Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.39 KB, 10 trang )

Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử
Trong những năm gần đây, tiểu thuyết lịch sử đã thực sự trở thành
mối quan tâm của nhiều người, nhất là sau những thành công của
Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị
Hảo, Nam Dao…những sáng tác đó khơi gợi cho chung ta nhứng suy
nghĩ mới về tiểu thuyết lịch sử và số phận của nó.
Lịch sử bao giờ cũng là gia tài của trí thức, người mẹ của chân lí.
Những người băn khoăn về thời cuộc bao giờ cũng muốn trở về lật lại
trang sử cũ để tìm câu trả lời cho các vấn đề hiện tai và tương lai. Lịch
sử là một hiện thực đặc thù, nó tuy có thật nhưng đã thuộc về quá
khứ, tuy quá khứ nhưng nó vẫn là một bộ phận của hôm nay, không
thể tách rời hôm nay, hàm chứa nhiều bí ẩn của xã hội và thời đại.
Đúng là thời gian qua trong văn học Việt Nam đương đại đã xuất hiện
nhiều tiểu thuyết lịch sử có giá trị, được bạn đọc chú ý, nhiều bộ sách
đã tái bản nhiều lần với số lượng đáng kể trong tình hình sách xuất
bản không lấy gì làm khởi sắc hiện nay, là một hiện tượng đáng chú ý.
Đó là hiện tượng xuất hiện trong bối cảnh mối quan tâm về văn hóa
ngày một gia tăng trong mấy chục năm qua. Trong học thuật nghiên
cứu văn hóa nói chung cũng như văn hóa dân gian cũng có tiến bộ.
Trong hai cuộc kháng chiến chúng ta chủ yếu quan tâm các vấn đề
chính trị, thế giới quan, lập trường giai cấp, nay xây dựng hòa bình,
hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường, văn hóa xuống cấp, vấn đề văn
hóa trở nên nổi bật, gay gắt. Trước đây chúng ta cũng có viết tiểu
thuyết lịch sử, nhưng đó là loại tiểu thuyết lịch sử cách mạng, viết về
các tấm gương tranh đấu của lãnh tụ cách mạng thời trẻ, các chiến
dịch, các cuộc khởi nghĩa…, trong đó các sự kiện lịch sử diễn ra theo
đối lập nhị nguyên, quy luật đấu tranh giai cấp, địch ta, tiến bộ, phản
động, nông dân với địa chủ, vô sản với tư sản, người yêu nước, kẻ bán
nước, ngoại xâm, trong đó thường là ta tốt địch xấu, ta thắng, địch
thua, chủ yếu là ca ngợi chiến thắng, tạo thành một loại tiểu thuyết
lịch sử chính trị theo quan điểm chính đảng. Đặc điểm của nó thường


là có tính hư cấu tô hồng, điểm nhìn ý thức hệ, diễn ngôn chính trị,
và các thứ đối lập khác. Nhiệm vụ của tiểu thuyết đó là ngợi ca anh
hùng, tuyên truyền tấm gương chiến đấu, cổ vũ tinh thần hi sinh vì
nghĩa lớn. Tiểu thuyết đó cũng thường quan tâm hành động chiến
đấu bên ngoài, ít đi sâu vào phương diện tâm lí, nhân tính, vô thức,
số phận. Quan điểm của tiểu thuyết đó không tránh khỏi hẹp hòi về
phương diện ý thức hệ chính trị, các vấn đề phong phú của văn hóa
dân tộc hầu như bị bỏ qua, vì cho là duy tâm, mê tín dị đoan, cổ hủ…
Thời đó chúng ta khó mà có được các tiểu thuyết như của Nguyễn
Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác… nếu có cũng chưa
chắc đã có được số phận yên ổn. Chuyển hướng văn hóa trong tiểu
thuyết lịch sử của ta phải được coi là một bước đột phá, một bước tiến,
một hướng có tính phổ biến trên thế giới.
