Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

những chuyển biến kinh tế - xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam (1993-2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 219 trang )



1


DẪN LUẬN

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống vùng kinh tế của mỗi quốc gia được hình thành một cách
khách quan, có nhiều cấp độ khác nhau và bao giờ cũng có một số vùng vượt
trội về trình độ sản xuất, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí và mức sống của dân
cư Sự vượt trội đó vừa mang tính chất khách quan vừa là sản phẩm của
nhận thức chủ quan của con người. Những vùng vượt trội thường có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn so với các vùng khác, mà bất cứ một chủ thể sản xuất
nào ở trong nước cũng như ở nước ngoài đều nhận thấy đầu tư vào các vùng
này có hiệu quả hơn. Mặt khác, về điều hành vĩ mô, hoàn cảnh nguồn vốn có
hạn, việc ưu tiên đầu tư vào các vùng này sẽ sớm tạo ra cục diện mới, thúc
đẩy phát triển đồng đều các vùng kinh tế khác ở giai đoạn tiếp theo. Trên thế
giới hầu hết các nước đều có các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) cấp quốc
gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi tỉnh có VKTTĐ ở cấp nhỏ hơn trên một phạm
vi lãnh thổ nhất định.
Ở Việt Nam, từ sau thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Đảng và Chính phủ
đã xác định rõ quan điểm trước hết phát triển các địa bàn kinh tế trọng điểm
nhằm tạo ra sự phát triển nhanh, tạo động lực lôi kéo các vùng khác phát
triển, giảm bớt sự cách biệt về sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
lãnh thổ.
Theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong những năm cuối thập niên
80 của thế kỷ XX, ba “Tam giác trọng điểm” được hình thành ở ba vùng của
đất nước. Ở phía Bắc có Tam giác trọng điểm với 3 đỉnh phát triển là Hà Nội


- Hải Phòng - Quảng Ninh. Ở phía Nam có Tam giác trọng điểm với 3 đỉnh


2

phát triển là thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) - Đồng Nai - Bà Rịa-Vũng
Tàu. Ở khu vực miền Trung có Tam giác trọng điểm với 3 đỉnh phát triển là
Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Ngãi. Trong quá trình phát triển, các
Tam giác trọng điểm được mở rộng thêm, chuyển đổi thành các Địa bàn kinh
tế trọng điểm (ĐBKTTĐ) và sau đó là các Vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ)
với những chính sách đặc thù của Đảng và Nhà nước để tạo ra sự phát triển
nhanh, có sức lan tỏa lớn đến các vùng ảnh hưởng.
Tại Đông Nam bộ, từ năm 1993, Địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam
(ĐBKTTĐPN) đã được hình thành bao gồm TP.HCM, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương.
Để ĐBKTTĐPN có điều kiện trở thành một địa bàn kinh tế phát triển
năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt bậc, góp phần nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, Chính phủ đã có kế hoạch
mở rộng và quy hoạch ĐBKTTĐPN trở thành Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam (VKTTĐPN).
Theo hướng đó, đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định
số 44/1998/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010. VKTTĐPN theo Quyết định này
gồm 4 tỉnh, thành (cũng chính là 4 địa phương thuộc ĐBKTTĐPN trước kia
là TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương).
Trong quá trình phát triển, để tạo cho các địa phương xung quanh
VKTTĐPN, nhất là các địa phương gần kề có điều kiện phát triển nhanh về
kinh tế - xã hội nên Chính phủ đã có một số điều chỉnh mở rộng không gian
lãnh thổ Vùng. Cụ thể, tháng 7/2003 Thủ tướng Chính phủ quyết định đưa 3
tỉnh Tây Ninh, Bình Phước và Long An gia nhập Vùng tại Thông báo số

99/2003/TB-VPCP ngày 02/07/2003 của Văn phòng Chính phủ; Tháng
9/2005 Thủ tướng Chính phủ bổ sung tiếp tỉnh Tiền Giang vào Vùng tại công
văn số 4973/2005/CV-VPCP của Văn phòng Chính phủ. Như vậy, tính đến
nay VKTTĐPN có tất cả là 8 tỉnh, thành. Trong đó, khu vực hạt nhân của


3

Vùng chính là 4 tỉnh, thành phố lúc đầu khi hình thành Vùng là TP.HCM,
Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
*
Từ khi hình thành và phát triển đến nay, với lợi thế về vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng VKTTĐPN đã trở thành một cực
tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Vùng còn giữ
vai trò đóng góp quyết định vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước và tạo
động lực đáng kể cho quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của khu vực Nam
bộ. Theo báo cáo của Văn phòng Ban chỉ đạo điều phối phát triển các
VKTTĐ Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007
đạt 12,6%, chiếm tỷ trọng 60% giá trị sản xuất công nghiệp, 70% kim ngạch
xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế của Vùng là khu vực nông, lâm, thuỷ sản 7,3%, khu
vực công nghiệp và xây dựng 56,3% và khu vực dịch vụ 36,4%. Thu nhập
bình quân đầu người của vùng đạt 31,4 triệu đồng/năm, gấp 2,6 lần mức bình
quân của cả nước và gấp 1,9 lần vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
(VKTTĐBB) và 3,2 lần của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
(VKTTĐMT). Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng đạt 56,4
tỷ USD, gồm có kim ngạch xuất khẩu đạt 36,8 tỷ USD và kim ngạch nhập
khẩu 19,6 tỷ USD. VKTTĐPN là vùng có khả năng xuất khẩu cao và cũng là
vùng có khả năng xuất siêu duy nhất của cả nước. Tổng thu ngân sách của
Vùng chiếm 66,5% tổng thu ngân sách quốc gia. Thu hút vốn đầu tư trong 20

năm qua, chiếm 54% tổng vốn đăng ký đầu tư toàn quốc [108; 2]
Hiện nay, Đảng và Chính phủ Việt Nam vẫn đang tiếp tục thúc đẩy
VKTTĐPN phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, tiếp tục tạo điều kiện
cho Vùng có sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, nguồn nhân
lực, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh quốc tế, đi đầu trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của


4

Vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi
trường và an ninh quốc phòng.
Tuy nhiên, trong quá trình hình thành và phát triển, VKTTĐPN cũng
bộc lộ rõ một số vấn đề bất cập như tốc độ tăng trưởng chưa cao so với chỉ
tiêu và tiềm lực; cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch; nguồn nhân lực dồi dào
nhưng trình độ lao động tại chỗ chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển công
nghiệp, dẫn đến sự dịch chuyển ồ ạt lực lượng lao động từ nơi khác đến mang
tính chất tự phát làm nảy sinh nhiều vấn nạn xã hội; do có sự chênh lệch quá
lớn về mức thu nhập giữa khu vực đô thị và xung quanh, nên xu hướng di dân
quá nhanh từ bên ngoài vào các đô thị (như thành phố Hồ Chí Minh, Biên
Hoà, Vũng Tàu) làm quá tải so với khả năng đáp ứng về các điều kiện kết cấu
hạ tầng đô thị (điện, nước, giao thông, y tế, giáo dục, ) gây hậu quả nghiêm
trọng về môi trường… Bên cạnh đó, việc các ngành công nghiệp, nhất là các
khu chế xuất, khu công nghiệp (KCX, KCN) phát triển nhanh và chưa được
quản lý tốt về chất thải công nghiệp nên vấn đề ô nhiễm môi trường diễn ra
gay gắt, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài
Gòn. Hơn nữa, cũng như các VKTTĐ khác, cho đến nay VKTTĐPN vẫn còn
thiếu một cơ chế quản lý rõ ràng từ Trung ương để có thể điều phối một cách
khoa học và hiệu quả toàn Vùng cũng như của từng thành viên trong Vùng…
dẫn sự hiện thiếu liên kết, thiếu phối hợp với nhau trong hoạch định chính

