Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Giải cấu trúc và nghiên cứu phê bình văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.57 KB, 11 trang )

Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình
văn học

Giải cấu trúc là một trào lưu tư tưởng hậu hiện đại trong khoa học xã hội và
nhân văn, xuất hiện ở phương Tây từ cuối những năm 60, kéo dài cho đến cuối
thế kỉ XX, nhưng có ảnh hưởng rộng lớn toàn thế giới. Đó là những năm thế
giới chìm trong các mâu thuẫn và đảo lộn, đòi hỏi có sự phản tư phản tỉnh về tư
tưởng, văn hóa: hệ thống thuộc địa tan rã, chiến tranh Việt Nam của Mĩ đi vào
ngõ cụt không lối thoát, mâu thuẫn tư tưởng Trung Xô, Trung Quốc cách mạng
văn hóa. Cuối những năm 70 cách mạng văn hóc Trung Quốc kết thúc thì
phong trào Cải tổ nổi lên ở Nga cho đến khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp
đổ. Cũng vào khoảng giữa những năm 80 Việt Nam bước vào thời kì Đổi mới.
Giải cấu trúc gắn liền với những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội toàn cầu
ở thế kỉ XX.
Tuy có muộn màng, song nếu ai lưu ý thì sẽ thấy ở Việt Nam cũng có chút ít
dấu hiệu của giải cấu trúc. Bản thân chúng tôi và một số người khác từ những
năm 80 thế kỉ trước đã đề xuất việc thay đổi hệ hình lí luận, tư duy, phê bình,
bắt đầu thực hành giải cấu trúc về tính giai cấp, về chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa, chúng tôi đã tiến hành giải cấu trúc lí thuyết điển hình và đánh giá
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, một hiện tượng sáng tác mới mẻ lúc ấy, mà
với lí luận cũ, người ta lúng túng mãi không giả thích được. (Xem Tính nhân
loại và văn học viết năm 1983[1], Bến quê, một phong cách trần thuật có chiều
sâu,1987[2]).Trong những năm gần đây chúng tôi tiến hành giải cấu trúc các lí
thuyết cũ, nhận thức tính huyền thoại của chúng (Xem Lã Nguyên. Lí luận Nga
xô viết thời hậu kì, Trần Đình Sử. Lí luận văn học: khủng hoảng và lối
thoát…). Chính nhờ những hoạt động giải cấu trúc như thế đã góp phần thúc
đẩy quá trình giải thiêng các lí luận ngự trị một thời, mở đường đổi mới lí luận
văn học, khắc phục các nhận thức trì trệ. Nhưng, như mọi người đều biết, tư
tưởng mới khi được du nhập thường có hiện tượng bị hiểu lầm, như có nhà phê
bình cho rằng giải cấu trúc là phi cấu trúc, là tự do khỏi mọi cấu trúc, là không
cần khoa học, phá hủy tác phẩm…vì vậy thiết nghĩ cần giới thiệu cho rõ.


