Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.47 KB, 37 trang )

Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
MỤC LỤC
1
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THUẾ
1. 1. Tiếp cận vấn đề bản chất của thuế từ các học thuyết
1.1.1. Học thuyết thuế cổ điển
Cho đến nay, dù đã trải qua diễn trình lịch sử khá lâu dài nhưng vấn đề bản chất
của thuế vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh luận. Điều này đã và đang có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình thiết kế, xây dựng và thực thi các luật thuế ở hầu hết các quốc
gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Theo quan niệm cổ điển về thuế, các học giả cổ điển cho rằng bản chất của thuế
được thể hiện rõ nhất ở bốn điểm sau:
• Thuế là khoản trích nộp bằng tiền của tổ chức, cá nhân cho nhà nước;
• Thuế là khoản đóng góp bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước;
• Thuế là khoản thu không có hoàn trả;
• Thuế là khoản thu không có đối khoản trực tiếp.
Đây chính là bốn đặc trưng cơ bản của thuế theo quan niệm cổ điển và các đặc
điểm này vẫn tiếp tục được thừa nhận trong xã hội ngày nay, dù rằng quan niệm này
hiện tại đã có nhiều thay đổi. Có thể nhận thấy điểm hạn chế lớn nhất của quan niệm
cổ điển về thuế chính là ở chỗ nó đã tuyệt đối hoá vai trò của quyền lực nhà nước
trong việc xác lập và hành thu thuế, trên cơ sở nhấn mạnh tính cưỡng chế và bắt buộc,
tính không hoàn trả của thuế. Ngược lại, quan điểm này coi nhẹ vai trò và địa vị kinh
tế, thành phần xã hội của người nộp thuế trong quan hệ nộp thuế với nhà nước.
Trường phái lí luận về thuế ra đời sớm nhất trong lịch sử học thuyết thuế, có lẽ
là học thuyết không tưởng về thuế. Học thuyết này được xây dựng dựa trên ý tưởng
cho rằng sự phức tạp hoá chính sách thuế với nhiều loại thuế khác nhau là không cần
thiết và cần hướng tới xây dựng một loại thuế đơn nhất hay duy nhất, vừa có khả năng
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa có thể thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi của
2
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế


hầu hết dân chúng là người đóng thuế.
1
Các học giả theo quan điểm này cố gắng tìm
cách xây dựng học thuyết thật sự thuyết phục về thuế đơn nhất, tuy nhiên vẫn không
tránh khỏi có nhiều quan điểm khác nhau về các loại thuế đơn nhất
2
. Nói chung, tinh
thần cơ bản của học thuyết về thuế đơn nhất là tìm cách đơn giản hoá đến mức tối đa
các loại thuế trong hệ thống thuế quốc gia nhằm làm giảm gánh nặng thuế khoá cho
dân chúng là người đóng thuế. Vào thời kì đó, học thuyết này được đa số dân chúng
ủng hộ vì họ chính là những người đóng thuế nhiều nhất và phải chia sẻ gánh nặng chi
tiêu với quốc gia nhiều nhất. Cùng chung ý tưởng với học thuyết không tưởng về thuế
nhưng đi xa hơn, các học giả theo trường phái bài thuế đã cố gắng xây dựng trong lòng
dân chúng hình ảnh về xã hội không có thuế. Đây chính là tư tưởng chủ yếu của học
thuyết bài thuế hay chống thuế mà nền tảng lí luận của học thuyết này chính là quan
điểm về kinh tế tự do bảo thủ
3
. Trong thời gian khá dài, học thuyết bài thuế đã trở
thành công cụ sắc bén để các đảng phái chính trị ở các nước châu Âu sử dụng nhằm lôi
kéo sự ủng hộ của dân chúng đối với các đường lối chính trị của đảng mình. Hầu hết
các học giả theo trường phái bài thuế đều tìm cách khuếch trương cho học thuyết của
mình bằng cách làm lu mờ hoặc phủ nhận vai trò của chính phủ và nhà nước trong các
hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội. Nội dung cơ bản của quan điểm này là nếu nhà
nước tỏ ra bất lực trước các đòi hỏi của thị trường thì mọi vấn đề khó khăn của thị
trường phải để cho thị trường tự giải quyết và vì thế nhà nước không cần thiết phải thu
nhiều thuế nữa.
Tuy vậy, cuối cùng thì những nỗ lực trong việc quảng bá vai trò của học thuyết
bài thuế đã không đạt được sự thành công như mong muốn, bởi lẽ ở hầu hết các nước
1 Xem: Michel Bouvier, Nhập môn luật thuế đại cương và học thuyết thuế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005, tr. 286.