sách lẫn vận hành.
**
Nhìn chung, thực tiễn qua hơn 10 năm hình thành và phát triển cho thấy
VKTTĐPN là vùng lãnh thổ phát triển năng động nhất cả nước, góp phần
quan trọng vào thành tựu chung của Việt Nam. Đồng thời, thực tiễn đó còn
phản ánh tính chính xác của các quyết sách ở tầm vĩ mô của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về phát triển kinh tế vùng, thể hiện thành quả lao động sáng
tạo của Đảng Bộ, Chính quyền và nhân dân các địa phương trong VKTTĐPN.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế ở VKTTĐPN vẫn còn chưa có tính bền vững,


5

những lợi thế so sánh, nguồn lực phát triển, tiềm năng và thế mạnh của Vùng
vẫn chưa được phát huy triệt để, chưa được khai thác đúng mức. Hơn thế nữa,
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vấn đề chênh lệch giàu
nghèo, vấn đề ô nhiễm môi trường… ở VKTTĐPN vẫn còn nhiều bất cập,
chưa theo kịp với phát triển kinh tế. Đặc biệt, vấn đề liên kết phát triển giữa
các thành viên trong Vùng vẫn còn lỏng lẻo, còn mang tính cục bộ… nên
chưa phát huy hết sức mạnh thực sự và đáng có của Vùng.
***
Chọn đề tài “Những chuyển biến kinh tế - xã hội ở Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam (1993 - 2008)” để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ Lịch
sử chúng tôi vì những lý do chính như sau:
- Thứ nhất, VKTTĐPN là một vùng kinh tế trọng điểm nổi bật nhất
nước, có quá trình phát triển kinh tế - xã hội để lại nhiều ấn tượng, có nhiều
đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và chuyển biến xã hội trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Như vậy, việc nghiên cứu về quá trình
chuyển biến kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN theo tác giả là một việc rất đáng
nên thực hiện.

- Bản thân tác giả luận án là người rất yêu thích nghiên cứu các vấn đề
về lịch sử kinh tế Việt Nam, mà lại đang là một nghiên cứu sinh của chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại, nên tác giả suy nghĩ chọn đề tài
về quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở một vùng kinh tế trọng điểm cấp
quốc gia trong thời kỳ mới để làm luận án là phù hợp với chuyên ngành, đồng
thời đó cũng là một nghiên cứu thú vị và có ích. Thú vị và có ích vì những lý
do cơ bản như sau:
 Trước hết, luận án sẽ tìm hiểu được sự ra đời của VKTTĐPN, cũng
như lịch sử hình thành, đặc trưng phát triển của một VKTTĐ nổi
trội nhất cấp quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
 Thứ hai, đặt cái nhìn so sánh giữa kỳ vọng và chỉ tiêu mà Đảng và
Chính phủ đặt ra đối với VKTTĐPN (thông qua các chủ trương,


6

chính sách…) và thực tế diễn ra ở Vùng trong giai đoạn vừa qua tác
giả nhận thấy có sự chưa tương ứng, vì vậy khi nghiên cứu sẽ giúp
nhận ra được thực trạng và lý do của những sự chưa tương ứng đó.
 Thứ ba, khi nghiên cứu có cơ sở khoa học sẽ nhận diện rõ hơn vị trí,
vai trò cũng như tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa của Vùng đến chuyển
biến kinh tế - xã hội ở Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung như
thế nào?
 Cuối cùng, việc nghiên cứu sẽ tìm ra những nguyên nhân và đặc
điểm phát triển kinh tế - xã hội của Vùng. Từ đó có thể đề xuất các
giải pháp nhằm góp phần thiết thực hơn nữa trong việc thúc đẩy
VKTTĐPN phát triển mạnh mẽ ở những giai đoạn tiếp theo.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích khi chọn nghiên cứu đề tài này trước hết là để dựng lại và lý
giải sự thành công khá đáng kể của một VKTTĐ ở Việt Nam trong thời kỳ

đổi mới. Thông qua nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ những đặc thù lịch
sử, đặc thù kinh tế - xã hội và quy luật phát triển của VKTTĐPN.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu này còn góp phần tìm hiểu những nguyên
nhân và động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Vùng, thiết thực giúp cho việc
giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển biến kinh tế - xã hội
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hơn nữa, thông qua việc thu thập số liệu, tài liệu, chủ trương, chính
sách vĩ mô… luận án sẽ lý giải và đánh giá những thay đổi kinh tế - xã hội ở
VKTTĐPN dưới góc nhìn khoa học lịch sử. Từ đó có thể có những đóng góp
thêm trong việc nhận thức và đánh giá thực trạng phát triển Vùng, góp phần
vào việc đề ra những kiến nghị về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội hiện nay;
góp phần cung cấp cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách những hiểu
biết có tính lịch sử để có tầm nhìn toàn diện về Vùng này, thông qua đó sẽ có
những quyết sách và biện pháp thích hợp hơn nữa trong việc thúc đẩy kinh tế
- xã hội VKTTĐPN phát triển bền vững trong tương lai.


7

Cuối cùng, một mục đích nhỏ mà luận án cũng mong muốn thực hiện
đó là góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu về lịch sử kinh tế - xã hội
Việt Nam đương đại nói chung và cho khu vực Nam bộ nói riêng.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
VKTTĐPN đã được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu xã hội,
nghiên cứu chính sách; nhiều viện nghiên cứu (như Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, Viện nghiên cứu Kinh tế, Viện Xã hội học, Viện nghiên cứu phát
triển TP.HCM, Viện phát trển bền vững vùng Nam bộ, Trung tâm Nghiên cứu
Kinh tế miền Nam…) quan tâm đến. Ngay từ những năm đầu thập niên 90
của thế kỷ XX đã có các công trình nghiên cứu về các lĩnh kinh tế, văn hóa,
xã hội của ĐBKTTĐPN; đến những năm 2000 trở đi xuất hiện nhiều hơn các

công trình, đề tài khoa học, sách chuyên khảo… nghiên cứu sâu về
VKTTĐPN. Bên cạnh đó, từ cuối những năm 1990 đến nay cũng đã diễn ra
nhiều cuộc hội nghị, hội thảo khoa học bàn về phát triển Vùng. Các cuộc hội
thảo này đã công bố khá nhiều bài viết và tài liệu về VKTTĐPN.
Theo sự phân loại của tác giả luận án, nhìn chung nội dung các công
trình khoa học đã công bố từ trước đến nay tập trung vào 6 vấn đề chính: 1/.
Các vấn đề về kinh tế ở VKTTĐPN; 2/. Các vấn đề về xã hội của VKTTĐPN;
3/. Về tiềm năng, nguồn lực và vai trò của VKTTĐPN; 4/. Các vấn đề về
chính sách phát triển vùng; 5/. Các vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát
triển vùng; 6/. Bàn về các giải pháp phát triển.
a. Nghiên cứu các vấn đề về kinh tế ở VKTTĐPN có thể kể đến
những công trình tiêu biểu như sau:
- Đề tài Định hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam do TS. Trần Du Lịch và PGS.TS. Đặng
Văn Phan làm chủ nhiệm, đề tài cấp thành phố, nghiệm thu tại Viện Kinh tế
TP.HCM tháng 8/2003. Đề tài này đã tập trung phân tích hiện trạng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN từ khi hình thành đến năm 2003; đánh giá các
ngành và lĩnh vực kinh tế quan trọng của Vùng; đánh giá một số vấn đề tồn


