật tự dẫn tới sự phóng noãn ở giữa chu kỳ, bao gồm: sự huy động của các
nang noãn (recruitment), sự chọn lọc nang noãn (selection), sự vượt trội của
một nang noãn (dominance), sự thoái hoá của nang noãn (atresia) và sự phóng
noãn (ovulation) [2], 14, 15
Quá trình này bắt đầu từ sự phát triển của nang noãn nguyên thủy
(primordial follicle), qua các giai đoạn nang noãn sơ cấp (preantral follicle),
nang noãn thứ cấp (antral follicle) và nang trước phóng noãn (Graafian
follicle hay preovulatory follicle) (hình 2). Một chu kỳ phát triển nang noãn
trung bình kéo dài 85 ngày (khoảng 3 chu kỳ kinh và thông thường chỉ có một
nang trưởng thành và phóng noãn trong mỗi chu kỳ kinh [2], [12], [15]
1.1.1. Sự huy động các nang noãn (recruitment)
Mỗi chu kỳ có khoảng vài trăm nang noãn nguyên thủy được huy động
vào nhóm nang noãn phát triển để sau khoảng 12 tuần có một nang noãn đạt
đến giai đoạn trưởng thành và phóng noãn. Cơ chế của sự huy động các nang
noãn nguyên thuỷ vẫn chưa được hiểu rõ. Dường như không phụ thuộc vào sự
2
kiểm soát của tuyến yên và có thể phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của buồng
trứng [2], [12], [15].
Sự phát triển tiếp theo của các nang noãn nguyên thuỷ được huy động là
một quá trình phụ thuộc vào hormone ở cuối chu kỳ kinh nguyệt. Sự thoái hoá
của hoàng thể dẫn tới sự tăng nồng độ FSH, khoảng 1 ngày trước khi bắt đầu
chu kỳ mới FSH tăng làm khởi phát sự phát triển của các nang noãn, tuy
nhiên quá trình này đòi hỏi phải thoả mãn một số điều kiện:
- Nồng độ FSH phải đạt đến một ngưỡng nhất định
- Các thụ thể FSH phải có đầy đủ
- Ngoài ra phải có sự hiện diện của các hệ thống khác như các yếu tố
nội tại buồn trứng [12], [15]
Khi các nang noãn thứ cấp đã được huy động, các nang này sẽ phát triển
về kích thước và chức năng chế tiết hormone. Các tế bào hạt và các tế bào vỏ

nang bên ngoài của màng đáy gia tăng số lượng và có sự tạo khoang chứa
dịch nang bên trong nang. Các tế bào hạt chịu trách nhiệm dinh dưỡng cho
sự phát triển của noãn và thành phần của dịch nang chủ yếu là các chất thấm
từ huyết tương.
Vì vậy, mỗi noãn bào được bao quanh bởi một môi trường đồng nhất.
Song song với sự phát triển về kích thước, chức năng chế tiết hormone của
các nang noãn cũng được phát triển. FSH chủ yếu tác dụng trên tế bào hạt,
trong khi LH tác dụng chủ yếu trên tế bào vỏ và một phần trên tế bào hạt. Thụ
thể LH hiện diện trên tế bào vỏ. LH gắn vào thụ thể của nó trên tế bào vỏ kích
thích tế bào vỏ sản xuất androgen (chủ yếu là androstenedion và
testosterone) từ cholesterole. Androgen được sản xuất từ tế bào vỏ được hấp
thu vào dịch nang và sau đó được tế bào hạt chuyển hoá thành estradiol [2],
[12], [15]
1.1.2. Sự chọn lọc nang noãn (selection)
3
Khoảng ngày 7 của chu kỳ, sự chọn lọc của nang noãn được tiến hành.
Một số nang noãn trong số các nang thứ cấp sẽ được chọn lọc để chuẩn bị
cho sự phóng noãn sau này. Các nang noãn này thường là các nang đáp ứng
tốt với tác dụng của FSH, có nhiều thụ thể của FSH trên các tế bào hạt và chế
tiết nhiều estradiol. Cơ chế của quá trình chọn lọc này chưa được hiểu rõ
[12], 15
1.1.3. Sự vượt trội của một nang noãn (dominance)
Khoảng ngày 8-10 của chu kỳ, một nang noãn đã được chọn lọc sẽ vượt
trội hơn những nang khác đó là do: estradiol tăng sẽ hạn chế giải phóng FSH
từ tuyến yên. từ đó làm hạn chế sản xuất estradiol. Bằng cách này, estradiol
đã tự hạn chế sự tổng hợp chính nó ( hồi tác âm tính). Vì vậy sự phát triển
của các nang bị hạn chế mà chỉ có một nang trội có thể tiếp tục phát triển
với nồng độ FSH thấp hơn do có sự tăng về số lượng các thụ cảm với FSH
[2], [12], [15]
1.1.4. Sự thoái hoá của nang noãn (atresia)