2 Vào thế kỉ thứ XVII, XIX, có nhiều trường phái khác nhau về thuế đơn nhất, chẳng hạn như quan điểm về loại
thuế đơn nhất đánh trên đất đai của những người theo trường phái trọng nông; quan điểm về loại thuế đơn nhất
đánh trên vốn hoặc quan điểm về thuế đơn nhất đánh vào hành vi tiêu dùng của dân chúng. Xem: Michel
Bouvier, Sđd, tr. 288 – 295.
3 Xem: Michel Bouvier, Sđd, tr.302.
3
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
trên thế giới, vai trò không thể phủ nhận của thuế đã được hiến pháp ghi nhận như là
nguyên tắc hiến định.
1.1.2. Học thuyết thuế hiện đại
Theo quan niệm hiện đại về thuế, vấn đề bản chất của thuế lại nằm ở các mục
tiêu kinh tế và xã hội của thuế cũng như mối liên hệ đến địa hạt chính trị của thuế. Tuy
không phủ nhận hoàn toàn các đặc trưng cơ bản của thuế theo quan niệm cổ điển
nhưng các học giả hiện đại lại tìm cách chỉ ra những điểm hạn chế của quan niệm cổ
điển về thuế, trên cơ sở đó cho rằng cần nhận thức lại về bản chất mối quan hệ giữa
nhà nước với công dân (với tư cách là người nộp thuế) trong lĩnh vực thuế vụ, dựa trên
nền tảng ý tưởng về một xã hội công bằng và dân chủ: xã hội dân sự.
Kế thừa những nhân tố tinh hoa của học thuyết cổ điển về thuế, các học giả của
học thuyết thuế hiện đại đã và đang cố gắng đi tìm những chân lí mới cho sự tồn tại và
phát triển của thuế trong xã hội đương đại. Trái với những gì mà các học thuyết cổ
điển chủ trương theo hướng phê phán chế độ thuế, các học thuyết hiện đại về thuế lại
tìm cách khẳng định vai trò không thể phủ nhận của thuế trong địa hạt kinh tế và địa
hạt xã hội. Những ví dụ điển hình cho các học thuyết thuế hiện đại là học thuyết về
thuế-trao đổi và sau đó là học thuyết về thuế-đoàn kết.
Học thuyết về thuế-trao đổi bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỉ XVII và đã trở nên
phổ biến ở châu Âu vào nửa đầu thế kỉ XVIII và gần như suốt thế kỉ XIX
4
.
Tư tưởng cốt lõi của học thuyết này được xây dựng dựa trên chủ nghĩa tự do,
coi thuế là cái giá mà người nộp thuế phải trả để đổi lấy các dịch vụ và hàng hoá công

cộng do nhà nước cung ứng. Từ đó, các học giả của trường phái này cho rằng luôn tồn
tại sự “thỏa thuận ngầm” hay “hợp đồng thuế” giữa nhà nước (người thu thuế) với
công dân (người đóng thuế) về số tiền thuế mà họ phải nộp cho nhà nước để nhận lấy
những gì được coi là dịch vụ và hàng hoá công cộng mà bản thân họ không thể tự tạo
ra được. Các đại biểu nổi tiếng cho học thuyết thuế-trao đổi vào thế kỉ XVIII, XIX là
4 Xem: Michel Bouvier, Sđd, tr. 328.
4
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
John Locke, Jean – Jacques Rousseau, Adam Smith và Montesquieu, với tư tưởng về
“hợp đồng thuế” hay “khế ước thuế”. Trên thực tế, học thuyết này đã từng có những
ảnh hưởng rất quan trọng đến chính sách thuế của các nước châu Âu và kể cả Hoa Kỳ
trong nhiều năm và điều này đã kích thích sự phát triển của nền dân chủ xã hội trong
quá trình xây dựng và thực thi chính sách thuế. Tuy nhiên, học thuyết thuế-trao đổi
cũng có một số hạn chế nhất định, chẳng hạn như việc không thể lí giải được vì sao có
những người được hưởng thụ các dịch vụ và hàng hoá công cộng ít hơn nhưng lại phải
nộp thuế nhiều hơn và ngược lại
5
; hay việc người nộp thuế hầu như không có khả
năng lựa chọn các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà mình sẽ “nhận” được cũng như
“giá cả” của các hàng hoá, dịch vụ đó, bởi lẽ đây là những vấn đề hầu như hoàn toàn
do nhà nước quyết định. Đôi khi, rất khó hình dung được giá trị thực tế của các dịch vụ
công cộng mà nhà nước sẽ cung ứng cho người nộp thuế, chẳng hạn như vấn đề quốc
phòng và an ninh, vấn đề văn hoá hay các hoạt động về tư pháp. Vì vậy mà việc xác
định nghĩa vụ thuế của những người nộp thuế cũng trở nên khó khăn hơn.
Do bắt nguồn từ chủ nghĩa tự do nên những người đề xướng học thuyết thuế-
trao đổi chủ trương mọi khoản thuế do nhà nước đặt ra để yêu cầu dân chúng đóng góp
phải dựa trên căn bản sự tự nguyện ưng thuận của dân chúng đồng thời phải tương
xứng với những gì được gọi là hàng hoá và dịch vụ công cộng mà người nộp thuế sẽ
được hưởng. Tư tưởng này có ưu điểm lớn là đảm bảo cho người nộp thuế có khả năng
kiểm soát được các khoản thuế mà nhà nước sẽ thu đối với mình, dựa trên nguyên tắc