8

tại đối với sự phát triển VKTTĐPN. Bên cạnh đó, đề tài còn phân tích lợi thế
so sánh giữa các địa phương trong vùng và lợi thế so sánh của VKTTĐPN so
với cả nước. Phần cuối đề tài đã đề ra Những định hướng phát triển
VKTTĐPN đến 2010 và chính sách, giải pháp và cơ chế nhằm phát huy vai
trò vùng kinh tế động lực.
- Đề tài cấp Nhà nước Cơ cấu kinh tế trên địa bàn kinh tế trọng điểm
phía Nam do Chu Thừa Châm chủ nhiệm, hoàn thành năm 1994. Nội dung đề
tài phân tích khá sâu về mô hình cơ cấu kinh tế, về cơ chế quản lý và vai trò

của Nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các địa phương trên
ĐBKTTĐPN giai đoạn 1986 - 1992. Bên cạnh đó, đề tài còn đề xuất việc lựa
chọn qui mô doanh nghiệp, phát triển hoạt động dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu,
chính sách lao động tiền lương… ở ĐBKTTĐPN.
- Chuyên đề thuộc đề tài cấp Nhà nước Thực trạng và định hướng
phát triển kinh tế trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam cũng do TS.
Tôn Sĩ Kinh chủ nhiệm, hoàn thành vào tháng 10/1994. Đề tài chứng minh
mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng với những lợi thế đáng kể nhờ sự
ưu đãi của thiên nhiên, cùng với những nỗ lực từ chính bản thân nội tại đã dẫn
đến những kết quả đáng kể về tăng trưởng kinh tế - xã hội của ĐBKTTĐPN
giai đoạn đầu thập niên 90 của thế kỷ XX như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
cơ cấu tích luỹ tiêu dùng tương đối hợp lý, tăng trưởng các ngành kinh tế
trong một cơ cấu phù hợp Từ việc đánh giá thực chất hiện trạng phát triển
kinh tế - xã hội, nhận định rõ những thuận lợi và khó khăn khách quan cũng
như chủ quan, chuyên đề đã đề ra những phương hướng phát triển tổng quát
cho ĐBKTTĐPN. Đồng thời, dựa trên sự tính toán dự báo theo nhiều phương
án, chuyên đề còn đưa ra các chỉ tiêu tăng trưởng và cơ cấu cụ thể về nguồn
nhân lực, nguồn vốn, các ngành kinh tế, cũng như đề xuất các biện pháp chính
sách phù hợp.
- Cuốn Doanh nghiệp tư nhân Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là tập hợp các bài nghiên cứu


9

của cuộc hội thảo khoa học cùng tên do Viện Kinh tế TP.HCM cùng Báo Đối
ngoại Việt Nam phối hợp thực hiện, được nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM
xuất bản thành sách năm 2004. Các bài viết trong cuốn sách tập trung nêu lên
thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân trong Vùng và cách để các
doanh nghiệp tư nhân phát triển lên trong những điều kiện mới ở VKTTĐPN.

Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết về thương mại của Vùng được đánh giá
dưới góc nhìn quản lý vĩ mô của các quản lý cao cấp ở Việt Nam như TS. Lê
Danh Vĩnh - Thứ trưởng Bộ Thương mại, Trưởng ban chỉ đạo phát triển
Thương mại VKTTĐPN; TS. Nguyễn Bá Ân - Phó Viện trưởng Viện Chiến
lược phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư…
- Sách Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chủ động hội nhập WTO
do Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam hợp tác biên soạn cùng Công ty
truyền thông Nhịp Cầu Việt, sách do nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM xuất
bản năm 2007. Cuốn sách được viết bằng 2 ngôn ngữ (tiếng Việt và tiếng
Anh) dày đến 845 trang và chia làm 4 phần. Trong đó, phần 1 và 2 giới thiệu
tổng quan các địa phương trong VKTTĐPN và trình bày về kinh tế thương
mại - dịch vụ ở Vùng. Đặc biệt, ở phần 1, cuốn sách đã trình bày khá rõ về
quá trình phát triển thương mại - dịch vụ ở VKTTĐPN trong điều kiện Việt
Nam đã gia nhập WTO. Bên cạnh đó còn vạch ra những triển vọng mới trong
việc thu hút đầu tư nước ngoài vào VKTTĐPN.
Ngoài ra, còn có một số sách, đề tài khoa học tuy không trực tiếp
nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế ở VKTTĐPN nhưng trong nội dung có đề cập
đến một số vấn đề có liên quan đến kinh tế Vùng. Những công trình thuộc
loại này tiêu biểu có:
- Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước Định hướng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội vùng Nam bộ thời kỳ 1991 - 2000, do Viện Kinh tế TP.HCM
và Tổ nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội vùng Nam Bộ phối hợp thực
hiện, hoàn thành năm 1992. Nội dung đề tài bao gồm 6 nội dung chính: 1-
Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng, trong đó đề cập chi


10
tiết đến từng khu vực kinh tế và có phân tích chi tiết đến từng tiểu vùng trong
vùng Nam bộ; 2- Nêu khả năng và triển vọng phát triển vùng Nam bộ, trong
phần này có đề cập đến từng lĩnh vực: dân số và lao động, đất, nguồn nước,