Trong nang noãn vượt trội, hoạt động chế tiết ra estradiol tăng rất nhanh,
đồng thời dưới tác dụng của FSH, nang noãn vượt trội tiết ra Inhibin. Inhibin
ức chế sự chế tiết FSH của tuyến yên, làm cho các nang khác thiếu FSH, làm
giảm khả năng chế tiết estradiol của các nang khác, dẫn đến sự tích luỹ của
androgen và thoái hoá của các nang này [2], [12], 15]
1.1.5. Sự chín muồi của các nang noãn, phóng noãn (ovulation)
Sự phát triển của nang trội sẽ đảm bảo lượng estradiol tăng liên tục. Sau
đó các thụ cảm của LH xuất hiện trên tế bào hạt. Khi lượng estradiol trong
máu tăng trên mức cố định trong vài giờ thì cơ chế hồi tác âm tính lên tuyến
yên thay đổi thành hồi tác dương tính. Nói cách khác, estradiol không còn hạn
chế được sự giải phóng LH lâu mà còn kích thích LH. Do vậy, xung lượng LH
cũng tăng lên cả về tần số và biên độ, sự giải phóng LH tăng lên dẫn đến hiện
4
tượng phân bào giảm nhiễm (sự trưởng thành noãn). Hơn nữa sự sản xuất
estradiol giảm nhanh và các tế bào hạt được kích thích sản xuất progesterone
và các yếu tố cần thiết cho phóng noãn [2], [12], 15]
Dưới tác dụng của LH, nang noãn càng chín nhanh lồi ra phần ngoại vi
của buồng trứng rồi vỡ, phóng noãn ra ngoài. Sự phóng noãn bắt đầu khoảng
10-12 giờ sauu đỉnh LH đạt tới mức cao nhất của LH (gấp 6-10 lần so với thời
điểm 16giờ trước phóng noãn) và 34 -36 giờ sau mức LH bắt đầu tăng. Sau
khi LH đạt tới mức cao nhất, lượng LH tụt nhanh xuống ngang với mức LH ở
thời điểm bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt [12]
1.1.6. Sự hình thành và phát triển của noãn (Oogenesis)
Sự phát triển của noãn là sự hình thành, lớn lên và trưởng thành của noãn.
Quá trình này bắt đầu từ rất sớm trong bào thai và chấm dứt vào tuổi mãn kinh
của người phụ nữ, gồm 4 giai đoạn:
- Nguồn gốc ngoài cơ quan sinh dục của tế bào mầm nguyên thuỷ và sự
di chuyển các tế bào mầm vào cơ quan sinh dục
- Sự gia tăng số lượng các tế bào mầm bằng gián phân
- Sự giảm chất liệu di truyển bằng giảm phân

- Sự trưởng thành về cấu trúc và chức năng của noãn
1.2. Cấu trúc của một nang noãn.
Giai đoạn trước khi chín, noãn là một tế bào hình tròn lớn có nhân
tương đối to. Nhân này được gọi là nang mầm. Noãn bào được bao quanh bởi
lớp trong suốt gọi là màng trong suốt. Lớp tế bào hạt quanh màng trong suốt
có hình trụ có các nhánh bào tương ấn sâu vào noãn. Đây là đường vận
chuyển thông tin và cung cấp chất dinh dưỡng [2]
Noãn bào được bao bọc bởi một màng bào tương. Trên bề mặt noãn có
nhiều vi nhung mao. Nằm ngay dưới màng tế bào là lớp hạt vỏ có vai trò là
một cơ quan nội bào [2].
5
Trong giai on chớn, cỏc bo tng ca t bo ht thu li do ú noón cú
th phỏt trin thờm. Ngay trc khi c gii phúng ra khi nang noón, noón
tin hnh phõn chia gim nhim v cc cu th nht c hỡnh thnh. Noón
bo I tr thnh noón bo II ch cũn li 2 nhim sc th. Vo cui thi k phõn
bo nguyờn nhim, noón bo II loi cc cu II ra ngoi tr thnh tin nhõn
cỏi cú 23 NST [2], [4]
Hình 2. Sự phát triển của nang noãn trong chu kỳ kinh nguyệt [Error:
Reference source not found]
- Lp t bo v ngoi (Theca extema cells)
- Lp t bo v trong (Theca intema cells)
- H thng li mao mch (Capillary network)
- Mng ỏy (Basement membrane)
- Cỏc lp t bo ht (Granulosa cells)
- Noón (Oocyte)
- Cỏc lp t bo quanh noón (Cumulus and corona radiate cells)
1.2.1. Nang noón cha phỏt trin
6
Các lớp tế bào hạt
Noãn

Các lớp tế bào hạt quanh noãn
Khoang chứa dịch
Màng đáy
Tế bào vỏ trong
Tế bào vỏ ngoài
(Nang
noãn đặc)
(Nang noãn
có hốc)
Là những nang noãn nguyên thuỷ thấy trong buồng trứng của thai nhi
sắp ra đời, của bé gái từ khi chào đời cho đến phụ nữ trưởng thành đang ở lứa
tuổi sinh đẻ. Cấu trúc rất đơn giản, bao gồm: một noãn bào 1 đang ngừng
phân chia ở cuối tiền kỳ lần phân chia thứ nhất của quá trình giảm phân. Một
hàng tế bào nang dẹt vây quanh noãn bào 1. Tế bào nang rất nghèo bào quan
và liên kết với nhau bởi thể liên kết [1] ư, [3 ngọc]
1.2.2. Nang noãn phát triển:
Chỉ thấy từ khi dậy thì đến khi mãn kinh. Quá trình phát triển trải qua
nhiều giai đoạn:
* Nang noãn nguyên phát:
Nang noãn nguyên phát lớn hơn nang noãn nguyên thủy, từ trong ra
ngoài cấu tạo bởi: noãn bào 1 đang lớn lên và tiếp tục ngừng quá trình phân
bào. Màng trong suốt nằm giữa noãn và các tế bào nang. Một lớp tế bào nang
đã cao lên tạo thành biểu mô vuông đơn hay trụ đơn nằm ngoài màng trong
suốt. Màng đáy lót ngoài nang noãn [1], [3 ngọc]
* Nang noãn thứ phát: tiến triển qua nhiều giai đoạn
- Nang noãn đặc: Từ trong ra ngoài có cấu tạo
. Noãn bào 1 nằm ở trung tâm đang tiếp tục lớn lên và vẫn ngừng quá
trình phân bào.
. Màng trong suốt rất rõ vì đã dày lên
. Lớp tế bào hạt gồm những tế bào nang hình đa diện tạo thành một biểu