Trên thế giới sự đổi thay của tiểu thuyết lịch sử gắn với sự đổi thay về
quan niệm lịch sử. Từ chủ nghĩa cấu trúc đến hậu cấu trúc, từ hậu cấu
trúc đến chủ nghĩa tân lịch sử người ta nhận rõ lịch sử chỉ là sự trần
thuật về lịch sử, mà đã là trần thuật thì khó tránh chủ quan trong lựa
chọn, phán đoán, từ đó tạo nên sự hoài nghi đối với tính chân thực
của văn bản lịch sử. Quan điểm đó làm nảy sinh loại tiểu thuyết lịch
sử mới. Đó là loại tiểu thuyết trở về với văn hóa dân gian, hệ thống
nhiều điểm nhìn của người dân thường, diễn ngôn trần thuật của con
người đời thường, loại bỏ diễn ngôn của nhà viết sử, diễn ngôn chính
trị. Tiểu thuyết lịch sử ngày nay thay đổi khuynh hướng tự sự vĩ mô
chủ yếu gồm vĩ nhân và quốc gia đại sự bằng tự sự mảnh ghép, gia
tộc, cá nhân, từ lịch đại chuyển sang đồng đại…Có thể nói đó là
khuynh hướng mới trong tiểu thuyết lịch sử trên thế giới.
Mọi người đều biết, mối bận tâm của các cây bút viết về tiểu thuyết
lịch sử là vấn đề quan hệ sự thật và hư cấu. Viết theo sự thật ( cứ coi
các sự kiện được ghi trong sử là sự thật lịch sử) thì người đọc mất
hứng thú, bởi thế thì thà đọc sử còn hơn. Nhưng nếu chỉ chú trọng

đến hư cấu mà bỏ qua sự thật lịch sử thì liệu có thu phục được người
đọc. Nhiều người nêu câu hỏi, phải chăng quan niệm của nhà tiểu
thuyết Pháp A. Đuyma về tiểu thuyết lịch sử đã lỗi thời?
Sự thật lịch sử và hư cấu đúng là hai vấn đề then chốt của tiểu thuyết
lịch sử, nhưng không phải là đối lập. Xét từ nguyên, từ lịch sử
(histoire) có 6 nghĩa. Một là chuyện kể; hai là chuyện đã xảy ra; ba là
chỉ quá trình phát triển (Mác nói về quan điểm lịch sử); bốn là đời
sống của con người xã hội.(Trong Gia đình thần thánh Mác nói, “Lịch
sử chẳng phải cái gì khác mà chính là cuộc sống của con người theo
đuổi một mục đích của mình.”); năm là quá khứ của hiện tại đã lùi xa;
sáu là chỉ khoa học lịch sử, sử học. Xét qua 6 nghĩa ấy, thì vấn đề đặt
ra là quan hệ giữa tiểu thuyết và sử học, nói cách khác là văn học và
sử học. Tiểu thuyết và sử học giống nhau vì chúng đều là chuyện kể.
Đối tượng chung của cả hai đều là cuộc sống con người đã lùi về quá
khứ, trong đó có sự thật lịch sử. Người ta thường nói đến tiểu thuyết
phải trung thành với sự thật lịch sử. Nhà mác xít Hunggari G. Lukacs
trong công trình Tiểu thuyết lịch sử (1937) từng nói: tiểu thuyết lịch
sử không chỉ phải bảo đảm được “không khí lịch sử trong việc miêu tả
hoàn cảnh”, mà quan trọng hơn là “miêu tả trung thực bằng nghệ
thuật một thời kì lịch sử cụ thể”. Điều quan trọng ở đây là không khí
lịch sử của hoàn cảnh và trung thực với một thời kì lịch sử cụ thể.
Không thể làm thay đổi không khí lịch sử cũng như thời kì lịch sử cụ
thể. Mỗi thời có không gian, thời gian xác định, có những sự kiện, có
tin đồn, có huyền thoại, có mối lo, niềm vui, có cung cách chạy các
việc, có bài ca, tập quán, trang phục, lối nói cửa miệng…không thể lẫn
với thời khác. Cái chính của tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo nhân vật và
đời sống của một thời kì lịch sử cụ thể không lặp lại đó. Sự kiện lịch sử
là dấu ấn của một thời, không thể thiếu đối với tiểu thuyết lịch sử.
