Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Con người cá nhân trong văn học thời đại lý trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.91 KB, 12 trang )

Con người cá nhân trong văn học
thời đại Lý – Trần
Nói đến con người trong văn học Lý – Trần người ta có thể nhìn từ
nhiều bình diện và có nhiều cách tiếp cận. Có thể nói tới con người
yêu nước, trung nghĩa (như trong thơ Lý Thường Kiệt (1019 – 1105),
Trần Quang Khải (1241 – 1294), Trần Quốc Tuấn (1226 – 1300),
Đặng Dung (thế kỷ XV),… ; con người chưa chịu sự ràng buộc chặt
chẽ của Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ, tích cực kiểu
Thiền tông, hoặc con người vô ngôn, vô ngã, tự do, phá chấp theo
giáo lý nhà Phật. Lý tưởng độc lập, chủ quyền là cái đích của các cá
nhân anh hùng thời đại.
Trần Quốc Tuấn đã trình bày một cách khá trần trụi mối quan hệ
giữa “ta” và “các ngươi” như là các cá nhân, dòng họ trong cộng đồng
“quốc gia” về mặt lợi quyền, danh dự, vinh nhục, kích thích ở họ lý
tưởng phải biết sống với người “tri kỷ” của mình. Quan hệ giữa chủ
tướng và tỳ tướng nổi bật trong quan hệ quốc gia. ý thức cá nhân
hưởng lạc trong đám tỳ tướng là một thực tế mà chủ tướng không thể
phủ nhận, mà đã bàn đến lợi ích cá nhân, dòng họ thì chưa phải tư
tưởng thuần là Nho giáo. ý thức về kẻ thù dân tộc cũng không rõ nét
khi nhắc tên các gương trung nghĩa của tỳ tướng nhà Nguyên đi đánh
quân Nam Chiếu, là đội quân đang xâm lấn ta ! Con người cá nhân
được ý thức rõ hơn khi thất bại, vì thông thường sự thất bại, lầm lỡ
đều có tính chất số phận cá nhân, buộc con người phải ôm hận, nuốt
hận (“Vận khứ anh hùng ẩm hận đa” – Đặng Dung).
Lý tưởng Phật giáo thời kỳ này đã đáp ứng nhu cầu gì của cá nhân ?
Lý tưởng chung của Phật giáo là diệt khổ. Nhưng phải xét đến tình
hình lịch sử cụ thể của thời kỳ này để giải thích vì sao, đến thời khác,
lý tưởng đó có thể không đáp ứng được phổ biến như vậy. Việc tiếp
nhận một lý tưởng không giản đơn chỉ phụ thuộc vào nội dung lý
tưởng của lý thuyết đó, mà trước hết phụ thuộc vào tâm lý xã hội.
Người Việt Nam tiếp xúc với Nho, Phật, Lão từ đầu Công nguyên.