mô tầng gồm nhiều hàng tế bào.
. Màng đáy vỏ liên kết mỏng, giới hạn bên ngoài khó phân biệt với mô kẽ
[1], [3 ngoc]
- Nang noãn có hốc:
Khi nang noãn có đường kính 200 µm và lớp hạt có 6-10 hàng tế bào, ở
một số nơi trong lớp tế bào nang xuất hiện nhiều khoảng trống nhỏ chứa chất
7
lỏng gọi là dịch nang. Dịch nang là dịch thấm từ huuyết tương nhưng có nhiều
hyaluronate, những yếu tố phát triển, steroid và các hormone hướng sinh dục.
Lúc mới đầu những hốc nhỏ và nhiều, sau đó họp lại thành hốc lớn hơn. Noãn
bào 1 chứa trong nang noãn lớn dần và vẫn tiếp tục ngừng phân bào. Vỏ liên
kết ngày càng rõ rệt [1], [3 ngọc]
- Nang noãn có hốc điển hình
Dịch trong các hốc nang noãn ngày càng nhiều, các hốc ngày càng lớn
rồi thông với nhau thành một hốc duy nhất. Các tế bào nang tạo thành hốc
nang noãn, đám tế bào nang vây quanh noãn bào 1 tạo thành gò noãn lồi vào
trong hốc.
Noãn bào 1 tiếp tục lớn lên khi có đường kính 100 µm thì ngừng lại. Nó
vẫn được ngăn cách với tế bào nang bởi màng trong suốt. Hàng tế bào nang
nằm sát màng trong suốt có hình trụ và được gọi là vòng tia. Màng đáy bọc
xung quanh lớp hạt. Vỏ liên kết được chia làm 2 lớp rõ rệt:
- Lớp vỏ trong: cấu tạo bởi những tế bào hình thoi hay đa diện gọi là tế
bào vỏ có đặc điểm cấu tạo của tế bào nội tiết có quan hệ mật thiết với hệ
thống lưới mao mạch, tiết ra estrogen
- Lớp vỏ ngoài: cấu tạo bởi những tế bào và sợi liên kết xếp thành vòng
đồng tâm xen lẫn với một ít sợi cơ trơn để bọc quanh nang noãn. [1], [3 ngoc]
- Nang noãn chín:
Nang noãn chín có kích thước khá lớn đường kính có thể lên đến 20mm,
lồi lên bề mặt buồng trứng và có thể thấy bằng mắt thường, cấu trúc tương tự
như nang noãn có hốc điển hình, chỉ khác một vài đặc điểm: hốc chứa dịch

nang rất lớn. Lóp hạt thành của hốc nang noãn rất mỏng chỉ gồm vài hàng tế
bào nang. Gò noãn lồi hẳn vào trong hốc chứa dịch nang noãn dính vào thành
hốc bởi 1 eo nhỏ cấu tạo bởi một ít tế bào nang. Màng trong suốt rất dày
khoảng 30- 40µm [1] ơ3 ngọc]
8
2. KHÁI NIỆM DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG
2.1. Định nghĩa
Dự trữ buồng trứng là khả năng cung cấp noãn của buồng trứng. Nó bao
gồm 2 khía cạnh là số lượng nang noãn và chất lượng noãn.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến dự trữ buồng trứng
2.2.1. Tuổi:
Phụ nữ sinh ra với lượng nang noãn sơ cấp xác định. Số lượng nang noãn
không tăng thêm mà chỉ có thể giảm đi theo tuổi. Tuổi càng cao lượng nang
này càng giảm đi. Trong xã hội phát triển, độ tuổi lập gia đình và có con
khuynh hướng tăng dần, đối tượng phụ nữ trên 30 tuổi có nhu cầu sinh con và
điều trị vô sinh ngày càng tăng. Tuy là yếu tố liên quan mật thiết tới dự trữ
buồng trứng tuổi không giúp xác định dự trữ buồng trứng trên một bệnh nhân
cụ thể. Có người vẫn mang thai và sinh con tự nhiên khi đã ngoài 40, cũng
như có những người mãn kinh hoàn toàn khi còn trong tuổi 30.
Vào giai đoạn cuối của độ tuổi sinh sản, số lượng nang noãn còn khá ít vầ
đa phần có những bất thường trong cấu trúc cũng như chức năng [1]. Những
thống kê về dân số cho thấy khả năng sinh sản của người phụ nữ giảm rõ rệt
khi quá 35 tuổi và hầu như có rất ít phụ nữ sinh con khi quá 40 tuổi [2] mặc
dù kinh nguyệt chỉ thực sự chấm dứt khoảng tuổi 45-50 [3] (Minh)
Theo thống kê tại đơn vị Thụ tinh ống nghiệm, khoa Hiếm muộn BV Từ
Dũ, tỷ lệ có thai giảm từ 50% ở phụ nữ dưới 30 tuổi xuống còn 10% ở phụ nữ
trên 40 tuổi, tính theo tất cả nguyên nhân gây vô sinh [4]. Những con số này
tương ứng với các kết quả khảo sát được công bố trên thế giới [5]. Vai trò của
yếu tố tuổi càng thể hiện rõ hơn qua kỹ thuật cho trứng. Với kỹ thuật này,
trứng của người cho trẻ tuổi hơn được sử dụng giúp tỷ lệ thành công đạt trên

9
50% [4], [6]. Tuy nhiên, yếu tố tuổi không cho phép kết luận về khả năng sinh
sản hay dự trữ buồng trứng trên từng bệnh nhân cụ thể [7]
Khả năng sinh sản của người phụ nữ giảm xuống nhanh chóng theo lứa
tuổi. Tỉ lệ không có thai trong vòng 12 tháng ở phụ nữ dưới 20 tuổi là dưới
5%, tăng lên 30% ở lứa tuổi 35, và tăng đến gần 100% ở tuổi 45 [6 hà]. Lý do
chính của sự giảm cơ hội có thai này là do sự giảm dự trữ buồng trứng với sự
giảm số lượng và chất lượng trứng theo lứa tuổi [8]. Biểu đồ 1 cho thấy, cùng
với sự tăng lên của tuổi, số lượng nang trứng giảm xuống nhanh chóng và
cùng với đó là cơ hội có thai của người phụ nữ cũng giảm xuống nhanh
chóng. Biểu đồ 2 cũng chỉ ra rằng, không những số lượng nang trứng giảm
mà chất lượng trứng cũng giảm nhanh chóng theo lứa tuổi [10].
Biểu đồ 1: Sự giảm số lượng nang trứng từ khi sinh ra đến khi mãn kinh
10
Sự suy giảm nang noãn từ khi sinh đến khi mãn kinh
Số lượng nang noãn
Tuổi
Biểu đồ 2: Mối liên quan giữa số lượng và chất lượng trứng theo tuổi [vẽ
theo Bruin & Velde 2004]
2.2.2. Tiền sử phẫu thuật buồng trứng và tiêu khung
2.2.3. Những nguyên nhân khác
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG (ORTs)
Có 2 loại phương pháp đánh giá dự trữ buồng trứng là phương pháp thụ
động bao gồm xét nghiệm nội tiết và siêu âm và các phương pháp kích thích)
2.1. Các phương pháp thụ động đánh giá dự trữ buồng trứng
Phương pháp thụ động bao gồm các xét nghiệm hormone và siêu âm.
Trong đó, các xét nghiệm hormone bao gồm sự đo lường trong huyết thanh
nồng độ cơ bản của hormone kích thích nang trứng (FSH), oestradiol (E2),
11
Số lượng trứng