Song chúng ta quá quen với một quan niệm về sự thật lịch sử như là
một cái gì khách quan duy nhất, bất biến, chỉ thế này, không thể thế

khác. Đó là vì chúng ta quá tin vào sử và là một nhầm lẫn. Sự thật
lịch sử trước hết là một sự thật. Khái niệm sự thật là cái có thật, thực
tế, đối lập với cái giả tạo, bịa đặt, không có thật, chính là một yếu tố
của cái đối tượng mà nhà sử học nghiên cứu. Nhưng nhà sử học cũng
như nhà tiểu thuyết không ai tiếp xúc được với sự thật của họ, vì nó
đã vĩnh viễn thuộc về quá khứ, họ chỉ tiếp xúc được với các lời đồn, lời
ghi chép về nó mà thôi, mà ghi chép thì mang tính chủ quan. Do đó,
“sự thật lịch sử” là một khái niệm ẩn dụ, mang tính chủ quan. Vì thế
từ lâu người ta xem chuyện viết sử có tính chất văn chương. Trong
lịch sử nhiều nước, trong đó có nước ta thường có chuyện đem thần
thoại, truyền thuyết đưa vào lịch sử. Nhà mĩ học Đức F. W. Schelling
xem quá khứ là một nghệ thuật lịch sử. Nhà triệt học Ý B. Croce nói :
Khái niệm lịch sử phù hợp với khái niệm chung về nghệ thuật. A.
Duroff xem nguyên tắc thẩm mĩ là nguyên tắc của sử học. Còn nhà
kinh điển mác xít F. Engels nói : Lịch sử thế giới là một nàng thơ vĩ
đại, mở đầu là bi kịch, kết thúc là hài kịch. Nhà nghiên cứu Nga A. V.
Gulưga viết sách Mĩ học của lịch sử. Các quan niệm đó cho thấy lịch
sử và tiểu thuyết rất gần gủi nhau, có họ hàng thân thích với nhau. Cả
hai đều là truyện kể. Cả hai đều không tránh khỏi việc dùng suy luận,
tưởng tượng để bù đắp vào chỗ đứt gẫy, chỗ trống giữa các sự thật
được ghi chép. Cả hai đều đi tìm nhân quả. Cả hai đều muốn chứng tỏ
điều mình viết là sự thật. Ngày nay các nhà tân lịch sử chủ nghĩa vẫn
theo quan điểm đó. Theo họ thì lịch sử như một thực tại chỉ vĩnh viễn
tồn tại trong tưởng tượng và văn bản đã có. Nói một cách chuẩn xác,
cái gì là khách thể lịch sử nào ? Khách thể lịch sử chính là sự biểu đạt
về người và việc đã từng tồn tại. Thực thể của biểu đạt là văn bản,
sách sử, tài liệu ghi chép. Hiểu như thế lịch sử thực chất chỉ là một
thứ diễn ngôn mà thôi. Tin vào sự thật lịch sử thực chất là tin vào sự
ghi chép của văn bản, tin vào một diễn ngôn. Lịch sử khách quan vẫn
có, nhưng trước mắt ta chỉ có văn bản. Những sách sử chỉ là một cách

ghi, một điểm nhìn, một lối tu từ, chỉ nhìn một phía, không phải là