tài nguyên thuỷ hải sản, các ngành công nghiệp, dịch vụ và du lịch; 3- Khái
quát bối cảnh trong nước và quốc tế, những khả năng tác động đến phát triển
các mặt của vùng Nam bộ; 4- Quan điểm và mục tiêu phát triển vùng Nam bộ,
trong đó có chú ý đến thế mạnh đặc trưng của từng tiểu vùng, của từng địa
phương trong vùng; 5- Định hướng phát triển và cơ cấu kinh tế, về cơ cấu có
tính đến các mặt cơ cấu kinh tế theo các khu vực kinh tế để xác định hướng
phát triển chủ yếu của vùng Nam bộ, cơ cấu lãnh thổ theo từng tiểu vùng, đặc
biệt là khu tam giác trung tâm, trong phần này có tính toán định hướng phát
triển cho các ngành chính trong các khu vực công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ, cũng như các ngành hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; 6- Từ quá trình
phân tích đánh giá và định hướng phát triển nêu trên, đề tài đã đề xuất các
chính sách và giải pháp lớn về các lĩnh vực: kinh tế, an ninh xã hội và ổn định
chính trị, kinh tế đối ngoại, dân số - lao động và văn hoá - xã hội, khoa học
công nghệ và môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản, tổ chức và chỉ đạo vùng.
- Cuốn sách Kinh tế Việt Nam - giai đoạn kinh tế chuyển đổi do TS.
Trần Du Lịch chủ biên. Thành viên tham gia có các nghiên cứu viên của Viện
Kinh tế TP.HCM và giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM như TS.
Lương Hữu Định, PGS.TS. Võ Thanh Thu… xuất bản năm 1996. Cuốn sách
này nêu lên và phân tích một số vấn đề lớn trong tăng trưởng và phát triển
kinh tế Việt Nam, được chia thành 7 chương. Trong đó chương 2 có liên quan
đến đề tài nghiên cứu của luận án. Chương 2 cuốn sách bàn về vấn đề tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam (trong đó có nói đến
VKTTĐPN) mà trọng tâm của thay đổi cơ cấu kinh tế là chuyển dần từ khu
vực I (nông nghiệp) sang khu vực II (công nghiệp) và khu vực III (dịch vụ).
Theo các tác giả cuốn sách này, sự chuyển dịch cơ cấu không chỉ là sự chuyển


11
dịch GDP mà còn là sự chuyển dịch lao động - đây là một ý kiến rất hay và
mới ở Việt Nam giai đoạn này.

b. Viết về các vấn đề xã hội ở VKTTĐPN có những công trình khoa
học tiêu biểu như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện (Viện Khoa học xã hội Vùng
Nam bộ) Đào tạo lao động cho khu công nghiệp ở Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam do TS. Phú Văn Hẳn chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2006. Nội dung
nghiên cứu của đề tài là đánh giá tổng quan thực trạng lao động ở
VKTTĐPN; đánh giá thực trạng lao động đang làm việc tại các KCX, KCN ở
VKTTĐPN; tìm hiểu nhu cầu lao động tại các KCX, KCN và vấn đề đặt ra
cho công tác đào tạo lao động. Phần cuối của đề tài có đưa ra các giải pháp
cho công tác đào tạo và việc sử dụng lao động tại các KCX, KCN ở
VKTTĐPN. Tuy nhiên, phần tổng quan thực trạng lao động ở VKTTĐPN
trong đề tài còn quá sơ lược, điều tra tình hình lao động được đào tạo ở các
KCN chỉ tập trung ở TP.HCM. Hơn nữa, số liệu lao động được cập nhật chỉ
đến năm 2002.
- Cuốn kỷ yếu hội thảo khoa học Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam -
những vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội do Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn TP.HCM tổ chức, nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM xuất bản năm
2004. Cuốn sách tập hợp 49 bài nghiên cứu khoa học được chia làm 3 phần:
phần 1 về kinh tế - xã hội, phần 2 về quản lý đô thị - môi trường và phần 3 là
về văn hóa - giáo dục. Ưu điểm của cuốn kỷ yếu này là vì có nhiều nhà khoa
học, nhiều giảng viên tham gia nên bàn rất rộng về các lĩnh vực về văn hóa -
xã hội ở VKTTĐPN. Tuy nhiên đó cũng chính là hạn chế của cuốn kỷ yếu
này, lĩnh vực nào cũng chỉ nói sơ lược, không đi sâu tìm hiểu kỹ một vấn đề
nào. Hơn nữa, hội thảo tổ chức vào năm 2004 nhưng ít có báo cáo khoa học
nào cập nhật được số liệu kinh tế - xã hội đến năm 2004, chủ yếu dừng lại ở
các số liệu năm 2000 và 2001.


12
- Dự án nghiên cứu cấp Bộ Điều tra bổ sung, tổng kết thực tiễn kinh

tế - xã hội và đề xuất giải pháp phát triển hơn nữa vùng Kinh tế trọng điểm
phía Nam do GS.TS. Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm, nghiệm thu tháng 2 năm
2008. Dự án đã phân tích quá trình tái cơ cấu kinh tế của VKTTĐPN trong
điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu
vực; Đánh giá thương mại và đầu tư phát triển tác động vào quá trình tái cơ
cấu kinh tế của vùng; Điều tra và phân tích các vấn đề cạnh tranh của doanh
nghiệp, trong đó chú ý đến các hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Phân
tích khả năng cung cấp nguồn nhân lực cao của TP.HCM cho VKTTĐPN.
Ngoài ra, còn có một số bài viết và sách nghiên cứu về vấn đề xã hội
của Vùng như: Tô Duy Hợp, “Cơ sở lý thuyết nghiên cứu và giải quyết các
vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam”, tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững, số 4 (13), tháng 12/2006;
Nguyễn Hoàng Thụy, “Mấy suy nghĩ về đào tạo cung ứng nguồn nhân lực cho
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, tạp chí Phát triển kinh tế, số 115/2000;
Trương Thị Minh Sâm (chủ biên), Những luận cứ khoa học của việc phát
triển nguồn nhân lực công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004…
c. Nghiên cứu về về tiềm năng, nguồn lực và vai trò của VKTTĐPN
có các công trình tiêu biểu:
- Chuyên đề Một số vấn đề về tài nguyên môi trường trên địa bàn
kinh tế trọng điểm phía Nam thuộc đề tài đặc biệt cấp Nhà nước “Tổ chức
lãnh thổ địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam” do GS. Nguyễn Sinh Huy làm
chủ nhiệm, hoàn thành 3/1993. Chuyên đề đã nêu lên một số vấn đề về vị trí
địa lý, địa hình, tài nguyên khí hậu, tài nguyên đất, tài nguyên nước, rừng,
môi trường vật lý vùng nghiên cứu, tác động tới môi trường do hoạt động của
con người ở ĐBKTTĐPN. Chuyên đề hoàn toàn đi sâu tìm hiểu về các vấn đề
tự nhiên trên ĐBKTTĐPN, không đề cập đến các vấn đề kinh tế - xã hội.