Tỷ lệ trứng kém chất lượng
Tuổi
Giai đoạn sinh
sản tối ưu
Suy giảm khả
năng sinh sản
Kết thúc tuổi
sinh sản
Mãn kinh
inhibin-B và anti-Mullerian hormone (AMH). Siêu âm bao gồm: đếm số
lượng nang trứng cơ sở (AFC), đánh giá mạch buồng trứng và đo thể tích
buồng trứng [6].
2.1.1. Định lượng FSH ( Follicle Stimulating Hormone) ngày 3 vòng kinh
Một trong những xét nghiệm thường được đề cập đến nhất là xét nghiệm
nội tiết tố kích thích nang noãn (FSH) vào đầu kỳ kinh ( ngày 2 hoặc ngày 3
vòng kinh) [8, 12 Minh]. Chức năng của FSH là kích thích sự phát triển của
nang noãn, giúp nang noãn phát triển về kích thước, tăng chế tiết estrdiol để
chuẩn bị niêm mạc tử cung. Khi người phụ nữ lớn tuổi hay nói chính xác hơn
là khi buồng trứng không còn nhiều nang noãn tốt, lượng Inhibin B do các
nang noãn tiết ra ít đi, FSH ít bị ức chế phản hồi [13]. Nói cách khác, xét
nghiệm vào đầu chu kỳ kinh cho thấy ở phụ nữ hiện tượng tăng FSH hầu như
đồng nghĩa với sự suy giảm dự trữ buồng trứng. Một số nghiên cứu cho thấy
ở phụ nữ hiện tượng tăng FSH xuất hiện trước thơì điểm mãn kinh 5 năm [14]
- Cơ chế: FSH là hormone do tuyến yên tiết ra. Khi số lượng nang trứng
ở buồng trứng giảm và cùng với đó là hormone do nang trứng tiết ra cũng
giảm (oestradiol) sẽ tạo hiệu ứng feedback lên tuyến yên và tuyến yên sẽ tăng
tiết FSH với mục đích kích thích buồng trứng tăng tiết hormone (oestradiol).
Chính vì vậy, nồng độ cao của FSH trong huyết thanh sẽ gián tiêp cho biết dự
trữ buồng trứng giảm [8].
- Thời gian làm xét nghiệm: Thời gian làm xét nghiệm FSH thích hợp là

quan trọng để kết quả xét nghiệm có giá trị dự báo [8]. Test này được làm vào
ngày 2 hoặc 3 của chu kỳ kinh nguyệt với định nghĩa ngày 1 của chu kỳ kinh
nguyệt là ngày đầu tiên ra đẫm máu (full flow). Tuy nhiên, giá trị FSH thay
đổi rất ít trong vòng từ ngày 2 đến ngày 5 của cùng một chu kỳ, do vậy, xét
nghiệm FSH bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian này cũng cho kết
quả có thể sử dụng được [7]. Một điều lưu ý là khi buồng trứng có tồn tại
12
những nang chức năng có khả năng tiết oestradiol, khi đó, nồng độ FSH sẽ bị
thay đổi, vì vậy, siêu âm đầu dò âm đạo ngày 2 – 3 của chu kỳ cùng với thời
gian làm xét nghiệm FSH là cần thiết để kết quả xét nghiệm có giá trị [1].
- Giá trị của xét nghiệm: FSH rõ ràng có liên quan đến dự trữ buồng
trứng. Tuy nhiên vệc diễn giải kết quả của FSH trên một bệnh nhân cụ thể
không đơn giản. Giá trị FSH có khả năng thay đổi và có thể rất khác nhau khi
đo ở những chu kỳ khác nhau. Ở những bệnh nhân có đáp ứng buồng trứng
rất tốt, biên độ giao động của giá trị FSH giữa các chu kỳ không lớn, trái
ngược với bệnh nhân có buồng trứng đáp ứng kém [15]. Nghiên cứu cho thấy
qua nhiều lần đo chỉ cần có một lần cho kết qua FSH cao bất thường cũng có
thể dự báo tình trạng đáp ứng kém của buồng trứng [16]
Nhiều ngưỡng giá trị khác nhau cua FSH được đề ra tuỳ theo tác giả và
hệ thống xét nghiệm, thông thường trong khoảng 15-20mIU/ml [16] [18
Minh] nồng độ FSH > 10mUI/ml được cho là dự báo dự trữ buồng trứng giảm
[6]. Những phụ nữ làm IVF có nồng độ FSH ngày 2 (3) < 15mUI/ml có cơ
hội có thai cao gấp 2 lần so với những phụ nữ có nồng độ FSH từ 15 – 25
mUI/ml [6]. Phụ nữ có nồng độ cơ bản FSH > 20mUI/ml cơ hội có thai giảm
xuống rõ rệt [9]. Một nghiên cứu meta – analysis gần đây đưa ra kết luận rằng
FSH chỉ có khả năng dự báo đáp ứng kém của buồng trứng và cơ hội có thai
khi nồng độ cơ bản FSH ở ngưỡng rất cao [4].
- Hạn chế: nồng độ cơ bản của FSH có giá trị dự báo dự trữ buồng trứng
muộn, chỉ có giá trị dự báo đáp ứng kém của buồng trứng chứ không có giá trị
dự báo đáp ứng quá mức buồng trứng, không những thế, giá trị dự báo chỉ có