bản thân sự thật lịch sử hoàn chỉnh, với toàn bộ giá trị của nó. Do đó
cuộc đi tìm sự thật lịch sử là việc của biết bao người, trong đó có nhà
văn. Lịch sử dân tộc ta dưới thời phong kiến đó là lịch sử của triều
đại, chủ yếu là dòng tộc trị vì, tuy gắn với dân tộc, đất nước, song vẫn
có khoảng cách xa với dân tộc và đất nước, nhiều sự việc không được
ghi. Triều đại sau lại viết lại lịch sử triều đại trước, bỏ điều này, thêm
điều kia, giải thích lại các sự kiện, cho nên khó tránh sự việc có sai
biệt. Sự thật là có nhiều sử và có nhiều sự thật lịch sử. Chỉ dựa vào ghi
chép này rối tuyên bố ghi chép kia là xuyên tạc thì có khi cũng buồn
cười. Vấn đề là chúng ta cần đối thoại với sử (văn bản), nghi vấn về sử
(văn bản), đòi hỏi “giải thích”, “diễn giải” lại lịch sử, tạo ra diễn ngôn
mới. Nói thế không có nghĩa là chúng ta hoài nghi các chiến công
huy hoàng của dân tộc, hoài nghi sự nghiệp oanh liệt của các anh
hùng kiệt xuất, những nhân vật lỗi lạc của dân tộc, mà chỉ muốn nói
rằng, sử sách chỉ ghi một số ý kiến về các sự thật quá khứ mà không ai
ngày nay được nhìn thấy, chứng kiến, chúng ta biết rất ít về nó, biết
rất phiến diện, nhất là đời sống thực tế của những thời đã qua. Chỉ
một việc đi tìm trang phục cổ của người Việt qua các triều đại cũng đã
cho thấy cái biết của ta nghèo nàn, ít ỏi biết chừng nào. Không phải
cái gì của người xưa cũng đã được lưu lại, được tả lại, kể lại đầy đủ, chi
tiết. Ý thức cá nhân, tình cảm, cách thể hiện, cá tính… của nhân vật
lịch sử vĩnh viễn mất đi theo cái chết của họ thì không thể tìm đâu
được ngoài sự suy đoán, tưởng tượng. Chính vì vậy mà ngòai chính sử
do nhà nước chủ trì, chỉ đạo trong các “quốc sử quán” ngày xưa do
“sử quan” (ông quan viết sử) viết ra, hoặc cán bộ nhà nước của viện sử
học ngày nay, dân gian còn có dã sử, có truyền thuyết, có diễn ca lịch
sử, vè lịch sử, các giai thoại, truyện kể truyền miệng. Mà các hình
thức sau là bước quá độ từ sử học đến nghệ thuật. Tất cả đều chỉ là đi
tìm sự thật lịch sử mà thôi, và kết quả chỉ có được những “diễn ngôn

tự sự” dưới dạng văn bản văn vần hay văn xuôi, truyền miệng hay chữ
viết nào đó. Sự thật trong đó vẫn không phải là “sự thật”lịch sử. Có lẽ
vì thế mà tiểu thuyết lịch sử (có thể kể cả kịch lịch sử, truyện ngắn
lịch sử, truyện thơ lịch sử) trở thành một nhu cầu của mọi xã hội để
làm sống lại quá khứ.