13

- Chuyên đề Đặc điểm khí tượng, thuỷ - hải văn địa bàn kinh tế trọng
điểm phía Nam thuộc đề tài đặc biệt cấp Nhà nước “Tổ chức lãnh thổ địa bàn
kinh tế trọng điểm phía Nam”, chủ nhiệm đề tài: TS. Đặng Bình Dân, hoàn
thành tháng 4 năm 1993. Chuyên đề đã phân tích sâu những đặc điểm khí
tượng thuỷ hải văn trên đất liền và thềm lục địa của ĐBKTTĐPN và vùng phụ
cận. Từng hiện tượng mưa, gió, không khí, bức xạ mặt trời, độ ẩm, áp suất khí
quyển, địa hình, địa mạo, nhiệt độ, hải lưu, vấn đề ô nhiễm môi trường cũng
được chuyên đề phân tích kỹ để đưa ra những nhận xét đánh giá chính xác sự
tác động của điều kiện tự nhiên sẽ có tác dụng rất lớn trong việc đưa ra những
định hướng phát triển ĐBKTTĐPN. Tuy nghiên cứu tìm hiều về tự nhiên,
nhưng cái hay của chuyên đề này là đã kết nối những điều kiện tự nhiên đến
việc phát triển kinh tế - xã hội trên ĐBKTTĐPN.
- Đề tài cấp Nhà nước Tài nguyên thuỷ hải sản, hiện trạng sản xuất
và định hướng phát triển nghề cá trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam
do Kỹ sư Trần Thanh Xuân chủ nhiệm, hoàn thành tháng 8 năm 1993. Đề tài
đã trình bày về chất lượng môi trường nước, cơ sở thức ăn tự nhiên tại thuỷ
vực nội địa; Đặc điểm chủ yếu về điều kiện tự nhiên vùng biển Vũng Tàu -
Côn Đảo; Nguồn lợi cá biển, tôm biển và các đặc sản khác của ĐBKTTĐPN.
Đồng thời, đề tài cũng đề ra định hướng phát triển nghề khai thác, nuôi, chế
biến và bảo quản thuỷ sản ở ĐBKTTĐPN, đề nghị một số chính sách và các
dự án đề nghị đầu tư. Cũng giống như các đề tài nghiên cứu cùng trong hệ
thống đề tài đặc biệt cấp Nhà nước giai đoạn này, đề tài Tài nguyên thuỷ hải
sản, hiện trạng sản xuất và định hướng phát triển nghề cá trên địa bàn
kinh tế trọng điểm phía Nam cũng chỉ cung cấp các số liệu cũ, từ năm 1993
trở về trước và chỉ chuyên sâu vào lĩnh vực thủy hải sản.
- Chuyên đề Những giá trị kinh tế và môi trường của các hệ sinh thái
rừng trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam thuộc đề tài đặc biệt cấp Nhà
nước “Tổ chức lãnh thổ địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam”, chủ nhiệm đề
tài: TS. Nguyễn Duy Chuyên, nghiệm thu tháng 9 năm 1993. Chuyên đề đề



14
cập đến các đặc trưng cơ bản của các khu vực có rừng trong Vùng; sự phân bổ
và giá trị của rừng như: rừng ngập mặn là lá phổi của thành phố và các đô thị
ven biển vùng trọng điểm phía Nam, hệ sinh thái có tính đa dạng cao, nơi du
lịch hoang dã hấp dẫn; hay “Rừng - Tôm” là thế mạnh của hệ sinh thái rừng
ngập mặn; Rừng khộp “hành lang xanh” trên vùng đất của vùng Đông Nam
bộ… Qua đó, chuyên đề cho thấy giá trị môi trường và giá trị kinh tế của rừng
và của hệ động thực vật trong Vùng.
- Tập tổng luận phân tích Tiềm năng và triển vọng của các Vùng kinh
tế trọng điểm do Trung tâm Thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư biên soạn
năm 1995. Tổng luận chia làm 4 phần, trong đó có một phần (phần thứ 3) là
nói về VKTTĐPN. Ở phần này Tổng luận đã chỉ ra sơ bộ những tiềm năng và
triển vọng phát triển VKTTĐPN như tiềm năng nhân lực, tiềm năng vốn đầu
tư và thị trường quốc tế rộng lớn… Ngoài ra, trong phần 3 của Tổng luận còn
đề cập quan điểm cơ bản, mục tiêu và phương hướng phát triển Vùng, trong
đó đề cập nhiều đến phương hướng phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng.
d. Viết về các vấn đề chính sách trong phát triển Vùng có:
- Đề tài cấp Bộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Các chính sách và cơ chế
vận hành cho mục tiêu phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam do TS.
Trần Du Lịch chủ nhiệm, nghiệm thu tháng 7/1996. Nội dung của đề tài gồm
2 phần chính. Phần 1 giới thiệu tổng quan về vị trí, vai trò và mục tiêu phát
triển; các tồn tại về mặt cơ chế chính sách trong phát triển VKTTĐPN. Phần 2
bao gồm các vấn đề liên quan đến chính sách và cơ chế chung của Chính phủ;
thiết lập một số định chế vận hành và các biện pháp tổ chức thực hiện theo
quy hoạch đối với các chính quyền địa phương. Các chính sách và định chế
được nghiên cứu, phân tích, đề xuất trong đề tài này gồm ba bộ phận: 1- Các
chính sách kinh tế tài chính và hệ thống pháp luật điều chỉnh sự vận động
chung của nền kinh tế; 2- Các định chế thích hợp cần thiết lập để có thể vận
hành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của VKTTĐ; 3- Các giải pháp

mà các chính quyền địa phương thuộc VKTTĐ cần phải ưu tiên thực hiện


15
theo chức năng quản lý phát triển của mình. Đặc biệt, đề tài nghiên cứu đã
nhấn mạnh đến 2 định chế và 2 chính sách cần ưu tiên giải quyết trước mắt ở
VKTTĐPN: 1- Hai định chế: thiết lập cơ quan chỉ đạo phát triển vùng và
thành lập một trung tâm nghiên cứu tư vấn phát triển vùng; 2- Hai chính sách:
cho phép các chính quyền địa phương chủ động tạo vốn, trong đó có chính
sách “đổi đất lấy hạ tầng” và ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước đối với
các dự án đầu tư ở các vị trí thuận lợi, nhất là các KCN tập trung.
- Sách Chính sách phát triển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm ở
Việt Nam do GS.TS. Nguyễn Văn Nam và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi đồng chủ
biên, nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông năm 2010. Trong cuốn sách
này các tác giả đã tập trung nghiên cứu về tình trạng bất cập trong chính sách
quản lý và phát triển của các VKTTĐ ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trong
cuốn sách này, các tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế,
thực trạng tác động cũng như định hướng hoàn thiện hệ thống chính sách
nhằm phát triển bền vững các VKTTĐ ở Việt Nam.
Bên cạnh các công trình nêu trên còn phải kể đến các bài viết phân tích
về chính sách vùng như: Trần Văn - Đào Xuân Thưởng, Cơ chế chính sách
nhằm tăng tốc và phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
Ban Kinh tế Trung ương, Hà Nội, năm 2005; Viện Kinh tế TP.HCM, Một số
chính sách động lực để phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, công
bố năm 2002…
e. Các vấn đề còn tồn tại ở VKTTĐPN có một số bài nghiên cứu
tiêu biểu như:
- Nguyễn Trần Cầu, “Vấn đề quản lý môi trường vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam”, tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững, số 1, tháng 3/2007;
- Cao Minh Nghĩa, “Những tồn tại của sự phát triển và mối liên kết

giữa các tỉnh, thành trong VKTTĐPN”, Nội san Kinh tế, Viện Kinh tế
TP.HCM, số tháng 06/2004.