ở ngưỡng FSH rất cao. Đồng thời, tính biến thiên của FSH giữa các chu kỳ
kinh nguyệt là lớn nên phải làm lại xét nghiệm sau mỗi chu kỳ kích thích
buồng trứng [10].
13
2.1.2. Oestradiol huyết thanh (E2)
- Phần lớn oestradiol (E2) được sản xuất từ các tế bào hạt của buồng
trứng, ngoài ra, còn có sự chuyển hóa E2 từ testosterone. E2 cũng được sản
xuất một phần nhỏ từ vỏ thượng thận, não…[6]. Khi bước vào tuổi 40-45 pha
nang noãn của người phụ nữ bị rút ngắn lại còn khoảng 10,4 ngày so với 16,9
ngày của phụ nữ lứa tuổi 18-20 [19]. Khảo sát cho thấy nhiều nang noãn hơn
được chiêu mộ trong giai đoạn gần tuổi mãn kinh. Chính sự gia tăng này gây
tăng lượng estradiol (E2) chế tiết vào máu, góp phần rút ngắn pha nang noãn.
Cũng cần lưu ý tăng E2 có thể do sự hiện các nang chức năng của buồng
trứng. Đo lượng E2 đơn thuần đôi khi khó diễn giải kết quả vì E2 tăng trước
FSH nhưng sẽ giảm đi gần thời điểm mãn kinh trong khi FSH sẽ tăng liên tục
cho đến giai đoạn hậu mãn kinh. Cách tốt nhất là phối hợp E2 với FSH. Ngay
cả khi FSH còn trong giới hạn bình thường , nếu E2 vượt quá 75 hoặc 80
pg/ml khả năng có thai giảm rõ rệt [20, 21 Minh], ứng với mỗi hệ thống xét
nghiệm đều có những ngưỡng giá trị E2 riêng cần được thiết lập để có thể
giúp tiên lượng dụ trữ buồng trứng
- Thời gian làm xét nghiệm: để đánh giá dự trữ buồng trứng, xét nghiệm
E2 được làm vào ngày 2 (hoặc 3) của chu kỳ kinh nguyệt – cùng với thời
điểm làm xét nghiệm FSH.
- Giá trị của xét nghiệm: Dự trữ buồng trứng được coi là giảm khi nồng
độ E2 ngày 3 >75pg/ml. Nồng độ cơ bản của E2 được chỉ ra rằng có mối
tương quan ngược chiều với đáp ứng của buồng trứng với kích thích bằng
gonadotropin, và những bệnh nhân IVF có nồng độ cơ bản E2 cao (>
80pg/ml) có tỉ lệ hủy chu kỳ cao hơn và tỉ lệ có thai thấp hơn bất kể nồng độ
cơ bản FSH như thế nào [9]. Nghiên cứu của Hansen và cộng sự [7] chỉ ra
rằng ngay khi nồng độ FSH < 20 mUI/ml, không có trường hợp nào có thai

khi E2 > 75 pg/ml
14
- Hạn chế: Một meta – analysis từ 10 nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng giá
trị dự báo đáp ứng kém của buồng trứng và cơ hội có thai của E2 là thấp [4].
2.1.3. Progesteron huyết thanh
Có mối liên quan giữa hiện tượng hoàng thể hóa sớm, sự tăng lên sớm
của P4 với dự trữ buồng trứng kém.
- Thời gian xét nghiệm: Ngày 10 của chu kỳ kinh nguyệt
- Giá trị của xét nghiệm: nồng độ P4 > 1,1 có thể liên quan khả năng đáp
ứng kém của buồng trứng. Sự tăng lên của tỉ lệ P4: E2 ở cuối phase nang noãn
có thể liên quan đến đáp ứng buồng trứng kém ở các chu kỳ IVF với phác đồ
dài agonist [8].
- Hạn chế: nồng độ P4 huyết thanh có thể có vai trò trong các chu kỳ IVF
nhưng dường như không có vai trò độc lập nào trong việc đánh giá dự trữ
buồng trứng [6].
2.1.4. Định lượng Inhibin – B ngày 3 vòng kinh
Đây là một nội tiết không phải steroid do buồng trứng tiết ra, có tác dụng
ức chế FSH [22 mminh]. Hiện nay có nhiều loại Inhibin được phát hiện trong
đó Inhibin-B đang được tập trung nghiên cứu. Không như Inhibin- A do nang
noãn vượt trội tiết ra vào cuối pha nang noãn biểu thị độ trưởng thành của
nang noãn. Inhibin-B do nang noãn được chiêu mộ tiết ra biểu thị chất lượng
của những nang noãn này [11 minh]. Inhibin – B được chế tiết từ cuối pha
nang hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt trước và tăng dần cho đến pha nang
noãn của chu kỳ kinh nguyệt tiếp sau [23 minh]. Ở những phụ nữ trên 35 tuổi
nồng độ Inhibi- B trong máu giảm đi rõ rệt [24]. Có nghiên cứu cho rằng nếu
lượng Inhibin- B đo được ở ngày 3 vòng kinh thấp dưới 45pg/ml thường đáp
15
ứng kém với kích thích buồng trứng, số trứng chọc hút được ít và tỷ lệ có thai
thấp [25 minh]
- Là protein với trọng lượng phân tử 32kDa, thuộc họ TGF- β, có tác