Nhu cầu tiểu thuyết lịch sử trước hết là nhu cầu diễn ngôn, là nhu cầu
đối thoại, phản biện lại với lịch sử, nhu cầu đi tìm những khả năng đã
mất, những góc nhìn mới. Tiểu thuyết lịch sử suy cho cùng cũng chỉ
là một loại diễn ngôn đặc thù về sự thật lịch sử, không phải bản thân
sự thật lịch sử. Để tạo ra được diễn ngôn về lịch sử thì tiểu thuyết lịch
sử cần sử dụng những “sự thật lịch sử” nhất định, bao gồm sự kiện,
nhân vật, phong tục, tập quán, đồ dùng, đồ trang sức, bài hát, trò
chơi đương thời…, nhưng không thể đòi hỏi “hoàn nguyên lịch sử”,
một việc mà bản thân sử học cũng không làm được. Ở đây câu nói nổi
tiếng của A. Duyma vẫn đúng. “Sự thật lịch sử” mà mọi người đã biết
theo sách sử đóng vai trò là những kí hiệu đánh dấu cái thời mà nhà
tiểu thuyết miêu tả, nó là cái đinh để nhà văn treo câu chuyện của
mình lên. Nhưng nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử không phải là kể
lại, tái hiện lại “sự thật lịch sử”, như trong sách sử. Như thế người đọc
chán là phải, bởi đó là sao lại sách sử, có thêm thắt ít nhiều, có gì thú
vị đâu. Nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo ra diễn ngôn mới
về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở
khả năng mới. Ỏ dây trong tiểu thuyết lịch sử “sự thật lịch sử” chỉ là
đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, chứ không phải là nội dung của
tiểu thuyết lịch sử. Nhầm lẫn rất lớn, tồn tại dai dẳng lâu nay là mối
khi nói đến tiểu thuyết lịch sử thì người ta đều đòi hỏi trung thành
với“sự thật lịch sử” như là yêu cầu về nội dung của tiểu thuyết, mà
không biết rằng, đó chỉ là ngôn ngữ, còn nội dung là cái tư tưởng mới
mẻ, độc đáo sâu xa về ý nghũa của lịch sử đã khích lệ nhà văn cầm
bút. Sự thât lịch sử là ngôn ngữ đặc thù của tiểu thuyết lịch sử. Không

có ngôn ngữ đó thì không có tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử
khác với các tiểu thuyết khác chính ở ngôn ngữ đó. Nhà văn có thể bỏ
qua không nói đến hoặc nói nhầm một vài sự thật lịch sử mà tiểu
thuyết vẫn có thể có tính chân thật. Tính chân thật lịch sử không ở
ngôn ngữ mà ở bản thân sự diễn giải của diễn ngôn. Chính vì lẽ đó mà
A. Duyma coi “sự thật lịch sử” chỉ là cái đinh để nhà văn móc lên cái
áo của mình.
Hư cấu là bản chất của tiểu thuyết, thể hiện bản chất của sáng tạo
nghệ thuật. M. Gorki từng nói tỉ lệ sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết
là 2/98. Hư cấu trong trong tiểu thuyết lịch sử như Tam quốc diễn
nghĩa người ta thường nói tỉ lệ đó là 3/7, nhưng thực tế là lớn hơn
nhiều. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử theo tôi không phải là bỏ qua
sự thật lịch sử, mà là tưởng tượng lại sự kiện, nhân vật lịch sử theo
những khả năng mà tài liệu mách bảo, hoặc là đặt một nhân vật hư
cấu vào trong một bối cảnh lịch sử để khám phá tư tưởng, tình cảm
hành động của một thời kì cụ thể. Nhà văn có quyền giải thích sự kiện
khác với định luận trong sử. Ở Trung Quốc Quách Mạt Nhược thường
viết lpaij kịch “phiên án”, tức lật ngược nhận định của lịch sử. Mở
màn vở kịch Thái Văn Cơ, Thái Văn Cơ, người tình của Tào Tháo
đang ngồi vá cái chăn rách và nói với Tào: “Cái chăn này mình đắp
đã mười năm rồi đấy nhỉ!” Thật khó tin, nhưng tác giả có sở cứ. Sự
thật lịch sử theo Ju. Lotman, là sự thực hiện một trong vô vàn khả
năng của hiện thực quá khứ, sự thật đó đã làm cho vô vàn các khả
năng lịch sử khác mất cơ hội được thực hiện, mà thiếu chúng, ta khó
mà hiểu hết hiện thực. Nhà văn Nam Dao trong một bài viết có nói:
“Tưởng tượng, Nguyễn Huệ không chết sớm, Minh Mệnh không tàn
sát giáo dân, Tự Đức nghe và làm theo điều trần của Nguyễn Trường
Tộ, vv…thì hôm nay thế nào? » . Nhân vật lịch sử cũng là con nguời,
do khả năng về trí tuệ, tri thức, tính cách, tu dưỡng mà họ có thể
khôn ngoan hoặc dại dột, có thể hủy hoại một cơ đồ. Vì vậy đi tìm các

khả năng đã mất, phân tích các nguyên nhân sâu xa để tạo mới diễn
ngôn, hiểu mới lại lịch sử. Tiểu thuyết hư cấu, theo tôi không phải là
bịa đặt tùy tiện, mà là đi tìm lại các khả năng đã mất để lí giải cái khả
năng đã được thực hiện, tìm xem nó đã bị đánh mất như thế nào.