đánh thuế phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế. Mặt khác, học thuyết
này cũng đòi hỏi nhà nước phải sử dụng số tiền thuế do dân chúng đóng góp một cách
thực tế, hiệu quả, không lãng phí và có lợi cho dân. Nói cách khác, tư tưởng chủ đạo
của học thuyết thuế-trao đổi chính là hướng tới sự công bằng và bình đẳng về lợi ích
giữa nhà nước (người thu thuế) với công dân (người nộp thuế), dựa trên nguyên tắc
trao đổi lợi ích ngang bằng.
5 Vấn đề này cũng được tác giả Philip E. Taylor bàn đến trong tác phẩm Tài chính công, Trung tâm nghiên cứu
Việt Nam phiên dịch và xuất bản năm 1963, tr. 269.
5
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Bên cạnh học thuyết thuế-trao đổi, còn tồn tại học thuyết khác về thuế hiện đại
với tên gọi học thuyết thuế-đoàn kết
6
. Học thuyết này phát triển rất mạnh vào cuối thế
kỉ XIX, dựa trên tư tưởng về chủ nghĩa đoàn kết cộng đồng. Theo nghiên cứu của một
số học giả phương Tây, sở dĩ có sự xuất hiện của học thuyết thuế-đoàn kết là bởi vì
chính việc chủ trương coi quan hệ thuế có tính chất “sòng phẳng” như quan hệ thị
trường (theo tinh thần của học thuyết thuế-trao đổi) đã dẫn đến những hậu quả về mặt
chính trị và xã hội mà nhà nước không thể giải quyết được, chẳng hạn như vấn đề suy
giảm quyền lực nhà nước trong thuế, vấn đề giải quyết việc làm và trợ cấp xã hội cho
những người không có khả năng tài chính để đóng thuế, vấn đề thất thu thuế và việc
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ thuế… Khác với chủ đề tư tưởng của học thuyết thuế-trao
đổi là dựa trên sự trao đổi ngang giá về lợi ích giữa nhà nước với người nộp thuế, tư
tưởng cốt lõi của học thuyết về thuế-đoàn kết lại đòi hỏi người nộp thuế phải chấp
nhận hi sinh một phần lợi ích của mình cho nhà nước vì lợi ích chung của cộng đồng,
bằng cách nộp thuế cho nhà nước theo sự ấn định thuế của nhà nước
7
. Mặt khác, học
thuyết này cũng đòi hỏi nhà nước phải ấn định nghĩa vụ thuế của người dân sao cho
phù hợp với khả năng tài chính của họ và không đẩy họ vào tình trạng bần cùng sau

khi nộp thuế. Điều đó cũng có nghĩa là nghĩa vụ thuế sẽ luỹ tiến theo cùng với mức độ
gia tăng của các khoản thu nhập của người nộp thuế. Học thuyết này có xu hướng “cào
bằng” nghĩa vụ của những người đóng thuế nếu khả năng nộp thuế của những người
đó là giống nhau. Nói cách khác, học thuyết về thuế-đoàn kết hầu như không quan tâm
đến vấn đề nhu cầu của người nộp thuế (nghĩa là không cần biết người nộp thuế mong
muốn nhận được lợi ích gì sau khi nộp thuế) mà chỉ quan tâm đến khả năng đóng thuế
6 Theo Giáo sư Michel Bouvier, nếu như học thuyết về thuế-trao đổi coi trọng sự cân bằng lợi ích giữa nhà nước
với công dân trong quan hệ nộp thuế, dựa trên nguyên tắc trao đổi công bằng giữa hai bên thì ngược lại, học
thuyết về thuế-đoàn kết lại coi trọng “sự hi sinh” từ phía người nộp thuế đối với cộng đồng, dựa trên ý thức
tương trợ lẫn nhau và đoàn kết cộng đồng.
Xem:
• Michel Bouvier, Nhập môn luật thuế đại cương và học thuyết thuế, Sđd, tr. 335.
• Michel Bouvier, Marie-Christine Esclassan, Jean-Pierre Lassale, Tài chính công, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2005, tr. 717.
7 Tương tự như đối với học thuyết về thuế-trao đổi, quan điểm coi thuế như là sự hi sinh bằng nghĩa vụ tài chính
của người nộp thuế cho lợi ích cộng đồng cũng được tác giả Philip E. Taylor đề cập và phân tích trong tác phẩm
Tài chính công, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam phiên dịch và xuất bản năm 1963, tr. 271.
6
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
của họ như thế nào. Chính điều này khiến cho vai trò của quyền lực nhà nước trong
thuế trở nên mạnh mẽ hơn và do đó khả năng cưỡng chế thi hành nghĩa vụ thuế cũng
tốt hơn. Mặt khác, học thuyết thuế-đoàn kết cũng góp phần nâng cao ý thức và trách
nhiệm xã hội của mỗi người dân đối với nhà nước, với cộng đồng thông qua việc hoàn
thành nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Trong chừng mực nào đó, học thuyết
thuế-đoàn kết dường như phù hợp hơn với bối cảnh của nền kinh tế hiện đại, khi mà sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng trở nên sâu sắc do sự phát triển mạnh mẽ
của kinh tế thị trường, cùng với yêu cầu giải quyết nhanh chóng, triệt để các hậu quả
xấu về phương diện xã hội của các nền kinh tế mở.
Trong lịch sử học thuyết thuế, ngoài hai học thuyết cơ bản nói trên về thuế hiện
đại, người ta còn biết đến một học thuyết khác về thuế, với tên gọi là học thuyết về