Giải cấu trúc là trào lưu tư tưởng bao quát một phạm vi rộng lớn, từ triết
học, xã hội học, văn hóa học, phương pháp luận cho đến các lĩnh vực cụ thể như
chủ nghĩa hậu thực dân, phê bình nữ quyền. Xét về phương diện triết học và thế
giới quan thì giải cấu trúc là một thái độ đối với nhận thức, chứ không phải là
các biện pháp phân tích văn bản cụ thể. Đối với phê bình văn học thì giải cấu
trúc là một lí thuyết đọc văn bản có hiệu quả. Giải cấu trúc hay chủ nghĩa giải
cấu trúc trước hết là lí thuyết chống lại sự tuyệt đối hóa của chủ nghĩa cấu trúc,
nhưng không chỉ có thế. Trước chủ nghĩa cấu trúc người ta giải thích các tác
phẩm văn học bằng quan điểm lịch sử, hoàn cảnh xã hội, tiểu sử tác giả, hoàn
cảnh sáng tác, ý đồ của tác giả… Chủ nghĩa cấu trúc ra đời chứng minh rằng ý
nghĩa của tác phẩm chỉ nằm trong cấu trúc của văn bản, quan điểm lịch sử bị
phế bỏ, điều đó làm cho chủ nghĩa cấu trúc trở thành kẻ thù không đội trời
chung với chủ nghĩa Mác, và một thời gian dài ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ
nghĩa cấu trúc là thứ cầm kị và đối tượng phê phán liên tục. Nhưng có điều lạ
lùng này. Tuy hai lí thuyết thù địch nhau, song lại giống nhau như lột ở một
điểm: đó là tin rằng mỗi tác phẩm văn chương chỉ có một nghĩa, một ý nghĩa
xác định, bất di dịch, chỉ cần biết nắm được phương pháp này hoặc phương
pháp kia. Chỉ có tin như thế thì có nhà phê bình mới tự coi mình là giỏi nhất,
nắm được chìa khóa mở tư tưởng tác phẩm, không chấp nhận hoặc ghét bỏ
những người có ý kiến khác với mình. Chỉ có tin như thế thì khi đem một tác
phẩm ra phê phán, tác giả của nó bắt buộc phải chấp nhận búa rìu do ý kiến của
người phê bình áp đặt cho họ, mà không được nói lại, bởi chân lí chỉ duy nhất
có một. Nhưng đến thời giải cấu trúc thì cái quan niệm kia bị lung lay đến tận
gốc.
Người khởi đầu cho giải cấu trúc trên thế giới là Jacques Derrida, năm 1966
đã đọc một báo cáo khoa học nhan đề là Cấu trúc, kí hiệu và trò chơi trong
diễn ngôn khoa học nhân văn. Trong bài đó ông chứng minh rằng không có
chân lí tuyệt đối, bất biến, các sự kiện chỉ có ý nghĩa tạm thời. Trong đời sống,
sự kiện là sự cố đối với quá trình bình lặng, đứt đoạn là thách thức đối với
truyền thống, trò chơi là sự phản kháng chống lại các diễn ngôn chuyên chế,

độc tôn.
Trong hệ thống triết học phương Tây có một trung tâm mà cấu trúc dựa vào
đó để duy trì bản thân. Nó quy định phép tắc, hạn chế hoạt động, mà không bị
chế ước, nhưng lại không gì thay thế trung tâm đó được. Ông chỉ ra một nghịch
lí là trung tâm vừa ở trong cấu trúc, vừa ở ngoài cấu trúc, do đó, trung tâm
không còn là trung tâm nữa. Ví dụ ở phương Tây từ trung cổ đến thế kỉ XVIII
thần là trung tâm; từ thế kỉ XVIII dén thế kỉ XIX lí tính là trung tâm; từ thế kỉ
XIX đến những năm 60 cái tôi, vô thức là trung tâm…Có thể nói, sau Derrida
về mặt lí thuyết cái trung tâm lần lượt bị giải trừ.
Dĩ nhiên không có chủ nghĩa cấu trúc thì không có chủ nghĩa giải cấu trúc. Chủ
nghĩa cấu trúc coi ngôn ngữ là hệ thống tự nó hoàn thiện, ổn định, bất biến.
Chủ nghĩa cấu trúc coi cấu trúc ngôn ngữ sinh thành ý nghĩa, cấu trúc là trung
tâm. Cấu trúc của kí hiệu gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt do Saussure đưa
ra như là cấu trúc biểu đạt nghĩa cố định. Derrida chứng minh rằng trong thực
tế cái biểu đạt vượt lên trên cái được biểu đạt. ở đó, người ta chỉ có quan hệ giữa
cái biểu đạt và những cái biểu đạt khác, còn cái được biểu đạt thì mịt mù, phần
nhiều cứ bị trì hoãn mãi. Chẳng hạn khi trong phê bình ta nói tác phẩm A là
phản động, thì hai chữ “phản động” cũng chỉ là một “cái biểu đạt” mà người đọc
đưa ra mà thôi, còn “cái được biểu đạt”, tức là cái thực chất phản động của nó
trên thực tế như thế nào thì có thể được giải thích muôn hình muôn vẻ, mỗi
người nói một khác. Mà mọi sự giải thích như thế suy cho cùng cũng chỉ là
những cái biểu đạt. Như thế việc tìm nghĩa (cái được biểu đạt) tưởng là giản
đơn, hoá ra hết sức phức tạp, nó cứ bị trì hoãn, kéo dài ra mãi, không dứt được.