Bằng cách đó đọc tiểu thuyết lịch sử con người trở nên thông minh
hơn, sáng suốt hơn, biết trân trọng, không bỏ qua các cơ hội nghìn
năm có một để quốc gia hung thịnh, con người hạnh phúc. Tiểu
thuyết lịch sử nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời
đã qua và lịch sử thời người viết đang sống. Chỉ quan tâm thời đã qua
mà không nêu được vấn đề quan tâm của người hiện tại thì tiểu
thuyết cũng khó hấp dẫn. Sức hấp dẫn của tiểu thuyết lịch sử là cách
diễn giải mới đối với lịch sử. Đó là ưu thế của tiểu thuyết lịch sử so với
lịch sử. Mà nêu chỉ quan tâm hiện tại bỏ mất lịch sử thì không có tiểu
thuyết lịch sử nữa. Tính hiện đại của diễn ngôn là điều bắt buộc,
không tránh được. Diễn ngôn là những quy tắc phát ngôn, thường ẩn
chìm trong vô thức cộng đồng quy định lối nói, cái gì được nói và
không được nói của mỗi thời. Cái mới của diễn ngôn là vượt qua diễn
ngôn cũ, tạo ra diễn ngôn mới. Mari Ăng toa nét là một hoàng hậu
được lịch sử coi là người dâm đãng, lăng loàn. Nhưng trong một
phim truyện danh nhân, hình tượng hoàng hậu được sáng tạo thành
một người bình dị, hồn nhiên, yêu đời, yêu thiên nhiên và các loài
vật. Tính cách đó trái ngược với lối sống kiểu cách của giới quý tộc, vì
thế mà bà bị gièm pha, bài xích. Môda là nghệ sĩ thiên tài, ông sáng
tạo tự do và biểu diễn thành công, khiên cho vị nhạc sư cung đính
không chịu được, đố kị và hãm hại. Cách giải thích sáng tạo ấy của
Puskin được nhà điện ảnh đồng tình, đã sáng tạo thành hình tượng
một nhạc sĩ tự do, đối lập với nhạc cung đình. Rất tiếc, ở Việt Nam rất
ít phát triển tiểu thuyết danh nhân, một chi loại của tiểu thuyết lịch
sử. Dĩ nhiên cũng có một số truyện về Nguyễn Du, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Thị Lộ, nhưng phần nhiều thiên về kể chuyện, ít có ý thức tạo

diến ngôn mới về nhân vật. Truyện danh nhân lãnh tụ của Liên Xô
trước đây có rất nhiều kiêng kị. Tôi đã đọc rất nhiều tiểu thuyết lịch
sử của Liên Xô viết về Lên nin. Họ có hẳn một ngành sáng tác về
Lênin được gọi là “Leniniana”, quy tụ vào đó nhiều nhà văn tài năng,
nào Valentin Kataev, Maria Prilegiaeva, Sava Dangulov, Marietta
Shaginhian và nhiều người khác. Có một sự thật về Lê nin là lúc sinh
thời ông thường xuyên đau đầu dữ dội và hay văng tục. Chỉ trong thư
từ lưu trữ, trước tác của Lênin, nhà văn Marietta Shaginhian đã nhặt
được không dưới 300 trường hợp Lenin văng đủ các từ tục, nhưng
tiểu thuyết của bà không được phép miêu tả sự thật ấy. Có một sự thật
là Lênin thường xuyên bị các cơn đau đầu hành hạ cả trong cuộc họp,
trong khi viết bài, đọc sách, khi dự mit tinh, nhưng ông đau bệnh gì
thì không ai nói. Mãi sau khi Liên Xô sụp đổ người ta mới cho biết
ông đau một thứ bệnh làm hủy hoại thần kinh. Lênin vốn là người rất
khỏe mạnh mà ông không có con, lại mất sớm. Nếu ông không mất
sớm, hẳn lịch sử sẽ có những bước đi khác với bây giờ. Thời nào lịch
sử và văn học về lịch sử cũng có kiêng kị, có độ vênh thì đòi hỏi sự
thật lịch sử đối với thời xưa, khi sự kiêng húy còn khắc nghiệt hơn,
hoặc không thua kém bây giờ, viết toàn sự thật lịch sử sao được?