thuế-bù đắp.
Thực ra, học thuyết này không hẳn có nhiều điểm mới so với hai học thuyết cơ
bản nêu trên mà chỉ là sự kết hợp và phát triển những tinh hoa hợp lí trong quan điểm
khoa học của học thuyết thuế-trao đổi và học thuyết thuế-đoàn kết. Học thuyết thuế-bù
đắp dựa trên ý tưởng “nếu như nhà nước không sửa chữa những sự bất công do các
cơ chế thị trường vận hành gây ra thì vẫn có một số lượng nhất định những người bị
loại khỏi thị trường lao động mà nhà nước có nghĩa vụ phải giúp đỡ”
8
. Nói cách khác,
tư tưởng chủ đạo của học thuyết thuế-bù đắp là coi thuế như sự trao đổi lợi ích giữa
nhà nước và người nộp thuế nhưng nếu sự trao đổi đó không đảm bảo lợi ích chính
đáng cho tất cả mọi người dân, trong đó có những người nghèo thì cần thiết phải có sự
hi sinh, tương trợ của những người có khả năng đóng thuế đối với nhóm người không
có khả năng đóng thuế, dựa trên tinh thần đoàn kết và tương trợ cộng đồng.
Trong những năm gần đây, học thuyết về thuế-bù đắp nhận được sự ủng hộ của
rất nhiều học giả thuộc lĩnh vực tài chính công và ngày càng có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống thuế quốc gia.
8 Xem: Michel Bouvier, Marie-Christine Esclassan, Jean-Pierre Lassale, Tài chính công, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr. 720.
7
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
1.1.3. Những ảnh hưởng của các học thuyết thuế cổ điển và hiện đại đối với quá
trình phát triển hệ thống thuế ở Việt Nam
Có thể khẳng định rằng sự ra đời của các học thuyết cổ điển cũng như hiện đại
về thuế trên thực tế đã có những tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát
triển và vận hành của các hệ thống thuế trên thế giới.
Đối với Việt Nam, tất cả những gì chúng ta đã chứng kiến về hệ thống thuế
trong thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những cải cách thuế gần đây khi
chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường đã cho thấy những bằng chứng về sự ảnh
hưởng của các học thuyết thuế cổ điển cũng như hiện đại đến quá trình hình thành và

phát triển hệ thống thuế ở Việt Nam.
Một cách khái quát, dù chưa có những thay đổi lớn về quan điểm tiếp cận trong
chính sách thuế hiện nay nhưng những ảnh hưởng của các học thuyết thuế đến hệ
thống thuế hiện hành ở Việt Nam là điều không thể phủ nhận. Sự ảnh hưởng này được
thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, sự truyền bá các học thuyết thuế cổ điển và hiện đại đã trở thành
hiện thực ở Việt Nam trong hơn mười năm trở lại đây. Ngày nay, các tài liệu nghiên
cứu chính thống về lĩnh vực thuế của nhiều học giả nổi tiếng trên thế giới đã và đang
được lưu hành rộng rãi ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây chính là bằng
chứng thể hiện sự tác động của các học thuyết thuế đối với tiến trình đổi mới và cải
cách toàn diện nhưng đầy khó khăn thử thách của Việt Nam sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự ảnh hưởng rõ ràng nhất của các học thuyết thuế đến hệ thống thuế
hiện hành ở Việt Nam có lẽ là những ảnh hưởng đối với quá trình cải cách thuế, đặc
biệt là cải cách hành chính thuế theo hướng cải thiện dần mối quan hệ nhạy cảm giữa
nhà nước với người nộp thuế. Đã từ lâu, người ta vẫn quan niệm rằng thuế giống như
là nghĩa vụ “bất khả tránh” đối với mọi công dân và tổ chức, rằng quan hệ thuế là quan
hệ hành chính mà ở đó Nhà nước là người có “quyền” thu thuế, còn các tổ chức, cá
nhân là người có “nghĩa vụ” đóng thuế, bất luận thái độ và tâm lí của người nộp thuế
8
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
ra sao. Quan niệm này đã dẫn đến tình trạng không bình thường của xã hội dân sự – đó
là tình trạng không bình đẳng giữa Nhà nước với công dân, theo đó Nhà nước có thể tự
ý xây dựng các chính sách thuế có lợi cho mình nhiều hơn và bất lợi cho những người
đóng thuế nhiều hơn, dù rằng về nguyên tắc, các chính sách thuế của Chính phủ đều
do Quốc hội với tư cách là đại diện nhân dân biểu quyết thông qua. Ngày nay, những
đổi mới trong cách tiếp cận dưới tác động của các học thuyết thuế hiện đại đã làm cho
chính sách thuế hiện hành ở Việt Nam có nhiều điểm tiến bộ, phù hợp hơn với xu
hướng phát triển chung của các chính sách thuế đương đại. Đáng kể nhất đó là việc
ban hành Luật quản lí thuế năm 2006 theo hướng giảm dần tính mệnh lệnh hành chính