Nhưng trong nghìn năm Bắc thuộc ấy, Nho giáo đã là công cụ thống
trị của ngoại bang. Những người Nho học có thể tham gia vào bộ máy
thống trị của người Hán. Nho học từ đời Hán đã kết hợp với tư tưởng
Pháp gia, nên đã khá tàn bạo, chứ không thuầnnhân nghĩa như nho
giáo nguyên sơ. Do đó theo Nho là con đường tự nguyện đồng hoá.
Phật giáo ngược lại, một mặt là công cụ chống bạo lực, bạo tàn, kêu
gọi từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, vạch rõ quy luật “ác giả ác báo”, đòi
hỏi chăm lo thiện căn ; mặt khác đó cũng là một con đường giải thoát
cho những kiếp người đang chìm đắm. Quá trình xây nền độc lập lúc
đầu đầy hy sinh và thành công thường ngắn ngủi. Những năm thuộc
Đường, chính sự càng hà khắc. Nhà Đinh, Lê đã bước đầu xây dựng
nhà nước độc lập nhưng không lâu dài, bởi có nhiều trở lực từ phía
dục vọng, tham ác. Thực tế lịch sử đó đã củng cố tâm lý thiên về Phật
giáo cả trong dân gian lẫn giới quý tộc. Đối với dân gian, Phật giáo là
ngôn ngữ biểu đạt niềm tha thiết được cứu khổ cứu nạn, khát vọng
được bình yên, hạnh phúc ; đối với giới quý tộc, Phật giáo là phương
tiện để đạt đến sự thanh thản trong tâm hồn trước mọi biến động đột
ngột. Dù có khác nhau, Phật giáo đúng là ngôn ngữ chung của thời
đại. Về sau, do nhu cầu xây dựng quốc gia độc lập, Nho học ngày càng
được trọng dụng, tạo thành dạng kết hợp Nho – Phật và phần nào cả
Lão – Trang nữa. Con người trong văn học Lý – Trần vừa có mặt yêu
nước, thượng võ, vừa có cảm nhận sâu sắc về tính chất hư huyễn của
cuộc đời, trước hết là của cái thân con người :
− Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
(Thân như ánh chớp có rồi không,
Muôn cây xuân tốt, thu não nùng)
(Vạn Hạnh – Thị đệ tử)
− Thân như tường bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi ?

(Thân xác con người ta thường như tường vách lúc hư nát,
Tất cả người đời đều vội vàng, ai mà không buồn ?)
(Viên Chiếu – Tâm không)
− Thân thị sinh diệt pháp,
Pháp tính vị tằng diệt.
(Sinh diệt bởi thân mình,
Chẳng hề diệt pháp tính)
(Đào Thuần Chân – Thị tịch)
Thân cá biệt là huyễn ảo, hoa bướm là huyễn ảo (Giác Hải). Sống là
chết, chết là sống (Giới Không). Người ta tìm đến chân thân, diệu
thể ; chân thân trong vạn tượng, vô thân mới là chân thân. Phủ nhận
kinh nghiệm biến ảo để đạt tới cái siêu nghiệm vững bền là quan
niệm của con người Thiền học lúc này. Hành vi tiêu biểu thường thấy
của họ là coi biến đổi như không, không sợ hãi, không kinh ngạc, đặc
biệt là điềm nhiên, bình thản trước cái chết của chúng sinh và của
chính mình.
Cùng với sự “vô uý” (không sợ hãi) trước biến động và cái chết, con
người Thiền học còn khao khát được tiêu dao tự tại, giải thoát mọi
hữu hạn trần tục để đạt được cái tuyệt đối của thế giới. Văn học Thiền
đời Trần còn nói nhiều tới sự hoà đồng với tự nhiên.
Thiền tông Trung Hoa bắt đầu từ Huệ Năng (638 – 713) mở hướng
tìm tòi hướng nội, không hướng ngoại cầu huyền, khám phá chân
tính trong bản thân để tự khẳng định mình trong cái ta bất diệt, có
tác dụng giải phóng cá tính theo kiểu riêng. Họ cầu Tây phương cực
lạc ngay trước mắt, rất phù hợp với tâm lý sống siêu thoát của giới trí
thức từ thời Vãn Đường trở về sau. Cách tu hành giới luật nghiêm
ngặt tầm chương trích điển khổ hạnh đã nhường chỗ cho đời sống tự
nhiên đầy sinh thú, đói thì ăn, buồn ngủ thì nằm ngủ, tuỳ duyên, tuỳ
ngộ, thuận ứng nhẹ nhàng, làm cho con người được khoan khoái.
Cái cảnh “Thú quê nào chán suốt ngày vui”, “Ngư ông say ngủ