Trong đời sống có khi sự thật lịch sử to như cả một triều đại lẫy lừng
vẫn bị bỏ quên, bỏ qua, không muốn nói đến hoặc không được nói
khác. Vì thế yêu cầu “sự thật lịch sử” khắt khe theo lối đối chiếu văn
bản sử học với văn bản tiểu thuyết là sản phẩm của ngộ nhận về “lịch
sử”. Nhưng coi nhẹ “sự thật lịch sử” là coi nhẹ ngôn ngữ của loại tiểu
thuyết này, sẽ làm mất hứng thú của người đọc đối với nó. Nhà văn
cần đột phá “sự thật lịch sử một thời”, phát hiện những sự thật lịch sử
bị bỏ qua, bỏ sót, bị che giấu, bị tô màu, sáng tạo diễn ngôn mới về
lịch sử mới tạo được sức hấp dẫn.
Có người nêu vấn đề, tiểu thuyết lịch sử thường có xu hướng tôn vinh
lịch sử theo tâm thức chung của cộng đồng. Thái độ “tôn vinh” ấy sẽ

như thế nào trong bối cảnh hậu hiện đại gắn liền với cảm hứng hoài
nghi “đại tự sự” và “giải thiêng” huyền thoại?
Tôi nghĩ rằng văn học là biểu hiện giá trị nhân sinh, tôn vinh các giá
trị của con người lịch sử, tôn vinh chiến công lịch sử là chuyện tối cần
thiết. Văn học Việt Nam cần tôn vinh đích đáng các giá trị đích thực
của văn hóa Việt, người Việt trong quá khứ, nhất là trong bối cảnh
văn hóa xuống cáp, đạo đức suy thoái như ngày nay. Song trong đời
sống từng có xu hướng huyền thoại hóa lịch sử và lịch sử hóa huyền
thoại. Thần thoại hóa, thánh hóa nhân vật lịch sử là xu hướng diễn
ngôn lịch sử của một thời, một tầng lớp người, khi dân trí chưa cao,
thông tin ít, con người dễ tin vào những biểu hiện huyền diệu, lúc đó
thần thoại hóa dễ có tác động tuyên truyền thuyết phục. Hồi Cách
mạng tháng Tám mới thành công, có tin đồn cụ Hồ mắt có bốn con
người, giống với mắt của Văn Vương, người sáng lập ra nhà Chu của
Trung Quốc. Trong bài viết Hồ Chủ Tịch, hình ảnh của dân tộc thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã dứt khoát phủ nhận tin đồn có khuynh
hướng thần thoại ấy, và khẳng định Hồ Chủ Tịch cũng là người như
mọi người chúng ta, nhưng chỉ khác ở tầm vóc hành động và trí tuệ
hơn người. Ngày nay thời đại bùng nổ thông tin, mọi bưng bít trước
sau đều bị giải tỏa, dân trí đã có sự thay đổi lớn, phải có cách thuyết
phục khác. Tôn vinh theo lối thần thoại, thiêng hóa không còn mấy
tác dụng nữa. Thực chất của lối tôn vinh đó là tôn vinh một chiều.