Như thế nghĩa của văn bản biểu hiện trong quá trình chơi không bao giờ dứt.
Hóa ra trung tâm của ngôn ngữ không phải là cái được biểu đạt, vì nó không cố
định, mà lại là cái biểu đạt. Ở đây Derrida gặp gỡ với nhà phân tâm học Pháp
J.Lacan, người cũng chủ trương cái biểu đạt trôi trượt, bởi vì cội nguồn của
ngôn ngữ là vô thức, cho nên con người không thể khống chế được ngôn ngữ.
Derrida không chỉ giải cấu trúc “trung tâm nhất nguyên”, ông còn giải cấu trúc
“đối lập nhị nguyên” nữa. Triết học phương Tây có truyền thống đối lập nhị

nguyên, như tốt/xấu, thiện/ác, trắng/đen…hay phổ biến/cá biệt, bản chất/hiện
tượng, tất yếu/ngẫu nhiên, nguyên nhân/hậu quả, nội dung/hình thức…là
những cặp đối lập đẳng cấp không bình đẳng, yếu tố trước bao giờ cũng có vai
trò quan trọng hơn yếu tố sau. Như thế muốn nhận thức chân lí cần loại bỏ đối
lập siêu hình đó.
Tất nhiên trước và sau nhà triết học Pháp cũng đã có lí thuyết đưa đến tư
tưởng giải cấu trúc. Với chủ nghĩa đối thoại, nhà tư tưởng Nga M. Bakhtin
(1929, 1963) cho rằng trong tiểu thuyết đa thanh (phức điệu), tác giả không
phải là người quyết định tư tưởng của tác phẩm, cái quyết định là quan hệ đối
thoại của các nhân vật, bởi vì theo ông, mỗi nhân vật tồn tại như một nhà tư
tưởng. Tác giả chỉ là người tổ chức đối thoại. Nhưng phải đến Derrida thì giải
cấu trúc mới trở thành một xu thế trong tư tưởng khoa học nhân văn. Với lí
thuyết ngôn ngữ hành vi của nhà ngữ học Mĩ J. L. Austin, thì khác với truyền
thống triết học châu Âu quen nhìn phát ngôn như những mệnh đề mà người ta
có thể xác định là đúng (chân) hay sai (nguỵ), theo Austin, những lời hứa, lời
thề, lời hẹn… chỉ là ngôn ngữ hành vi, không có cơ sở nào để nói là thật hay giả,
đúng hay sai. Muốn biết đúng sai phải chờ thực tế. Xét rộng ra, theo nhà lí
luận văn học Mĩ J. Culler, ngôn ngữ văn học thực chất cũng là ngôn ngữ hành
vi của nhà văn, nhà thơ. Khi nhà thơ nói: “Tôi đã là con của vạn nhà, Là em của
vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ…” hay “Ôi Tổ quốc ta yêu như
máu thịt, Như mẹ như cha, như vợ như chống…” thì trước hết đó chỉ là lời thề,
là quyết tâm thư, là những cái biểu đạt, những lời nói hành vi. Nói rộng ra
trong xã hội đầy rẫy những ngôn ngữ hành vì mà rất khó phán đoán sự thật/giả,
chân/nguỵ.