dụng ngăn cản tuyến yên sản xuất ra FSH. Được sản xuất bởi TB hạt ở giai
đoạn sớm và giữa của pha nang noãn [11].
- Thời gian làm xét nghiệm: Ngày 2 (3) của chu kỳ kinh nguyệt
- Giá trị của xét nghiệm: nồng độ inhibin-B ngày 3 của chu kỳ < 45pg/ml
dự báo dự trữ buồng trứng kém. Nghiên cứu của Seifer DB và cộng sự [11]
chỉ ra rằng, bệnh nhân với nồng độ inhibin-B ngày 3 < 45pg/ml có đáp ứng
với gonadotropins kém hơn, tỉ lệ hủy chu kỳ cao hơn, số lượng trứng thu được
ít hơn và tỉ lệ có thai thấp hơn so với bệnh nhân có nồng độ inhibin-B ngày 3
> 45pg/ml.
- Hạn chế: Phải làm xét nghiệm vào ngày 2 (3) của chu kỳ. Inhibin-B chỉ
có giá trị dự báo đáp ứng kém của buồng trứng, không có giá trị dự báo đáp
ứng quá mức của buồng trứng
2.1.5. Anti-Mullerian Hormone – AMH
- AMH là một glycoprotein, ở phụ nữ, được sản xuất ra từ các tế bào hạt
bởi các tiền nang và các nang nhỏ của buồng trứng có tác dụng điều hòa tình
trạng tạo noãn bằng việc hạn chế sự tuyển mộ quá mức các nang noãn của
FSH [5].
- Thời gian xét nghiệm: vào bất kỳ ngày nào của chu kỳ hay từ dịch nang
noãn
- ý nghĩa của xét nghiệm [10]: Nồng độ AMH ở các lứa tuổi khác nhau
có ý nghĩa khác nhau. Dựa vào biểu đồ về mối tương quan giữa nồng độ
16
AMH và tuổi sẽ cho biết giá trị AMH của bệnh nhân ở mức bình thường hay
không bình thường
+ Bình thường: 25
th
-75
th
percentile
+ AMH dưới 25

th
percentile: dự báo dự trữ buồng trứng kém
+ AMH trên 75
th
percentile: dự báo nguy cơ quá kích buồng trứng
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa nồng độ AMH và tuổi
- Ưu điểm của AMH:
+ Có giá trị dự báo dự trữ buồng trứng sớm vì được tiết ra bởi các tiền
nang và các nang nhỏ của buồng trứng
17
Nhóm tuổi
Khoảng thang chiếm ngững AMH của nữ giới
Dựa trên sàng lọc bệnh nhân vô sinh
+ Có thể xét nghiệm vào bất kỳ ngày nào chứ không liên quan đến chu
kỳ kinh như FSH, inhibin-B… [5]
+ Có giá trị dự báo trong một thời gian dài.
+ Có khả năng dự báo cả đáp ứng kém và đáp ứng quá mức của
buồng trứng
+ GnRH – agonist, thuốc tránh thai không ảnh hưởng đến nồng độ AMH,
do vậy có thể xét nghiệm AMH ngay ở chu kỳ có sử dụng thuốc này.
- Hạn chế:
+ Hiểu biết về xét nghiệm này còn hạn chế [6],[10].
+ Giá thành và kỹ thuật của xét nghiệm: AMH được cho là xét nghiệm
đắt hơn các xét nghiệm đánh giá dự trữ buồng trứng khác. Hiện nay, tại IVF
Australia, giá thành cho một xét nghiệm AMH là 60AUD [10].
2.1.6.Siêu âm đếm nang thứ cấp (Antral Follicle Count – AFC)
- AFC: Được tính bằng tổng số nang trứng kích thước từ 2 – 10 mm
(kích thước trung bình) đếm được qua siêu âm đầu dò âm đạo ở cả 2 bên
buồng trứng [6].
- Thời gian làm siêu âm: Ngày 2 (3) của chu kỳ kinh hay ngày 1 sử dụng

gonadotropins.
- Giá trị của xét nghiệm:
+ Bình thường mỗi buồng trứng có từ 5 – 10 nang trứng (AFC từ 10 - 20) [10]
+ IVF Chicago đưa ra một bảng về mối liên quan giữa AFC và đáp ứng
của buồng trứng với thuốc kích thích và cơ hội thành công của IVF như sau:
18
Bảng 3. Tương quan giữa AFC và kết quả thụ tinh trong ống nghiệm
(IVF chicago)
AFC Đáp ứng của buồng trứng khi tiêm thuốc kích thích và cơ hội thành công của IVF
Dưới 4 Số lượng trứng rất thấp, đáp ứng rất kém hoặc không đáp ứng với KT.
Nguy cơ hủy chu kỳ rất cao
Cân nhắc không làm IVF với chính trứng bệnh nhân này
4 - 6 Số lượng trứng ít, quan tâm đến việc đáp ứng kém với thuốc kích thích
Tỉ lệ hủy chu kỳ cao hơn bình thường.
Tỉ lệ có thai thấp hơn bình thường
7 - 10 Giảm số lượng nang trứng
Tỉ lệ hủy chu kỳ cao hơn bình thường
Cơ hội có thai giảm mức trung bình so với bình thường
11 - 15 Bình thường (thấp), đáp ứng với thuốc KT đôi khi thấp, nhưng thông thường là trung bình
Nguy cơ hủy chu kỳ tăng nhẹ
Cơ hội có thai giảm nhẹ so với nhóm tốt nhất
16 - 30 Bình thường (tốt), đáp ứng của buồng trứng rất tốt với thuốc kích thích
Dường như đáp ứng tốt với một liều FSH thấp.
Rất ít nguy cơ hủy chu kỳ, 1 vài chu kỳ có nguy cơ quá kích.
Tỉ lệ có thai cao nhất so với các nhóm khác.
Trên 30 Số lượng trứng cao, giống như đáp ứng của buồng trứng đa nang
Nguy cơ cao của đáp ứng quá mức và hội chứng quá kích buồng trứng
Tỉ lệ có thai cao, nhưng có vài trường hợp cơ hội có thai giảm
- Ưu điểm: Một số tác giả cho rằng AFC là test nên được lựa chọn đầu
tiên vì những ưu điểm của nó [2]