không ai gọi” (Không Lộ –Ngư nhàn), cảnh “Gió đập cành thông
trăng lấp loáng – Thanh u cảnh hợp với tâm trạng – Biết bao thú vị
mấy ai hay – Để kệ cho sư vui đến sáng” (Trần Thái Tông – Gửi nhà
sư Đức Sơn ở am Thanh Phong), hoặc hoà nhập con người vào thiên
nhiên :
Người ở trên lầu hoa dưới sân,
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông.
Hồn nhiên người với hoa vô biệt,
Một đóa hoa vừa mới nở tung.
(Huyền Quang – Hoa cúc)
hay : “Muốn biết thế nào chân diện mục – Giữa trưa ngủ tít đến canh
ba” (Tuệ Trung Thượng Sĩ – Tâm vương) đều nói tới sự tùy duyên,
hạnh nguyện, một sự hoà hợp với thiên nhiên có tính cách cá nhân,
bằng thể nghiệm cá nhân của mỗi người mà người ngoài khó bề biết
được, mặc dù nội dung của nó là quên cá nhân trần thế.
Hướng nội cầu tâm, kiến tính, thì phải phát huy cao độ tính năng
động chủ quan cá nhân, làm cho nhà sư Thiền tông thoát tục, thoát
sáo, xử thế nhiều khi như cuồng, đời gọi là “cuồng thiền”. Tu thiền là
cách để mỗi người tự cứu. Huệ Năng từng giễu những ai vọng ngoại
sang Tây Trúc : “Nếu ai cũng sang đấy cả thì chỗ đâu mà ở ?”. Đó
chính là tinh thần mà nhà sư Quảng Nghiêm (1122 – 1190) sẽ nói sau
này : “Nam nhi tự có chí xung thiên – Chớ bước theo vết Như Lai đã
bước”. Điều này có nghĩa là mỗi cái tôi tự tìm đường đi của riêng
mình, tự trở thành Phật tổ của mình. Trong Chính Đại Tạng, truyện
Huệ Chiếu thiền sư ở Lâm Tế có chi tiết : khi Phật tử hỏi : “Nếu kinh
không xem, thiền không học, thì tu như thế nào ?”, Huệ Chiếu đáp :
“Hãy tự làm Phật tổ !”. Tuyên Giám thiền sư (trong Ngũ đăng hội
nguyên) thậm chí nói : “ở đây vô tổ, vô Phật, Đạt Ma là lão càn quấy,
Thích Ca là chày giã cứt khô, Văn Thù là gã gánh phân. (Các khái
niệm) đẳng giác, diệu giác là bọn phàm phu phá chấp ; bồ đề, Niết

Bàn là cọc buộc lừa, tất cả đều là sách của quỷ thần, là giấy lau mụn
nhọt, tứ quả tam hiền, sơ tâm thập địa đều là quỷ giữ mồ, không tự
cứu được”(TĐS nhấn mạnh). Những lời báng bổ điên khùng này quả
đã kích thích sự vứt bỏ giáo điều, tự tạo lập trường phái, tạo thành các
vị tổ sư của Thiền phái Việt Nam. Trần Tung (1230 – 1291) khi trả lời
em gái là hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm hỏi tại sao ông lại ăn
thịt, đã nói : “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật, Phật
chẳng cần làm anh” (Trần Nhân Tông – Hành trạng của Thượng Sĩ
Tuệ Trung). Đó chính là tinh thần giải phóng cá tính sáng tạo khỏi
các giáo điều của Thiền tông mà học giới gọi là “tự tính luận”. Trong
bài Ngẫu tác, Trần Tung viết :
Giữa nhà không khói chỉ ngồi yên,
Nhàn ngắm Côn Lôn sợi khói lên.
Lúc mệt mỏi thời tâm tự tắt,
Cần chi niệm Phật với cầu Thiền.
Trong bài Phật tâm ca (Bài ca Phật và tâm), ông lại viết :
Tỉnh, tỉnh, thức thức, tỉnh tỉnh,
Bàn chân giẫm đất đứng chống chếnh.
Ai người tin tưởng ở nơi đây,
Bước lên đầu Phật, trèo lên đỉnh.
Hét !
Trần Tung theo dõi một sự giác ngộ thật sự, tuyệt đối, tự thân, không
môi giới :
Từng phen nối gót Tứ Minh cuồng,
Nào phục Y vương với Quỷ vương.
Chưa giác ngộ là chân giác ngộ,
Khó suy lường ấy diệu suy lường.
Thấp căn mới hỏi thuốc sống mãi,
Cao trí cần chi “bất tử phương”.
Cá chẳng tìm ăn khi nước lạnh,