16
- Cũng tác giả Cao Minh Nghĩa còn có bài “Cơ sở sản xuất công nghiệp
gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn một số tỉnh, thành phố trong VKTTĐPN
- thực trạng và biện pháp xử lý”, Nội san Kinh tế, Viện Kinh tế TP.HCM, số
tháng 9/2008.
f. Phần nghiên cứu đề xuất các giải pháp cho phát triển VKTTĐPN
có khá nhiều công trình, đề tài, hội thảo đề cập đến:
- Cuốn kỷ yếu hội thảo khoa học Các giải pháp khuyến khích và phát
triển kinh tế tư nhân trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam do Khoa
Kinh tế - Đại học Quốc gia TP.HCM phối hợp cùng Trường Cán bộ TP.HCM
tổ chức 1/2003. Kỷ yếu tập trung nhiều bài viết của các cán bộ giảng dạy kinh
tế, các nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia
TP.HCM. Nội dung chủ yếu của các bài nghiên cứu trong kỷ yếu này là về
thực trạng, vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân ở VKTTĐPN. Trong đó, nổi
bật nhất là những bài viết bàn về những đề xuất giải pháp cho kinh tế tư nhân
trên địa bàn phát triển như bài “Tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân
trên Địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển” (của TS. Nguyễn Chí
Hải), “Một số ý kiến về việc khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trên Địa
bàn kinh tế trọng điểm phía Nam” (của PGS.TS. Lâm Quang Huyên)
- Đề tài cấp thành phố Các giải pháp nhằm tăng cường sự phối hợp
giữa thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và các bộ ngành trung ương trong việc xây dựng và triển khai
thực hiện quy hoạch do ThS. Nguyễn Thiềng Đức chủ nhiệm, nghiệm thu
tháng 6 năm 2004. Nội dung nghiên cứu của đề tài gồm 2 chương. Ở chương
1 đề tài đã giới thiệu tổng quan về vị thế của TP.HCM và các tỉnh trong
VKTTĐPN; thực trạng quy hoạch của TP.HCM và các tỉnh trong VKTTĐPN

và thực trạng phối hợp giữa TP.HCM với các tỉnh VKTTĐPN và các Bộ
ngành Trung ương. Chương 2 đề tài đã đề ra các giải pháp khả thi nhằm điều
chỉnh và tăng cường sự phối hợp giữa TP.HCM với các tỉnh trong vùng và
các Bộ ngành Trung ương như: thành lập cơ quan nghiên cứu - tư vấn, và phát


17
triển thành Uỷ ban điều phối Vùng; xây dựng các nguyên tắc chung về quy
hoạch và thực hiện quy hoạch; rà soát và điều chỉnh kịp thời quy hoạch của
toàn Vùng; xây dựng các chính sách thực hiện quy hoạch đồng bộ; phân cấp
quyền hạn, trách nhiệm cho địa phương và VKTTĐPN.
- Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu các giải pháp đẩy nhanh phát triển kinh
tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam từ năm 2001 - 2010 do ThS. Huỳnh Văn Giáp
(Khoa Địa lý trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) làm chủ
nhiệm, nghiệm thu tháng 3 năm 2006. Đề tài đã ghi nhận thực trạng phát triển
kinh tế - xã hội VKTTĐPN trong một giai đoạn ngắn (từ 1995 đến 2000), đề
ra một số giải pháp để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội Vùng. Tuy nhiên,
vì đề tài chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ địa lý kinh tế lại tìm hiểu thực
trạng kinh tế của Vùng trong giai đoạn ngắn (1995 - 2000) nên rất ít các điều
kiện và đặc thù của phát triển kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN được trình bày.
Hơn nữa, trong phần đề xuất giải pháp phát triển kinh tế - xã hội Vùng, đề tài
cũng chỉ chú trọng đến các giải pháp thiên về địa lý như bảo vệ môi trường,
giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước, ứng dụng hệ thống thông tin địa lý
(GIS) vào xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý tổng hợp VKTTĐPN…
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Những luận cứ khoa học và giải pháp
chủ yếu cho việc phát triển kinh tế bền vững Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam trong hội nhập quốc tế do Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia TP.HCM tổ
chức tháng 12/2007. Kỷ yếu đã tập hợp được 32 báo cáo khoa học, phần lớn
các báo cáo tập trung viết về những điểm còn bất cập trong phát triển kinh tế

của VKTTĐPN; chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức
cho việc phát triển kinh tề bền vững tại VKTTĐPN; đề xuất các giải pháp để
kinh tế trong Vùng phát triển bền vững.
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Nghiên cứu giải pháp phát triển ngành
công nghiệp Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam theo hướng bền vững do
ThS. Nguyễn Văn Quang chủ nhiệm, nghiệm thu tháng 4 năm 2008. Ngoài


18
việc xây dựng cơ sở lý thuyết phát triển ngành công nghiệp theo hướng bền
vững (chương 1), đề tài chú trọng phân tích thực trạng phát triển ngành công
nghiệp trong toàn Vùng từ 2000 - 2006 (chương 2); phân tích cơ chế phối hợp
phát triển ngành công nghiệp và đề xuất những giải pháp phát triển ngành
công nghiệp VKTTĐPN theo hướng bền vững (chương 3). Ngoài ra ở chương
3 của đề tài còn phân tích ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp đến ô
nhiễm môi trường của toàn Vùng. Qua thực trạng, đề tài đã đưa ra nhiều nhận
xét xác thực về công nghiệp của Vùng như: Trong những năm qua ngành
công nghiệp của toàn Vùng đã tăng trưởng khá cao và quá trình chuyển dịch
nội bộ các ngành công nghiệp diễn ra theo hướng tăng mạnh tỷ trọng các
ngành công nghiệp chế biến; Môi trường nước mặt của Vùng bị ô nhiễm trầm
trọng do sản xuất công nghiệp gây ra đã ảnh hưởng xấu đến đời sống của
người dân địa phương; Các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm trong
Vùng đã không tuân thủ đúng Luật Môi trường Việt Nam hiện hành… Từ đó
đề tài kết luận là ngành công nghiệp của VKTTĐPN phát triển không bền
vững. Tuy nhiên, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về các ngành công
nghiệp, nhất là các KCX, KCN trên địa bàn VKTTĐPN. Cái hay nhất của đề
tài là đã cập nhật rất nhiều số liệu mới về tăng trưởng công nghiệp, mở rộng
các KCN và ô nhiễm môi trường do công nghiệp VKTTĐPN gây ra.
- Đề tài nghiên cứu cấp thành phố Những giải pháp nhằm đẩy mạnh
quá trình hợp tác kinh tế giữa thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam do ThS. Cao Minh Nghĩa chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2008. Đề tài chia làm 3 chương. Ở chương 1 đề tài nêu lên
cơ sở lý thuyết hình thành vùng kinh tế; phân tích tổng quan thực trạng kinh
tế, cơ sở hạ tầng và môi trường VKTTĐPN giai đoạn 2000 - 2006. Chương 2,
đề tài phân tích thực trạng mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa TP.HCM và các
tỉnh VKTTĐPN cũng trong giai đoạn 2000 - 2006 trên 4 lĩnh vực chính (tăng
trưởng kinh tế, phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn
nhân lực và bảo vệ môi trường). Ở chương cuối, đề tài đã đưa ra những định