+ Đơn giản, dễ làm
+ Có giá trị dự báo cả đáp ứng kém và đáp ứng quá mức của buồng trứng
+ Có giá trị dự báo cao
- Hạn chế:
+ Phụ thuộc vào kinh nghiệm và kỹ thuật làm siêu âm của bác sĩ mà trên
cùng một bệnh nhân, kết quả AFC có thể không giống nhau [10].
19
+ Một nghiên cứu meta – analysis từ 15 nghiên cứu khác chỉ ra rằng [4]:
điểm cut-off của AFC để đánh giá dự trữ buồng trứng kém ở các nghiên cứu
khác nhau là rất khác nhau, chỉ có ý nghĩa khi điểm cut-off thấp và AFC có
rất ít giá trị dự báo cơ hội có thai.
+ AFC có giá trị dự báo dự trữ buồng trứng thấp ở các bệnh nhân có
phẫu thuật tại buồng trứng trước đó, các bệnh nhân có lạc nội mạc tử cung ở
buồng trứng, các bệnh nhân có sử dụng hormone tránh thai và các bệnh nhân
có sử dụng liệu pháp với GnRH agonist [12]
2.1.7. Thể tích buồng trứng
Thông thường, thể tích buồng trứng giảm khi tuổi của người phụ nữ tăng
lên, vì vậy đo thể tích buồng trứng được cho là có khả năng dự báo dự trữ
buồng trứng. [8].
Phụ nữ có kích thước buồng trứng nhỏ thường phải dùng nhiều thuốc
kích thích buồng trứng hơn trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản [28 minh]
- Cách tính: Có thể tính thể tích buồng trứng dựa vào siêu âm 2D với
đầu dò âm đạo ở ngày 2 của chu kỳ kinh. Thể tích buồng trứng được tính
bằng D1 x D2 x D3 x π/6 trong đó D1, D2, D3 là kích thước 3 chiều của
buồng trứng [6]
- Giá trị của test: bình thường thể tích buồng trứng từ 3 – 8cm3, khi thể
tích buồng trứng < 3cm3 khả năng đáp ứng với kích thích buồng trứng kém.
Một nghiên cứu đánh giá thể tích buồng trứng của trên 200 chu kỳ IVF liên
tiếp chỉ ra rằng: thể tích buồng trứng thậm chí có giá trị cao hơn FSH và E2
trong dự báo đáp ứng của buồng trứng [6] nhưng ngay cả khi lấy điểm cut-off

thấp, thể tích buồng trứng đơn độc cũng không có giá trị dự báo không có thai
và một meta-analysis đưa ra kết luận rằng thể tích buồng trứng không phù
hợp để được sử dụng như một test thường qui đánh giá dự trữ buồng trứng.
[4].
20
2.1.8. Doppler động mạch buồng trứng
Có thể sử dụng siêu âm Doppler đầu dò âm đạo vào ngày 2 (3) của chu
kỳ kinh nguyệt hay ngày tiêm hCG để đánh giá động mạch buồng trứng. Một
số nghiên cứu chỉ ra rằng Doppler động mạch buồng trứng thấp có liên quan
đến việc sử dụng liều lượng gonadotropins thấp hơn và tỉ lệ có thai cao hơn.
Tuy nhiên, khả năng dự báo đáp ứng buồng trứng của Doppler động mạch
buồng trứng không rõ ràng [6], [8].
2. 2. Các phương pháp “kích thích” đánh giá dự trữ buồng trứng
Khác với những phương pháp đánh giá dự trữ buồng trứng “thụ động”,
trong đó các chỉ số đánh giá được tiến hành đo đạc một lần duy nhất vào một
thời điểm xác định, những khảo sát động thực hiện đo lường cùng những chỉ
số trên theo thời gian, so sánh kết quả và rút ra đánh giá về hoạt động của
buồng trứng. Một số tác nhân kích thích buồng trứng như Clomiphencitrat,
FSH và GnRH-a được sử dụng để đặt buồng trứng trong những điều kiện
tương tự nhau, hạn chế những thay đổi ngẫu nhiên về hoạt động của buồng
trứng giữa các chu kỳ nang noãn để có thể đánh giá chính xác hơn đáp ứng
của buồng trứng
2.2.1. Nghiệm pháp Clomiphene Citrate (Clomiphene citrat challenge test –
CCCT)
Với giả thuyết rằng nếu buồng trứng bình thường nó sẽ có đủ nang noãn
phát triển để chế tiết ra đủ lượng inhibin và E2 qua đó ức chế sản xuất FSH từ
tuyến yên dưới tác động kháng estrogen của clomiphen citrate. Trên lý thuyết
CCCT cho phép phát hiện những suy giảm dự trữ buồng trứng mà do FSH
hoặc E2 thông thường vào đầu vòng kinh chưa thể phát hiện được
Nghiệm pháp bao gồm đo FSH và E2 vào ngày 3 vòng kinh , CC

100mg/ngày được dùng từ ngày 5 đến ngày 9 vòng kinh. Sau đó FSH và E2
được đo lại vào ngày 10 vòng kinh. FSH sẽ tăng cao ( >10-20mIU/ml) nếu dự
21
trữ buồng trứng giảm. Khảo sát của Scott và cộng sự 1993 cho thấy 10% bệnh
nhân vô sinh có đáp ứng bất thường với CCCT [31 minh]. Một nghiên cứu
khác nhận thấy CCCT giúp tiên đoán dự trữ buồng trứng tốt hơn đo nồng độ
FSH ngày 3 đơn thuần [30] minh
- Phương pháp: Đo nồng độ cơ bản của FSH, LH, E2 (ngày 2 – 3 của chu
kỳ) – sau đó cho bệnh nhân uống 100mg CC/ngày trong 5 ngày từ ngày 5 đến
ngày 9. Đo lại nồng độ của các hormone này ngày 10 (9 - 11) [6].
- Giá trị của nghiệm pháp bình thường FSH < 12. Nghiệm pháp này có
giá trị dự báo khả năng có thai ở các chu kỳ tự nhiên. Nồng độ cơ bản FSH và
CCCT có giá trị tương tự nhau trong việc dự báo khả năng có thai [8]. Các
nghiên cứu so sánh gần đây chỉ ra rằng, CCCT không có giá trị dự báo tốt hơn
FSH, AFC do độ đặc hiệu của test thấp, chính vì vậy nghiệm pháp này không
được sử dụng thường qui để đánh giá dự trữ buồng trứng [4].
2.2.3. GnRH-agonist stimulation test (GAST)( Gonadotropin releasinh
Hormone Agonist Stimulation Test – GAST ) [6, 13 minh].
Với tác dụng flare up của GnRHa tuyến yên tiết ra FSH kích thích sự
phát triển nang noãn trong buồng trứng. E2 được theo dõi sau khi bệnh nhân
được dùng GnRHa. Có 4 thay đổi của E2 được ghi nhận bao gồm: tăng tức
thời và giảm dần vào ngày 4; tăng muộn và giảm vào ngày 6, duy trì ở mức
cao; không tăng sau GnRHa. Tỷ lệ có thai lâm sàng theo từng loại đáp ứng
lần lượt là 46%; 38%; 16% và 6% [10]. Nghiên cứu của Winslow và cộng sự
cho thấy GAST cho phép đánh giá chính xác hoạt động của buồng trứng hơn
biện pháp đo FSH thông thường [13 minh]. Tuy nhiên cũng có những ý kiến
bất đồng với nhận định trên [6,32 minh]. Nghiệm pháp này thực hiện khá
phức tạp nên ít được áp dụng rộng rãi trên lâm sàng
Bình thường, đáp ứng với GnRH agonist là sự tăng lên của E2 sau khi
giảm nồng độ của hormone này. Sự suy giảm dự trữ buồng trứng có thể phát