Bỗng không nơm lưới cũng quên luôn.
(Hoạ thơ Huyện lệnh)
Bài Phóng cuồng ngâm của Trần Tung (có lúc coi là của Trần Quốc
Tảng, 1252 – 1313) cũng có đoạn miêu tả một thế giới giống mà khác
hẳn hiện hữu :
Đói thì ăn chừ, cơm tuỳ ý,
Mệt thì ngủ chừ, làng không làng !
Hứng lên chừ, thổi sáo không lỗ,
Lắng xuống chừ, đốt giải thoát hương !
Mỏi nghỉ tạm chừ, đất hoan hỷ,
Khát uống no chừ, nước thênh thang…
Đó là con người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, làm chủ trong mọi biến
ảo. Có thể nói đó là con người tự do, nhưng tự do hướng nội, tự do vứt
bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng và cũng không kém phần hư
huyễn, mặc dù là thanh cao, cho riêng mình. Lý tưởng tha thiết của
Thiền tông là “nở đoá sen vàng trong lò lửa”. Đời đối với họ chỉ là cái
lò lửa thiêu đốt con người, là địa ngục trần gian của con người. Nếu
giác ngộ thì sẽ là đoá hoa tươi trong cái lò ấy và là đoá hoa bằng vàng,
lửa không làm hỏng được.
Giải phóng con người khỏi ngã chấp, khỏi vọng niệm, khẳng định
thú vui tự nhiên của cá nhân, vứt bỏ giáo điều, quyền uy, ngẫu tượng,
chỉ đứng vững trên sự thể nghiệm cá nhân của mình, tôn trọng hoài
nghi, tự ngộ, không áp đặt, như vậy có thể nói là con người “vô ngã”
không ? Có thể coi một con người là “vô ngã” khi họ xem ý chí cá
nhân, thể nghiệm cá nhân, kinh nghiệm cá nhân là cao nhất ? Thiền
học nêu nguyên tắc “Hữu nghi thì hữu ngộ, tiểu nghi thì tiểu ngộ, đại
nghi mới đại ngộ”, buộc con người tu thiền ở vào cái thế bắt đầu từ
chỗ bắt đầu. “Tôi nghi ngờ tức là tôi giác ngộ”, đạt được kiến tính,
chân như.
Nhiều cuộc giảng đạo, thầy trò hỏi đáp như Nhất nhật hội