Một lí thuyết thứ ba có tác động đến giải cấu trúc là là thuyết về ngữ cảnh. Lí
thuyết này cùng với việc phủ nhận ý đồ tác giả trong văn bản vốn có trong lí
luận phê bình mới Anh Mĩ, làm truyền thống cho tư tưởng giải cấu trúc Mĩ sau
này. Ý nghĩa của lời nói tuỳ thuộc vào ngữ cảnh mà xác định chứ không phụ
thuộc hoàn toàn vào cấu trúc nội tại của lời văn. Câu “Anh bê cái bàn ra ngoài
sân cho” có thể là lời đề nghị bê bàn, có thể là lời thách thức xem có dám bê

không, hoặc là lời mỉa mai, biết tỏng là anh ta không bê nổi. Như thế muốn
hiểu nghĩa mà chỉ dựa vào cấu trúc ngôn từ thì không đủ.
Thứ tư là lí thuyết liên văn bản. Lí thuyết này được gợi ý từ chủ nghĩa đối
thoại của nhà lí luận văn học Nga M. Bakhtin, nhưng được phát triển bởi nhiều
người, từ Kristeva, Bloom, de Man, Miller, Genette, Riffater…Trước đây hễ nói
tới văn chương người ta nói đến tính độc đáo, độc nhất vô nhị của sáng tác của
tác giả. Nhưng với lí thuyết liên văn bản thì mọi sáng tác đều có sự lặp lại, lấy
lại, mượn lại ý tưởng, ngôn từ, kết cấu, cốt truyện… của các nhà văn có trước rồi
biến đổi đi, cấu tạo lại để làm ra cái mới. Như thê muốn hiểu nghĩa của tác
phẩm còn cần phải so sánh đối chiếu, phân tích nhiều mối quan hệ với vô vàn
văn bản khác mới có thể xác định, chứ chỉ riêng cấu trúc của nó thì cũng chưa
đủ. Tính độc đáo không tuyệt đối như người ta tưởng.
Đáng chú ý là quan điểm của M. Foucault, nhà sử học, xã hội học Pháp đề
xuất lí thuyết diễn ngôn. Trong lí thuyết này ông quan tâm mối quan hệ giữa
chủ thể và diễn ngôn. Ông khẳng định rằng tác phẩm không phải là cái vật
mang tư tưởng riêng của cá nhân nhà văn. Bởi vì con người với tư cách là chủ
thể của diễn ngôn là do diễn ngôn tạo ra. Quan niệm này cũng gióng như tư
tưởng của K. Jung, người chủ trương văn học do vô thức tập thể tạo ra, không
phải Goethe sáng tạo ra Fauste, mà là Fauste sáng tạo ra Goethe. Trong văn
học Việt Nam ta có thể tìm thấy một ví dụ thuyết phục, đó là thơ thế tục của Hồ
Xuân Hương, không phải do thi sĩ họ Hồ tạo ra, mà do vô thức tập thể tạo ra.
Không phải Hồ Xuân Hương tạo ra hoài niệm phồn thực, mà chính là hoài
niệm phồn thức đã tạo nên gương mặt thế tục của bà. Như vậy theo Foucault,
một khi tạo ra tác phẩm, tác giả chỉ còn là một bộ phận mang chức năng của tác
phẩm.