trong quan hệ thuế và trao quyền chủ động nhiều hơn cho người nộp thuế trong việc
thi hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Đặc biệt, việc ghi nhận trong luật pháp về quyền
đối kháng của người nộp thuế (bao gồm quyền khiếu nại và khởi kiện về thuế đối với
cơ quan thuế) cũng như nghĩa vụ bồi thường của Nhà nước cho người nộp thuế khi họ
bị thiệt hại do hành vi thu thuế không đúng luật của cơ quan thuế chính là bằng chứng
thể hiện sự ảnh hưởng của học thuyết thuế-trao đổi đối với tiến trình cải cách hành
chính thuế ở Việt Nam.
Thứ ba, trong chính sách thuế hiện hành ở Việt Nam, nghĩa vụ thuế được quy
định không phải theo xu hướng “cào bằng” mà có sự phân biệt giữa người có thu nhập
cao với người có thu nhập thấp và người không có thu nhập theo hướng người có khả
năng tài chính tốt hơn sẽ phải đóng thuế nhiều hơn . Quy định này đã phần nào phản
ánh đúng quan điểm chủ đạo của học thuyết thuế-bù đắp, nghĩa là kêu gọi sự sẻ chia,
giúp đỡ của những người có khả năng đóng thuế cho những người không có khả năng
đóng thuế trên tinh thần đoàn kết xã hội và tương trợ cộng đồng.
1. 2. Thuế ở Việt Nam theo luật định
1.2.1. Khái niệm thuế
Thuế là khoản nộp mang tính chất bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật
do cơ quan có thẩm quyền ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực
9
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng xã hội mà do chính
con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật
1.2.2. Khái niệm pháp luật thuế
Quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và dân cư được thực hiện dựa trên những
căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và
người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục
tiêu xác định trước. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới

giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt
được hiệu quả điều chỉnh cao.
1.2.3. Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm
Luật quản lý thuế năm 2006;
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008;
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008;
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008;
Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007;
Luật thuế tài nguyên năm 2009;
Luật thuế sư dụng đất phi nông nghiệp năm 2010.
Các nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các nghị
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
1.2.4. Vai trò của thuế
Thuế và nhà nướclà hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối, phụ thuộc
nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước
10
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
và bộ máy nhà nước, mặt khác thuế lại được nhà nước sử dụng như là công cụ để thực
hiện những nhiệm vụ mục tiêu nhất định. Đối với nước ta, trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, vai trò của pháp luật thuế lại càng quan trọng,
thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn
thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của
nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có đủ điền kiện.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các
pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Ở Việt Nam từ những năm

1990 trở lại đây, nguồn thu htuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu của ngân sách
nhà nước. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách, đảm bảo cho
hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Điều 8
Luật ngân sách nhà nước quy đinh: “Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên
tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần
tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển”.
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật
thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế
là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ
của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi
hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để
tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu
chi ngày càng tăng.
11
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng
thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn
thu chính của ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất
định của nhà nước
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí, điều tiết tới mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình
đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công
bằng xã hội. Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế
còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến
pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp

luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật
thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và
thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối
với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm
thuế Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của
pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu
tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên
trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu
tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến
cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu của
nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
12
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung - cầu của
nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan
hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch
vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu đối với việc
sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến
khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến
khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích
hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với
các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất

yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những
ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định
chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự
suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động
tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng, sử dụng hợp lý và
có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu
kinh tế.
Thứ ba, pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công
bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng
và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn
13
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau,
đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật
thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Sự vận động của
nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công
cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về
thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập
trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật
thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các
thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ
thống thuế, về thuế suất đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã
hội.
Thứ tư, nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp

hoạt động sản xuất kinh doanh:
Thông qua khai báo thuế của các doanh nghiệp, công ty và thông qua công tác
kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thuế có thể kiểm tra, kiểm soát và nắm bắt được thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, cũng thông qua
việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng
có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói
riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói
chung.Từ đó có thể phát hiện ra những vấn đề gian lận trong thương mại. lậu thuế,
khai báo sai tình hình sản xuất kinh doanh trong thực tế, góp phần chấn chỉnh sản xuất
kinh doanh và nâng cao vai trò giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội
của cơ quan thuế.
14
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
2. 1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh
tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)
Tỷ lệ lạm phát hàng năm (ký hiệu If) là tỷ lệ phần trăm gia tăng mức giá chung
của năm này so với năm trước, được tính theo công thức sau:
I
f
=
P
t
– P
t-1
× 100
P
t-1
Trong đó:

• I
f
: Tỷ lệ lạm phát năm t
• P
t
: mức giá chung (chỉ số giá) năm t
• P
t-1
: mức giá chung (chỉ số giá) năm t - 1
2. 2. Phân loại lạm phát
Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở
mức độ một con số (tỷ lệ lạm phát < 10%). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát
nước kiệu hay lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì
như một chất xúc tác thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lạm phát phi mã: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức hai
hoặc ba con số hàng năm (tỷ lệ lạm phát từ 10% - 1.000%/năm). Lạm phát phi mã gây
ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Siêu lạm phát: Còn được gọi là lạm phát siêu tốc (tỷ lệ lạm phát >
1.000%/năm). Không có điều gì tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác
hại rất lớn đến kinh tế - xã hội.
2. 3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
15
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Có 2 nguyên nhân chính:
Do cầu kéo: Khi tổng cầu tăng dẫn đến mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ
tăng ta gọi đây là lạm phát do cầu kéo. Sự gia tăng của tổng cầu thường là do 2 nguyên
nhân sau:
• Sự gia tăng cung tiền của Ngân hàng trung ương
• Sự gia tăng chi tiêu của chính phủ