chứng của Ngô Tịnh Không ( ? – 1170), Tham đồ hiển quyết của Mai
Trực (999 – 1090), Sư đệ vấn đáp của Trần Nhân Tông (1258 –
1308), Thượng Sĩ ngữ lục của Trần Tung,… đều có vẻ như mô phỏng
các ngữ lục của thiền sư Trung Hoa, nhưng đó cũng là những cuộc thể
thao trí tuệ trên con đường phá chấp, bài trừ vọng niệm, bài trừ ngôn
ngữ. Nội dung các cuộc hỏi đáp xoay quanh các khái niệm Vô, Hữu,
Sắc, Tâm, Chân, Giả,… hoàn toàn xa lạ với vấn đề cơm áo hằng ngày.
Nhưng dù thế nào, hình thức này cũng là hình thức đầu tiên mà
người trí thức Việt Nam đương thời đã tự trở thành con người tư duy
triết học. Lần đầu tiên trong thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập tự chủ,
con người Việt Nam xuất hiện trong tư thế tư duy trí tuệ, tự xác lập
môn phái, mà không phải mê tín dị đoan, thật là một sự kiện lớn,
xứng đáng với con người của một quốc gia độc lập. Thiền tông Việt
Nam đã đem lại cho văn học Việt Nam một gương mặt trí tuệ ngời
sáng, độc đáo, có lẽ đến nay người ta chưa nhận thức hết ý nghĩa của
nó.
Trái với con người “vô uý” trong Thiền phái, con người chịu ảnh
hưởng Nho gia bộc lộ phương diện con người kính sợ. Một mặt, con
người Lý – Trần là con nhà thượng võ. Trần Nhân Tông, Lý Thường
Kiệt, Trần Cảnh (Trần Thái Tông, 1218 – 1277), Trần Tung, Trần
Thánh Tông (1240 – 1290),… có thể coi là những điển hình thực tế,
rất coi trọng võ công. Đó là điều dễ hiểu. Thiếu võ công thì làm sao
bảo vệ được nền độc lập dân tộc ? Lộ bố phạt Tống, Hịch tướng sĩ
văn (tức Dụ chư tỳ tướng hịch văn), thơ Trần Quang Khải (1241 –
1294), Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) đều là sự thể hiện con người yêu
nước, tự hào dân tộc, tự chủ, tự cường, tinh luyện võ công.
Nhưng mặt khác, những con người ấy lại rất tin mệnh trời, tin thổ
thần. Biết bao bài sấm ký, sấm ngôn lưu truyền trong dân gian được
coi như thông điệp dự báo của thiên mệnh, một hiện tượng nổi bật
của thời này. Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (1121) ở chùa Long Đội

(Duy Tiên) hàng chục lần nhắc đến điềm lạ, biểu hiện sự cảm ứng
giữa người và trời : “Trời hiện điềm thiêng, rừng phô vật lạ ; cỏ thơm
mọc hai lượt, hươu trắng đến sáu lần. Nai tuyết một con, hoẵng đen
về một cặp. Một cây cau tía nảy lắm mầm thiêng, chuột sinh lông
trắng, thông biến lọng nghiêng. Sẻ trắng cưu vàng tụ tập, rồng xanh
cò trắng dâng trình”… Những điềm lành và tai dị được coi như sự
kiện lịch sử và được ghi nhiều ở Đại Việt sử ký toàn thư (1479) của
Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV). Điều này chứng tỏ niềm tin trời, tin thượng
đế, thổ thần rất sâu sắc, song song với tin Phật, tin Lão, tin Nho. Có
thể nói Nho – Phật – Đạo trên tâm thức dân gian đã kết hợp với niềm
tin trời, tin quỷ thần. Trần Duệ Tông (1336 – 1369) từng hiến tế dâng
nàng Bích Châu trên đường Nam chinh cho thần biển, biển mới yên
(Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, 1705 – 1748). Đặc điểm này
còn thể hiện dài lâu trong lịch sử và văn học Việt Nam suốt thời
trung đại.
Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Lê, còn chép vua Thái Tông đi
thuyền vào sông Thiên Đức qua đền Bạch Sư không thể đi được, sau
phải tế một con nghé con mới được yên. Khổng Tử nêu việc nhân để
hướng sự chú ý vào con người, còn đối với trời đất quỷ thần thì “kính
nhi viễn chi”, mặc dù có nói “tế như tại” nhưng chủ yếu vẫn là “viễn
chi”. Con người Việt Nam hoà đồng thành một thế giới đất trời, con
người, trong đó ý thức tôn giáo, tín ngưỡng còn rất đậm nét. Vua Lê
Nhân Tông (ở ngôi 1443 – 1459) khi mới lên ngôi đã gặp nhiều tai dị,
bèn xuống chiếu như sau : “Mới rồi trời giáng điềm tai biến, sao sa
đất động, trẫm rất lo sợ. Nghĩ cơ sinh tai biến, không biết bởi đâu.
Hoặc là vì trẫm mới cầm quyền, chưa biết giảm nhẹ lao dịch thuế
khoá, có việc không tiện cho dân chăng ? Hoặc là phụ quốc đại thần
điều hoà trái lẽ, nên khí âm dương không hoà mà đến thế chăng ?
Hoặc là việc ngục tụng không công bằng, công nhiên hối lộ, hình
nhiều oan uổng mà đến thế chăng ? Hoặc là chức thú lệnh chưa có