Toàn bộ các lí thuyết nêu trên làm nên khuynh hướng “giải cấu trúc”, như
thế giải cấu trúc không có nghĩa là phá huỷ cấu trúc, không có nghĩa là người ta
tự do thoát khỏi cấu trúc để mà muốn nói gì thì nói một cách tuỳ tiện. Giải cấu
trúc là giải trừ cái cấu trúc cố định để phơi bày ra cái cấu trúc mâu thuẫn ở bên
trong, để thấy ý nghĩa của cấu trúc không ổn định, từ đó phát hiện nhiều ý

nghĩa khác “bị bỏ sót”, “bị lãng quên” hay bị “ẩn giấu” mà thường khi tác giả
của chúng cũng không ý thức hết. Cấu trúc vẫn còn, bởi cấu trúc là phương
pháp tạo nghĩa. Không có khác biệt, cấu trúc, hệ thống không tạo ra nghĩa. Tuy
nhiên cái quan niệm cấu trúc như trước đây, ảo tưởng rằng chỉ tìm ra một vài
quan hệ chủ chốt nhất, hoặc chỉ với một số lượng yếu tố ít ỏi nhất mà có hiệu lực
giải thích phổ biến nhất, chính xác nhất đã hoàn toàn sụp đổ. Cấu trúc của tác
phẩm văn học, giống như R. Barthes trong sách S/Z đã cho thấy, hoá ra nó là
cả một hệ tinh tú, như một thiên hà, như cả hệ mặt trời với vô vàn yếu tố, hành
tinh, định tinh mà trong điều kiện nhất định mỗi người đọc với đôi mắt thịt chỉ
biết được một số rất ít mà thôi, và nhà giải cấu trúc với thao tác của mình khám
phá ra các “nghĩa bỏ sót”, phá thế của nghĩa độc tôn, tạo thành tính đa nghĩa.
[3]
Hiện nay trên thế giới có nhiều khuynh hướng giải cấu trúc. Có thể nêu một số
khuynh hướng chính sau đây. Một là lí thuyết đối thoại của Bakhtin. Hai là lí
thuyết của các nhà triết học Pháp như Derrida, Foucault và ba là phê bình hậu
thực dân của E. Said, Spivac, Homi Bha Bha, phê bình nữ quyền…bốn là
trường phái Mĩ ở đại học Yale như J. H. Miller, Paul de Man, J. Culler…Phê
bình hậu thực dân bắt đầu với E. Said, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các người đi
trước như Derrida, Foucault. Ông đã vận dụng tư tưởng giải cấu trúc để giải
trung tâm của ý thức hệ, văn hóa thực dân đối với các dân tộc phương Đông,
gây một tiếng vang lớn.
Các nhà giải cấu trúc Mĩ dem lại một cách hiểu tích cực đối với giải cấu trúc
trong văn học. Paul de Man, nhà giải cấu trúc Mĩ, nhận xét về cách đọc truyền
thống có mấy nhận định như sau. Một, cách đọc truyền thống đặc biệt nhấn
mạnh đến đọc đúng và đọc sai. Có những người muốn vượt lên đúng sai, thậm
chí cho rằng mọi cách đọc đều hợp lí như nhau cả. Nhưng cái lối né tránh đúng
sai chỉ đưa người ta vào con đường lầm lạc, bởi bao giờ đọc đúng sai vẫn chiếm
vị trí hàng đầu. Nhưng ranh giới đúng sai không cố định. (Nhắc lại ý này J.
Culler khẳng định rằng: “Phán đoán phê bình, cho dù bị các loại điều kiện hạn
chế như thế nào, dù khiêm tốn tới mức nào, người ta vẫn phải nói về chân

lí.”) Hai, do nhu cầu vạch ra cái sai, cái nhầm để khẳng định cái đúng mà người
ta hay cho cách đọc này hay hơn cách đọc kia, nhưng thực tế mọi cách đọc đều
bị giới hạn bởi cách đọc có trước, bị hoàn cảnh lịch sử trói buộc, phải chỉ ra
được các điều kiện đó thì mới chỉ ra được đâu là mù quáng, đâu là sáng tạo.