Do chi phí đẩy: Khi chi phí sản xuất tăng dẫn đến mức giá chung tăng và sản
lượng giảm.
2. 4. Tác động của lạm phát
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ và lạm phát vừa phải có tác động tích cực đến
nền kinh tế, còn nói chung lạm phát đều có tác động xấu đến nền kinh tế xã hội.
Lạm phát làm cho tiền tệ không còn giữ được thước đo giá trị hay thước đo này
co giãn bất thường, do đó xã hội không thể tính toán hiệu quả, làm ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh.
Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế
đã bị vô hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá, không còn ai tin vào đồng tiền nữa, điều chỉnh
của thuế sẽ bị hạn chế do biểu thuế không kịp thời điều chỉnh theo độ tăng của lạm
phát.
Lạm phát làm phân phối lại thu nhập, làm cho những người nắm giữ các hàng
hóa giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người khác giá cả không tăng
hoặc tăng chậm, và số giữ tiền sẽ bị nghèo đi.
Kích thích tâm lý đầu cơ, tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc, gây ra tình
trạng khan hiếm và lãng phí.
Xuyên tạc bóp méo các yếu tố thị trường làm cho các điều kiện thị trường bị
biến dạng.
16
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu thì ngày càng giảm
về mặt giá trị.
Đối với ngân hành: lạm phát làm cho các hoạt động bình thường của ngân hàng
bị phá vỡ, ngân hàng không thể thu hút khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm giảm
nguồn vốn huy động, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất để thu hút vốn , làm tăng chi
phí của ngân hàng. Do đó nhiều ngân hàng nhỏ bị lỗ nhưng vẫn thực hiện, kéo theo sự
bất ổn của toàn hệ thống ngân hàng thương mại.
Đối với tiêu dùng: lạm phát làm giảm sức mua thực tế của người dân về hàng
tiêu dùng và làm giảm khối lượng hàng tiêu dùng, làm cho đời sống một bộ phận

người dân sẽ trở nên khó khăn hơn. Mặt khác lạm phát cũng làm thay đổi hành vi tiêu
dùng.
Vì lạm phát nên ngân hàng nhà nước phải thực hiện thắt chặt để giảm khối
lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và cá nhân vẫn
rất lớn, làm doanh nghiệp khó đáp ứng được nhu cầu. Mặt khác do lạm phát nên khó
huy động các khoản tiền nhàn rỗi với thời gian dài nên việc sử dụng vốn ngắn hạn đầu
tư trung dài hạn là khó tránh khỏi, gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
Tóm lại, tác động của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra
hậu quả tới toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của một nước. Lạm phát làm cho việc phân
phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều khiến cho quá
trình phân hóa giàu nghèo càng trở nên trầm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm
trở nên giàu khó vì nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng
suy cho cùng gánh nặng của lạm phát đề lên vai người lao động.
2. 5. Giải pháp kiểm soát lạm phát
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân,
nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ
tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên
nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương
17
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu
năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các
công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu
này.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính
thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo
điều kiện cho sản xuất hành hóa và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ

lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư
này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt
giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công
trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện
một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Chính phủ đã
chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là
thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư
nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải
pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và
xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ
tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
18
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành
hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón giao nhiệm
vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính
phủ kiềm giữ giá cả.

Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng
phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng
tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan
nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các
khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà
triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác
dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền
sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động
trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu
dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm; ngăn
chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá
bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã
chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu
này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý
bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia
tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
19
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá
cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo,
vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập.
Kiềm chế lạm phát trong hoạt động ngân hàng
Kiềm chế lạm phát đến nay đã có tác dụng bước đầu, NHNN đã từng bước ổn
định được thị trường tiền tệ, kiểm soát tăng trưởng tín dụng của từng NHTM. Song
một điều nhận thấy rõ là những dấu hiệu của bất ổn vĩ mô chưa thuyên giảm, nhập siêu
vẫn rất lớn, thâm hụt thương mại cao, trong khi một số doanh nghiệp lại thiếu vốn để
sản xuất, xuất khẩu. Vì vậy, những tháng còn lại của năm 2008, tín dụng và lãi suất