22
hiện qua kết quả của FSH nội sinh và E2 sau khi sử dụng GnRH agonist. Khi
được sử dụng ở các phụ nữ có kinh nguyệt đều đặn, GAST chứng tỏ rằng có
khả năng dự báo đáp ứng kém của buồng trứng, tuy nhiên cần có những
nghiên cứu rộng hơn để chứng tỏ sự đúng đắn của test này [4].
2.2.2. FSH ngoại sinh đánh giá dự trữ buồng trứng (Exogenous FSH
ovarian reserve test - EFORT)
Nếu GAST và CCCT đánh giá đáp ứng cuả buồng trứng với FSH nội
sinh thì EFFORT đánh giá thông qua FSH ngoại sinh. Trong nghiệm pháp
này giá trị FSH và E2 được so sánh trước và sau khi bệnh nhân được cho
dùng 300IU FSH ngoại sinh. Buồng trứng được coi là đáp ứng tốt khi nồng độ
E2 sau khi dùng FSH tăng hơn 30pg/ml [33minh]
- Phương pháp: Định lượng FSH (bFSH), E2, inhibin_B ngày 2, ngày 3
bệnh nhân được tiêm 300UI FSH và 24h sau định lượng lại FSH (sFSH), E2,
inhibin B [6].
- Giá trị của test: Bình thường thì nồng độ E2 sẽ tăng, inhibin-B sẽ giảm.
Dựa vào bFSH và sự tăng lên của E2 sẽ sự báo khả năng đáp ứng với FSH
của chu kỳ IVF sau đó. Tuy nhiên nghiên cứu về EFORT chưa nhiều và phạm
vi áp dụng của nó chỉ giới hạn trong đối tượng bệnh nhân điều trị TTTON.
Chỉ có 3 nghiên cứu trong systematic review được tìm thấy có sử dụng
EFORRT tuy nhiên ý nghĩa của test này không rõ ràng [4].
Cho đến nay, không có test kích thích buồng trứng nào được sử dụng một
cách thường xuyên để đánh giá dự trữ buồng trứng.
2.2.4. Đáp ứng với Gonadotropin ở chu kỳ IVF trước đó
Việc đánh giá đáp ứng cuả buồng trứng trong những chu kỳ kích thích
trước cũng có giá trị đặc biệt quan trọng, trong đó buồng trứng được kích
thích và theo dõi trong toàn bộ pha nang noãn. Nếu những thông tin của chu
23
kỳ kích thích buồng trứng được ghi nhận đầy đủ thì đây có thể xem như một
loại nghiệp pháp động được khảo sát trong toàn pha nang noãn. Những thông

tin này giúp lựa chọn phác đồ cũng như liều liều lượng thuốc sử dụng phù
hợp nhất cho bệnh nhân. Tuy nhiên cũng cần nêu rõ rằng các thông tin trong
quá khứ này không thể hoàn toàn thay thế các biện pháp đánh giá tình trạng
hiện tại của buồng trứng. Các thông tin có được từ chu kỳ IVF trước đó rất có
giá trị cho kế hoạch điều trị ở chu kỳ IVF tiếp theo. Toàn bộ các thông tin
như số ngày sử dụng FSH, liều lượng FSH, số nang trứng thu được, số
noãn thụ tinh…đều có giá trị cho việc dự báo đáp ứng với chu kỳ điều trị
tiếp theo. Thực tế, các test dự trữ buồng trứng có giá trị dự báo đáp ứng của
buồng trứng ở chu kỳ IVF đầu tiên chứ ít có giá trị ở các chu kỳ IVF tiếp
theo [6], [10].
4. SO SÁNH GIÁ TRỊ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ DỰ
TRỮ BUỒNG TRỨNG
Có nhiều phương pháp đánh giá dự trữ buồng trứng, ứng với mỗi phương
pháp có thông số chỉ “ngưỡng” mà dựa vào đó có thể dự báo kết quả IVF
(bảng 1) [6 hà]
Dựa vào cơ chế hoạt động của các phương pháp, AMH được cho là có
khả năng đánh giá dự trữ buồng trứng sớm nhất vì nó được tiết ra từ các tiền
nang và các nang nhỏ của buồng trứng ( biểu đồ 3) [10 hà]
Đã có rất nhiều nghiên cứu so sánh giá trị của các phương pháp đánh giá
dự trữ buồng trứng. Một nghiên cứu tổng hợp từ 20 nghiên cứu mới công bố
2010 cho thấy AMH tốt hơn FSH, E2, Inhibin-B trong dự báo đáp ứng của
buồng trứng trong các chu ky IVF [1 Hà]

24
Biểu đồ 3 [10]
25

×