Quả là ranh giới giữa chân/nguỵ, mù quáng/sáng tạo, đọc đúng/đọc nhầm là
quan trọng, nhưng sự phận biệt đó dù thế nào vẫn không thể cho phép ta nói
như đinh đóng cột về chân lí hay sáng kiến của mình phát hiện. Ba, trong sự
đánh giá văn học de Man vẫn nghiêng về phía đề cao các tác phẩm kinh điển, vì
đó là bộ phận nền tảng của lịch sử văn học. Tác phẩm càng vĩ đại thì nó càng là
cơ sở để người ta chỉ ra lối đọc trước đó là hạn chế và nhầm lẫn. Làm việc với
các tác phẩm kinh điển, nhà phê bình có được địa vị ưu tiên, càng có cơ chứng
mình cách đọc mới của mình là ưu việt. Nietzsche, Rousseau, Shelley,
Baudelaire, Hodeline, Kunderra…đều đã làm như vậy, và do nêu ra được chân
lí mà họ được tôn sùng. Như vậy phát hiện cái mới đã là giải cấu trúc cái
cũ. Bốn, quá trình phê bình do đó mà không thể tránh được sự lặp lại. De Man
đọc lại Rousseau, vạch ra nhầm lẫn mà khẳng định cái mới của ông. Nhưng
trong khi đam mê diễn giải cái mới nguời ta lại rât dễ sa vào mù quáng, tức là
vấp phải sai lầm mới. Theo de Man, cả Rousseau, cả R. Jauss… đêu không
tránh khỏi điều đó. Đó là luận điểm chính của ông trong tiểu luận Mù tôi và
bừng ngộ. Tư tưởng của de Man cho thấy đọc nhầm là số phận không thể tránh
được của phê bình, nghiên cứu văn học. Nhưng điều đó không phải là để dẫn
đến tư tưởng hư vô chủ nghĩa. J. Culler trong lời kết của cuốn sách Bàn về giải
cấu trúc (1983) đã viết: “Những lời dối trá cho rằng giải cấu trúc là huỷ hoại
văn học, khích lệ người đọc đi tự do tuỳ tiện liên tưởng, xoá bỏ ý nghĩa và nội
dung biểu đạt, người ta chỉ cần đọc qua một số ví dụ trong vô vàn mẫu mực của
phê bình giải cấu trúc, thì có thể thấy ngay đó là sự bịa đặt đến mức buồn cười.
Có lẽ tốt nhất, nên hiểu những lời đồn đại ấy như là một lập trường phòng vệ
nhằm chống lại các nhà phê bình giải cấu trúc phơi bày chân tướng của ngôn
ngữ và thế giới trong các tác phẩm mà họ phân tích.” Lời kết này cho thấy, giải
cấu trúc đâu có phản đối chân lí, cái thiện, cái đẹp. Nó chỉ giải cấu trúc các

chân lí phổ quát, nhất thành bất biến.

Giải cấu trúc như đã nói trên là một hệ hình mới trong phê bình nghiên cứu
văn học. Hàng loạt căn cứ khoa học tóm lược trên đây cho thấy một quan niệm
cấu trúc mới đã hoàn toàn thay thế quan niệm cấu trúc cũ. Việc đoán định ý
nghĩa tác phẩm một cách quyền uy, duy nhất, dứt khoát, chỉ theo một hướng
vĩnh viễn chỉ là một huyền thoại. Giá trị của sự đọc nói chung, thường là ngắn
ngủi và luôn luôn được thay thế bằng những cách đọc mới. Người đọc được lên
ngôi, nhưng vị thế của người đọc cũng không hề vĩnh viễn. Họ chỉ là người làm
nên đời sống sôi động của văn học, làm cho tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm
kinh điển không bao giờ được ngủ yên, chúng cứ bị lật đi lật lại, quay nghiêng
rồi quay ngửa và bao giờ cũng nằm trong tầm ngắm của người đọc yêu mến nó.
Nhà phê bình văn học cũng có số phận như người đọc, nó cũng tạm thời, rồi bị
cách tiếp cận khác thay thế. Không nên mơ ước có nhũng cách hiểu duy nhất
đúng, bất biến đối với văn học. Tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm văn học
kinh điển vẫn có một giá trị trường tồn. Nhà văn sáng tạo tác phẩm kiệt xuất
bao giờ cũng có một vị trí vinh dự trong lịch sử tâm hồn của dân tộc và nhân
loại.