được người giỏi, làm bừa trái phép, nhiễu hại dân gian mà đến thế
chăng ? Hoặc là bọn oán nữ trong cung chưa cho ra nên hại hoà khí
mà nên thế chăng ? Hoặc là kẻ gièm pha gian giảo, công thần bị
khuất chưa thấu được oan mà đến thế chăng ? Hoặc vì bày việc thổ
mộc chuộng cung điện cao đẹp chăng ? Kẻ tiểu nhân tiếm mà người
quân tử lui chăng ? Đường ăn nói bị bịt mà ơn trên bị lấp chăng ?
Chuộng bọn hầu gái mà thành lỗi tư túi chăng ? Hạ lệnh cho hữu ty
cùng bọn quân nhân đều phải hết lòng bày tỏ những điều có thể hồi
được lòng trời, hết được tai biến, cứ việc nói thẳng, chớ nên ẩn giấu,
để giúp chỗ thiếu sót của trẫm”
(1)
.
Chúng tôi không nhầm lẫn khi dẫn tác phẩm thời Lê (Hồng Đức,
1470 – 1497), bởi ví dụ này cho ta hiểu cụ thể mối quan hệ con người
và trời – vũ trụ, bởi trời là bậc phán quyết tối cao và cuối cùng đối với
con người. Nhà sư Viên Thông Nguyễn Nguyên ức (1080 – 1151) đời
Lý đã viết về nguồn gốc hưng vong, trị loạn của thiên hạ : “Các bậc
thánh vương đời trước đều bắt chước trời, không ngừng trau đức để
sửa mình ; bắt chước đất, không ngừng trau đức để yên dân…”.
Mặt khác, con người cũng được coi là kết tinh đặc biệt của tú khí,
của đất trời. Như Lý Thường Kiệt là bậc hiền tài do “Chung đúc khí
thiêng sông núi năm trăm năm mà nảy sinh” (Văn bia Thái uý Lý
công nước Đại Việt). Còn Bia mộ phu nhân phụng thánh họ Lê thì ca
ngợi : “Rồng cuộn hổ chầu mang tú khí – Đất trên sông sinh người
hào quý – Phu nhân đức hạnh rạng đương thời – Thân bà yểu điệu
thật linh dị…”.
Xét về tâm hồn, đó là con người luôn luôn xúc động, vui sướng
trong sự hoà hợp của thiên nhiên, với thiên nhiên, từ trong thiên
nhiên tìm thấy bản tính của mình. Phương diện này được thể hiện tập
trung trong thơ Trần Nguyên Đán (1325 – 1390)…

Tóm lại, con người trong văn học Lý – Trần được thể hiện ở nhiều
bình diện, nhưng con người cá nhân được ý thức dưới các hình thái
sau : Khi phải đem sức mình để tự khẳng định mình trong lý tưởng
chung, người quý tộc nói tới ý chí, quyết tâm, quyền được hưởng lạc,
hoặc tự cảm thấy sự tồn tại của cá nhân khi hết vận, hết thời, khi bị đe
doạ trừng phạt trước trời, hoặc là sự kết tinh đặc biệt của đất trời.
Trong văn học Thiền, ý thức cá nhân được thức tỉnh trong vai trò tự
cứu, tự tìm đường giải thoát, tự tìm thấy yên tĩnh, hoà nhập với thiên
nhiên trước lẽ sinh diệt, huyễn ảo. Đó là một ý thức cá nhân thuần
tuý tinh thần, hoà hợp với thiên nhiên một cách siêu tự nhiên, siêu
kinh nghiệm.

×