19
hướng nội dung hợp tác kinh tế giữa TP.HCM và các tỉnh trong Vùng giai
đoạn sau 2006 và đưa ra 10 giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình hợp tác kinh
tế vùng đạt hiệu quả. Tuy trong phần đầu của đề tài này có đề cập đến cơ sở lý
luận và quá trình hình thành VKTTĐPN, nhưng còn rất sơ lược. Nội dung
chính của đề tài là tập trung nghiên cứu tìm giải pháp cho hợp tác kinh tế giữa
các địa phương trong Vùng với hạt nhân là TP.HCM. Hơn nữa, phạm vi thời
gian nghiên cứu của đề tài cũng chỉ giới hạn ở giai đoạn sau, từ 2000 - 2006
nên không có cái nhìn bao quát về tình hình của Vùng giai đoạn trước đó.
Qua phần trình bày lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài như trên cho
thấy nổi lên hai vấn đề:
- Thứ nhất, cho đến nay vẫn chưa có một luận văn, luận án, công trình
khoa học nào nghiên cứu về chuyển biến kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN dưới
góc độ khoa học lịch sử.
- Thứ hai, cũng chưa có một công trình khoa học nào viết về quá trình
phát triển, chuyển biến kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN xuyên suốt thời gian và
tổng thể không gian từ khi hình thành đến nay.
Tuy nhiên, các trình nghiên cứu, đề tài khoa học… kể trên đã tạo điều
kiện cho việc nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề cần tìm hiểu của luận án.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận án đã có sự kế thừa và tiếp thu

có chọn lọc một số kết quả nghiên cứu những công trình nghiên cứu trước.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những chuyển biến kinh tế - xã hội
trên địa bàn VKTTĐPN. Trong đó sẽ chú trọng nghiên cứu đến những chuyển
biến kinh tế trong Vùng như: quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế (bao gồm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần), tình hình phát triển các ngành
kinh tế (bao gồm công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, thương mại - dịch


20
vụ…). Từ đó luận án sẽ đi sâu phân tích đặc điểm của chuyển biến kinh tế, sự
tăng trưởng kinh tế cùng những nhân tố tác động đến sự tăng trưởng (cơ cấu
vốn đầu tư, cơ cấu lực lượng lao động…). Bên cạnh đó, sự chuyển biến xã hội
ở Vùng cũng là đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Sự chuyển biến xã
hội quan tâm nghiên cứu ở đây bao gồm: chuyển biến dân số, dân cư, nguồn
nhân lực; chênh lệch mức sống, chỉ số phát triển con người… và chúng được
đặt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình chuyển biến kinh tế, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở VKTTĐPN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian:
Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là từ khi hình thành nên
ĐBKTTĐPN năm 1993, qua giai đoạn đổi tên thành VKTTĐPN (năm 1998)
và kéo dài đến năm 2008. Chọn năm 2008 làm thời điểm kết thúc của phạm vi
thời gian nghiên cứu là vì đây là cột mốc đánh dấu 15 năm phát triển từ khi ra
đời ĐBKTTĐPN (1993 - 2008) và cũng là thời điểm tròn 10 năm hình thành
và phát triển kể từ khi chính thức mang tên VKTTĐPN (1998 - 2008).
- Phạm vi không gian:
Phạm vi không gian nghiên cứu của luận án chủ yếu tập trung vào 4

tỉnh, thành tham gia tạo nên ĐBKTTĐPN vào năm 1993 và cũng là 4 địa
phương hạt nhân trong VKTTĐPN theo Quyết định 44/1998/QĐ-TTg năm
1998 của Chính phủ về quy hoạch Vùng là: TP.HCM, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương. Đây cũng chính là 4 tỉnh thành thường
được các nhà quản lý và nghiên cứu gọi là Vùng kinh tế động lực hay Vùng tứ
giác vàng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội
trong giai đoạn 1998 - 2008, để có những đánh giá tương đối toàn diện hơn về
Vùng, luận án cũng sẽ mở rộng không gian nghiên cứu ra các địa phương
khác ở khu vực Đông Nam bộ vừa gia nhập vào VKTTĐPN là tỉnh Bình
Phước và tỉnh Tây Ninh.


21
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG
4.1. Phương pháp luận
- Khi nghiên cứu về vấn đề chuyển biến kinh tế, trong luận án này tác
giả tiếp cận theo học thuyết kinh tế chính trị Mác-Lênin. Trong đó không chỉ
nghiên cứu các biểu hiện bên ngoài của các quá trình chuyển biến kinh tế mà
còn liên hệ chúng với biến đổi xã hội, sự tác động của kinh tế đối với xã hội
và xã hội đối với kinh tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Luận án cũng được thực hiện dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với các vấn đề phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vấn đề
phát triển kinh tế vùng và phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là về “chuyển biến kinh tế -
xã hội”, hay nói cách khác là nghiên cứu về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội
nên luận án sử dụng cả phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, khoa
học kinh tế lẫn xã hội học. Hơn nữa, quá trình “chuyển biến kinh tế - xã hội”

này lại diễn ra trong một không gian cụ thể là VKTTĐPN, một Vùng kinh tế
có vị trí địa lý rõ ràng, được chia ra dựa trên tiêu chí địa lý kinh tế, nên luận
án còn kết hợp sử dụng cả những phương pháp nghiên cứu của địa lý kinh tế.
Như vậy, để giải quyết các vấn đề khoa học đặt ra của luận án, tác giả
cố gắng áp dụng cách tiếp cận liên ngành lịch sử - kinh tế - xã hội học và địa
lý. Tuy nhiên, vì là một luận án chuyên ngành Lịch sử Việt Nam nên phương
pháp nền tảng, phương pháp chủ yếu nhất được sử dụng trong luận án vẫn là
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận án này với mục đích
dùng để xem xét và trình bày quá trình phát triển các mặt của kinh tế - xã hội
ở VKTTĐPN theo một trình tự liên tục từ năm 1993 - 2008. Quá trình phát
triển liên tục này của Vùng được đặt trong mối liên hệ với các yếu tố khác


22
nhau như vị trí địa lý, tiềm năng thiên nhiên, tiềm lực xã hội, chính sách vĩ
mô… Sử dụng chính phương pháp lịch sử trong luận án là để đảm bảo tính
liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh,
phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của
chúng với các yếu tố liên quan.
Như vậy, sử dụng phương pháp lịch sử trong luận án là để có thể dựng
lại bức tranh toàn cảnh, chân thực, khoa học, phản ánh đúng lịch sử và quy
luật vận động của quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội trong Vùng cũng như
quá trình hình thành, phát triển VKTTĐPN.
Bên cạnh đó, để luận án có tính lý luận và khoa học, tác giả còn vận
dụng phương pháp lôgic và các phương pháp khác trong nghiên cứu lịch sử.
Phương pháp lôgic sử dụng trong luận án là nhằm để xem xét, nghiên
cứu các sự kiện, kết quả… về kinh tế - xã hội diễn ra trong VKTTĐPN dưới
dạng tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận
động của lịch sử phát triển Vùng. Hơn nữa, sử dụng phương pháp lôgic ở đây

còn nhằm lý giải, khái quát, đánh giá và rút ra những kết luận từ quá trình
chuyển biến kinh tế - xã hội ở Vùng trong giai đoạn từ năm 1993 - 2008.
Các phương pháp khác trong nghiên cứu lịch sử được tác giả sử dụng
trong luận án là phương pháp phân tích so sánh (phương pháp này là sự hỗ trợ
cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgic trong luận án),
phương pháp đồng đại (phương pháp này giúp luận án bao quát được toàn vẹn
và đầy đủ quá trình lịch sử; so sánh được diễn biến, kết quả diễn ra trong cùng
một thời gian ở các Vùng khác nhau hay ở các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
khác nhau trong Vùng…).
Các phương pháp nghiên cứu kinh tế chủ yếu được sử dụng trong luận
án là phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp phân tích kinh tế và phương
pháp so sánh hệ thống kinh tế. Ở phương pháp so sánh hệ thống kinh tế, tác
giả sử dụng 2 cách: So sánh hệ thống kinh tế ở các giai đoạn khác nhau (phân