của các NHTM cần được điều chỉnh hợp lý hơn để vừa kiểm soát được tăng trưởng tín
dụng, đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, tạo
điều kiện cho kinh tế phát triển, vừa kiểm soát được lạm phát, vừa góp phần ổn định vi
mô. Cụ thể:
Thứ nhất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng: Mỗi NHTM tự điều chỉnh cơ cấu tín
dụng theo hướng giảm dư nợ và tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn để phù hợp với quy
mô và thời hạn huy động vốn. Tăng vòng quay vốn tín dụng, sẽ giảm bớt khó khăn do
thiếu vốn. Trước mắt chỉ nên dành vốn vào những dự án nhanh tạo ra khối lượng hàng
hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội. Thứ hai, điều hành giá mua và bán vốn (lãi
suất) ổn định và theo xu hướng giảm dần. Tăng lãi suất là giảm cung tiền, kiềm chế
tăng trưởng tín dụng nóng. Tuy nhiên, lãi suất liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn
rất lớn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn vay, mà còn khó khăn cho NHTM
trong việc huy động vốn trung và dài hạn, nhưng nó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn.
Khi gói giải pháp tài chính – tiền tệ đã được triển khai một cách đồng bộ, lạm phát
được kiểm soát ở mức độ nhất định, thì một trong những công cụ cần điều chỉnh ngay
– đó là lãi suất kinh doanh của các NHTM.
Thứ ba, phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán không
dùng tiền mặt. Phát triển các dịch vụ phi tín dụng vừa có điều kiện tăng thu nhập cho
ngân hàng, vừa thu hút khách hàng đến với ngân hàng để tăng khả năng huy động vốn
20
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
với chi phí thấp. Để tăng tỉ lệ dịch vụ phi tín dụng, về phía các ngân hàng cần: Nâng
cao chất lượng và tính tiện ích của dịch vụ theo hướng: (i) Đối với dịch vụ truyền
thống: đây là yếu tố nền tảng không chỉ có ý nghĩa duy trì khách hàng truyền thống,
tạo nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, mà còn phát triển các dịch vụ mới trên
nền tảng của dịch vụ truyền thống để thu hút các khách hàng tiềm năng. (ii) Đối với
các dịch vụ hiện đại, cần thực hiện chiến lược Marketing sâu rộng, có chính sách
khuyến khích khách hàng (chính sách phí, khuyễn mãi…) sử dụng các dịch vụ ngân
hàng điện tử như dịch vụ mở tài khoản cá nhân, thanh toán, chi trả thu nhập theo
hướng không dùng tiền mặt qua thẻ ATM.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản nợ –có, đặc biệt là quản trị thanh
khoản. Các ngân hàng phải xây dựng qui trình kiểm soát và quản lý thanh khoản nhằm
đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ thanh toán đến hạn, đảm bảo an toàn trong hoạt động,
giảm thiểu rủi ro thanh khoản.
Thứ năm, nâng cao vị thế, chất lượng hoạt động, phục vụ của ngân hàng để tạo
niềm tin cho dân chúng gửi tiền vào ngân hàng bằng những hành động thiết thực Niềm
tin phải được xây dựng trên cơ sở thông tin minh bạch và kịp thời. Mọi sự tù mù sẽ là
“đất” cho tin đồn lộng hành. Vì vậy mỗi ngân hàng cần phải minh bạch hoá thông
(chính sách lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách khách hàng, tình hình nợ xấu…).
Xây dựng hệ thống thông tin để hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu,
phân tích để đưa ra những quyết sách điều hành nhanh nhạy và khoa học. Chú ý đến
quyền lợi của khách hàng, bao gồm cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay cũng
như khách hàng sử dụng những dịch vụ của ngân hàng.
Thứ sáu, các NHTM cần tăng cường liên kết, hợp tác, trao đổi chia sẻ kinh
nghiệm hoạt động ngân hàng trên các lĩnh vực; kết nối các nghiệp vụ, sản phẩm dịch
vụ, tạo ra hệ thống phục vụ khách hàng rộng lớn, hiệu quả, tiết giảm chi phí.
Sử dụng tổng hợp các biện pháp ngắn hạn mang tính cấp bách (chặng sốt) và
dài hạn (giảm sốt và đi đến hết sốt)
21
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự trữ bắt buộc,
giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi xuất chiết khấu – tái chiết khấu, tái cấp vốn, giảm cung
tiền, kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị trường quốc tế để hạn
chế một phần tác động của lạm phát quốc tế (nhiều nước đã làm từ tháng 9/2007), cắt
giảm và kiểm soát chi tiêu công một cách hiệu quả, Chính Phủ phải thắt lưng buộc
bụng, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, giảm chi phí đi lại, kiểm soát dòng vốn quốc tế,
kiểm soát nợ ngắn hạn, trợ cấp những hộ nghèo khó khăn, trợ cấp hộ chăn nuôi, đảm
bảo an ninh lương thực, kiểm soát nhập khẩu bằng nhiều giải pháp sắc với sự phối hợp
với hệ thống NHTM với cơ quan thuế và Bộ Công Thương, giảm thuế các mặt hàng
nhập khẩu chiến lược và những mặt hàng thực phẩm trong nước đang thiếu (kiểm soát