Thao tác chủ yếu của giải cấu trúc cũng rất đa dạng. Theo Bakhtin là từ
trong từ ngữ hay văn bản mà đọc ra một từ ngữ khác hay văn bản khác, tạo
thành một đối thoại hay một liên chủ thể. Theo M. Foucault giải cấu trúc là
“khảo cổ” loại hình tri thức làm nên cái nghĩa trong diễn ngôn hiện hành. Theo
de Man, người giải cấu trúc từ phía tu từ học, xem hệ thống tu từ vốn được coi
như phương thức biểu cảm là một thứ ngôn ngữ dùng để thay cho một ngôn
ngữ, hai ngôn ngữ khác nhau nhưng dính nhau, tạo ra khả năng hiểu sai đối
với “nghĩa đen”, làm cho văn bản tự giải cấu trúc chính mình, từ đó đi tìm
những mâu thuẫn vốn có trong diễn đạt. Đây là một ý rất quan trọng, nó cho
thấy trong văn bản có cái cấu trúc mâu thuẫn bị che giấu, nhưng là cái nguồn
để làm nảy sinh các cách đọc mới. Miller đi xa hơn, cho rằng ngôn từ từ khởi
thuỷ đã là ẩn dụ, không có nghĩa đen nào hết. Người đọc chỉ theo quy ước liên

kết mà khám ý nghĩa, tìm ra vô khối nghĩa.
Giải cấu trúc đem lại cái gì mới cho phê bình văn học hôm nay? Giải cấu
trúc trước hết là phản tư tính hiện đại. Tính hiện đại từ thời Khai sáng, cùng với
tinh thần lí tính, tinh thần nhân văn, sùng thượng khoa học đã đi tới sùng bái
tính phổ quát, lấy phổ quát làm trung tâm. Mọi nhận thức cụ thể đều bị chi
phối bởi tính phổ quát, khiến cho phổ quát che lấp chân lí cụ thể. Giai cấu trúc
là giải cái trung tâm phổ quát, hướng tới phát hiện lại chân lí cụ thể. Đối tượng
chủ yếu của giải cấu trúc trước hết chính là phê bình, nghiên cứu văn học, lí
luận văn học, văn học sử, phương Đông học, các thứ tiểu luận và các thứ lí luận
nói chung…là nơi đầy rẫy những quy luật, những nguyên lí, những nhận định
đúng sai chắc như đinh đóng cột hoặc tuỳ tiện, mơ hồ, nói chung mang định
kiến “cái phổ quát” của cả một thời. Giải cấu trúc đem lại một ý thức phản tư.
Nó muốn soát xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào, mọi nguyên lí, định lí,
nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm, làm rõ những điểm mù, tìm
đến các khía cạnh mới, hợp lí. Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết
lại lí luận, đọc lại người trước với tinh thần khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận,
mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc
vào những tìm tòi mới.
Giải cấu trúc theo trường phái Mĩ giống như phê bình tác phẩm văn học theo
lối đọc kĩ (Close Reading), phơi bày những tư tưởng, cấu trúc, ngôn từ “bị bỏ
sót”, những “nghĩa đang ngủ yên trong văn bản” nhằm phát hiện ý nghĩa mới…
Nó cũng vạch ra những ý tưởng xem ra là mới mà kì tình rất cũ, vạch ra các liên
văn bản được lắp ghép khéo léo vào các sáng tác mới, những bắt chước vụng về,
những lối mòn quen thuộc.
Giải cấu trúc cũng cần cho nhà trường, từ trung học đến đại học. Bởi vì linh hồn
của giải cấu trúc là tinh thần phê phán, là sự phản tỉnh, ý thức hoài nghi khoa
học. Văn chương là lĩnh vực giàu tinh thần phê phán, phản tỉnh và phê phán
nhất. Thiếu tinh thần phê phán và phản tỉnh về văn chương và xã hôị thì đọc
văn, học văn làm sao được?

×