Quan niệm hiện đại và hậu hiện đại về lịch sử đã có nhiều điểm mới,
khác. Chủ nghĩa hiện đại nghi ngờ khả năng tiến bộ do lịch sử đem
lại. Nhà mác xít phương Tây Walter Benjamin không tán thành quan
điểm lịch sử của Mác. Còn lí thuyết hậu hiện đại thì coi lịch sử đã cáo
chung. Lịch sử trong tiểu thuyết Kafka, Joyce nằm trong trật tự vĩnh
hằng, lịch sử trong tiểu thuyết Marquez tuần hoàn, lặp lại. Lịch sử
trong các tiểu thuyết của Mạc Ngôn không trùng, mà nằm song song
với chính sử Trung Quốc cận hiện đại. M. Foucault chủ trương cắt rời,

phủ nhận tính liên tục của lịch sử. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ
Fredric Fukuyama tuyên bố “lịch sử đã cáo chung”, nhưng với lí
thuyết hậu thực dân, nữ quyền luận… lịch sử đang tái cấu tạo. Lịch sử
không thể cáo chung được, nhưng nó có nhiều cách nhìn, nhiều đối
thoại, bổ sung nhau. Thay cho đại tự sự là tiểu tự sự, thay đại lịch sử
sẽ là tiểu lịch sử. Lí thuyết Hậu thực dân phê phán các quan điểm của
các học giả phương Tây áp đặt cho lich sử, văn hóa các nước thuộc địa
phương Đông, và như thế đòi hỏi lich sử ở phương Tây phải viết lại.
Trào lưu viết lại lịch sử cũng là một tráo lưu đáng chú ý ở nhiều nước
trên thế giới. Không nói đâu xa ở Trung Quốc người ta cũng đang việt
lại lịch sử văn học, thay đổi bức tranh văn học bấy lâu nay quen nhìn
một chiều. Lịch sử đã có những cách hiểu khác hẳn nhau thì tiểu
thuyết lịch sử ngày nay cũng có nhiều con đường để khai triển. Đó là
sáng tạo diễn ngôn về diễn ngôn.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời đổi mới có rất nhiều tác phẩm đến
được với lòng người, được người đọc trân trọng, yêu chuộng. Điểm
đáng chú ý nhất là nó đã vượt qua mô hình cũ và tạo ra nhiều hướng
phát triển có hứa hẹn. Có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hoàng
Quốc Hải với hai bộ trường thiên. Có hướng nghiêng về phương điện
văn hóa, đối thoại văn hóa như Nguyễn Xuân Khánh, có hướng diến
giải lại lịch sử như Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, có hương “phi
trung tâm hóa” như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, có
hướng phi huyền thoại hóa lịch sử như Hội thề của Nguyễn Quang
Thân, có hướng đối thoại với chính sử như Mạc Đăng Dung của Lưu
Văn Khuê, có hướng đổi mới cách nhìn như Biết đâu địa ngục thiên
đường của Nguyễn Khắc Phê, có hướng viết “tiểu sử gia tộc” hư cấu,
mà thực ra là viết lịch sử thời đại với con mắt giễu nhại trong Thời của
thánh thần của Hoàng Minh Tường, Dưới chín tầng trời của Dương
Hướng Cuồng phong của Nguyễn Phan Hách, còn có hướng ngụ ngôn
hóa lịch sử…Tất nhiên ý kiến đánh giá tiểu thuyết lịch sử hiện đang

có nhiều khoảng cách xa, có nhiều vấn dề đáng quan tâm bàn bạc,
song theo tôi có một khoảng cách không nhỏ là quan điểm cũ về lịch
sử vẫn đang chi phối cách phê bình, không chấp nhận cái nhìn đa
nguyên, đa chiều về văn hóa và lịch sử. Tôi nghĩ cấn một sự giải
phóng tư tưởng, suy nhĩ thì văn chương mới có thể đua sắc khoe
hương. Những cái nhìn khác nhau vẫn có thể song song tồn tại. Tôi
nghĩ rằng sáng tạo lại diễn ngôn lịch sử bằng nghệ thuật sẽ là một
nguồn cảm hứng lớn cho các nhà văn Việt Nam hôm nay và ngày
mai.

×