tín dụng thương mại quốc tế, mua hàng trả chậm), Chính phủ ban hành những Sắc lệnh
mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn ( không tăng giá điện, giá than, giá xăng
dầu, dịch vụ giao thông đi lại cho đến khi tình hình được kiểm soát), chống đến cùng
các nhóm đầu cơ găm hàng làm giả, buôn lậu (tội phá hoại king tế). Trong điều hành
kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần lưu ý đến bộ ba không thể có (Trinity Impossible): tỷ giá
ổn định, tự do di chuyển vốn, chính sách tiền tệ độc lập.
Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi ngày): kiểm
soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng
thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho tăng trưởng
trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng mở
rộng biên độ theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa tình trạnh đôla hóa VN, sử
dụng hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo thị trường trong nước và quốc tế (dự
trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở), kiểm soát nhập siêu,
dầu tư cho các lĩnh vực hàng có chất lượng thay thế hàng nhập khẩu: nhà máy lọc dầu,
xi măng, phôi thép, phân bón, chất dẻo, thức ăn gia súc, vải, giấy (đầu tư dài hạn và có
chính sách hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ), hỗ trợ xuất khẩu thông qua nhiều giải pháp đồng
bộ chứ không phải dau nhất như chính sách tỷ giá (chất lượng sản phẩm, mẫu mã,
chủng loại hàng, hạ giá thành xuất khẩu, tái trợ tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại,
chiến lược marketing quốc tế, chất lượng chế biến, uy tín đơn vị xuất khẩu), cải tiến kỹ
22
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
thuật tăng năng xuất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc
phát triển nông nghiệp-nông thôn, phòng ngừa dịch họa và thiên tai, tăng cường công
tác dự báo để có chính sách kịp thời, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.
23
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế
CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA THUẾ VÀ LẠM PHÁT
3. 1. Tác động của lạm phát đến nghĩa vụ nộp thuế:
Các nhà kinh tế thường phân biệt 2 loại lạm phát: (1) làm phát có thể tiên liệu

và (2) lạm phát không thể tiên liệu. Lạm phát không tiên liệu được xem là không hiệu
quả vì nó không cho phép điều chỉnh hành vi con người một cách tối ưu đối với sự
tăng giá. Hệ thống thuế thu nhập thường thì không được chỉ số hóa theo lạm phát. Thế
nhưng ngay cả khi được tiên liệu một cách hoàn hảo, lạm phát vẫn gây ra những lệch
lạc.
Lạm phát gây ra 3 tác động lên nghĩa vụ thuế thực, đó là:
• Tác động lên doanh thu thuế do sự mất giá đồng tiền
• Tác động lên nghĩa vụ thuế thực do độ trễ của việc thu thuế
• Các hiệu ứng khác lên cơ sở đo lường thuế
Mức độ ảnh hưởng của lạm phát lên các loại thuế khác nhau sẽ không giống
nhau. Chẳng hạn, thuế tiêu thụ đặc biệt được thu ngay sẽ không bị ảnh hưởng bởi lạm
phát, và do đó không cần điều chỉnh. Ngược lại, ảnh hưởng của lạm phát đến thuế thu
nhập đặc biệt phức tạp bởi vì tất cả các hiệu ứng trên đều có mặt.
3.1.1. Lạm phát tác động lên doanh thu thuế do sự mất giá đồng tiền:
Luật thuế thông thường quy định nghĩa vụ thuế thông qua một số tiền cụ thể.
Giá trị của số tiền này bị xói mòn bởi lạm phát, và do đó làm giảm doanh thu thuế.
Ví dụ: Thuế môn bài cho số vốn đăng ký trên 10 tỷ đồng là 3 triệu đồng, lạm
phát 10%/năm:

m
Thuế danh
nghĩa
Thuế thực thu
1 3 triệu đồng 3 triệu đồng
2 3 triệu đồng 2,73 triệu
24
Đề tài 10: Thuế và Lạm phát | Phân tích Chính sách Thuế

m
Thuế danh

nghĩa
Thuế thực thu
đồng
Sự xói mòn giá trị thu thuế do lạm phát có thể được khắc phục bằng nhiều cách:
• Đưa ra những luật thuế tự động điều chỉnh định kỳ
• Loại bỏ những khoản thuế được thể hiện bằng giá trị tiền tệ tuyệt đối
Tuy nhiên, không phải lúc nào lạm phát cũng tác động lên doanh thu thuế theo
cùng một hướng. Trong trường hợp của thuế thu nhập cá nhân, lạm phát tăng lên sẽ
làm cho thu nhập danh nghĩa tăng. Điều này đẩy người nộp thuế đến một mức thuế
suất cao hơn, dù thực tế thu nhập thực của họ không đổi, và do đó làm tăng số tiền
thuế phải nộp.
Ví dụ:
Biểu thuế lũy tiến:
Bậ
c
Thu nhập tính thuế /
năm
Thuế
suất
1 Đến 60 triệu đồng 5%
2 Trên 60 triệu đồng 10%
Người A có thu nhập 60 triệu đồng trong năm 1 và tăng 10% trong năm 2, lạm
phát 10%/năm:

m
Thu
nhập
Giảm
trừ
Thu nhập tính

thuế
Thuế thu nhập
1 60 10 (60 – 10) = 50
50 × 5% =
2,5
2 66 10 (66 – 10) = 56
56 × 5% =
2,8
Người B có thu nhập 70 triệu đồng trong năm 1 và tăng 10% trong năm 2, lạm
phát 10%/năm:
25

×