23
tích so sánh dọc) và so sánh hệ thống kinh tế trong cùng một giai đoạn (phân
tích so sánh ngang).
Trong phần nghiên cứu về chuyển biến xã hội, tác giả chủ yếu sử dụng
các nguồn tài liệu và số liệu điều tra trong các đề tài nghiên cứu trước có liên
quan, trong các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND các tỉnh trong Vùng,
các Nghị quyết Đại hội Trung ương Đảng và của Đảng bộ các địa phương
trong Vùng. Đặc biệt, luận án sử dụng rất nhiều số liệu từ các cuộc điều tra
tầm vĩ mô và cả niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê Việt
Nam, đồng thời luận án cũng dựa vào số liệu thống kê hàng năm của các tỉnh
trong VKTTĐPN để tính toán, tổng hợp, xử lý và phân tích, đánh giá.
Vì vậy, phương pháp nghiên cứu xã hội học được sử dụng trong luận án
là phương pháp thống kê xã hội học và phương pháp phân tích số liệu xã hội
học.
Còn phương pháp nghiên cứu địa lý kinh tế được sử dụng trong luận án

là phương pháp địa lý kinh tế lịch sử. Phương pháp này dùng trong luận án
mục đích để nghiên cứu lịch sử và sự phát triển khía cạnh không gian của cơ
cấu kinh tế trong quá trình chuyển biến.
4.3. Các nguồn tài liệu sử dụng
Tài liệu sử dụng trong luận án được tác giả khai thác ở nhiều nguồn
khác nhau, từ các Nghị quyết, văn kiện Đảng; các chính sách của Nhà nước,
các quyết định, thông báo của Chính phủ đến báo cáo của các địa phương
trong Vùng; từ các công trình khoa học, đề tài nghiên cứu lớn đến bài viết
trên các tạp chí… Những nguồn tài liệu sử dụng chính bao gồm:
- Các thông báo, báo cáo tình hình hoạt động của Ban chỉ đạo điều phối
phát triển các VKTTĐ ở Việt Nam (được khai thác từ Văn phòng Ban chỉ đạo
điều phối phát triển các VKTTĐ tại Hà Nội).
- Các nghị quyết và văn kiện Đại hội Đảng các thời kỳ của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (được khai thác từ sách của nhà


24
xuất bản Chính trị Quốc gia, báo Cộng sản online và cổng thông tin điện tử
của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam).
- Các công văn, quyết định, báo cáo của các Bộ, chủ yếu là của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại (được khai thác từ văn phòng
các Bộ phía Nam ở TP.HCM và qua trang web của các Bộ).
- Các quyết định, nghị định, thông báo, chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ về những vấn đề liên quan đến VKTTĐPN (được khai thác tại Chính phủ
phía Nam ở TP.HCM và trên trang web của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam).
- Các báo cáo tình hình phát triển của UBND các địa phương trong
VKTTĐPN (khai thác tại văn phòng UBND và Trung tâm lưu trữ các tỉnh).
- Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam và của các Cục
Thống kê các tỉnh thành trong VKTTĐPN (được khai thác qua các sách thống

kê xuất bản hàng năm và qua trang web của Tổng cục thống kê Việt Nam).
- Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về ĐBKTTĐPN của
Viện Kinh tế TP.HCM (được khai thác tại thư viện Viện nghiên cứu phát triển
TP.HCM, thư viện Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam và qua trang web
của Viện Kinh tế).
- Đề tài khoa học của các Viện nghiên cứu khoa học trong nước như
Viện Chiến lược Phát triển, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (được khai thác tại Trung tâm Thông tin tư
liệu Viện Khoa học xã hội Việt Nam tại Hà Nội)
- Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và cấp thành phố của các
giảng viên (được khai thác tại Thư viện trường Đại học Kinh tế TP.HCM và
Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP.HCM)
- Các luận án, luận văn viết về các vấn đề kinh tế - xã hội ở các địa
phương trong VKTTĐPN (được khai thác tại Thư viện Khoa học Tổng hợp
TP.HCM và Thư viện trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM)


25
- Các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế học và
xã hội học viết về VKTTĐPN (được khai thác từ các tạp chí do Viện Kinh tế
Việt Nam, Viện Kinh tế TP.HCM và Viện Xã hội học Việt Nam xuất bản).
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Trước hết, có thể khẳng định luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên
tổng hợp về sự chuyển biến trên nhiều lĩnh vực của kinh tế - xã hội ở
VKTTĐPN trong suốt thời kỳ từ khi hình thành đến năm 2008.
Dưới góc nhìn khoa học lịch sử và nghiên cứu chủ đạo bằng phương
pháp nghiên cứu lịch sử trong vấn đề chuyển biến kinh tế - xã hội ở
VKTTĐPN, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những dữ liệu có ích,
làm cơ sở khoa học giúp cho Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương có cái
nhìn toàn diện hơn trong việc hoạch định những chủ trương, chính sách phát

triển kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN.
Hơn nữa, trên cơ sở hệ thống hóa nhiều nguồn tư liệu cũ và mới, phân
tích các số liệu thống kê chung và riêng, luận án góp phần tái hiện bức tranh
sinh động và tổng thể về chuyển biến kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN giai đoạn
1993 - 2008; đưa ra một số ý kiến nhận xét, đánh giá góp phần vào việc
nghiên cứu lịch sử kinh tế - xã hội đương đại ở Đông Nam bộ nói riêng và
Việt Nam nói chung.
Bên cạnh đó, luận án đã dựng lại bức tranh tương đối rõ nét về quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở VKTTĐPN trong thời kỳ 1993 - 2008 với
những chỉ số định lượng cụ thể của từng giai đoạn, góp phần làm sáng tỏ
những đặc điểm lịch sử, đặc điểm kinh tế và đặc điểm xã hội của Vùng, cũng
như những tiềm năng, thế mạnh và thách thức đặt ra cho Vùng trong sự phát
triển đi lên.
Cuối cùng, luận án này là một công trình tổng hợp, đúc kết có hệ thống
qua việc tiếp cận, lựa chọn, tổng hợp một khối lượng tài liệu lớn xuất phát từ
nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến VKTTĐPN. Do đó luận án sẽ là một

×