Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

TÌM HIỂU VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.96 KB, 94 trang )

Nguyễn Ngọc Bưởi
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp tồn tại và
phát triển trong một thời gian dài của giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở
nước ta. Mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế ở giai đoạn đó nhất nhất
phải tuân theo kế hoạch, chỉ tiêu mà Nhà nước đã ấn định. Bước sang nền
kinh tế thị trường, do được thiết lập trên nền tảng pháp lý của quyền tự do
kinh doanh, quan hệ thương mại và đầu tư có phương thức hình thành chủ
yếu là thông qua quan hệ hợp đồng. Sự thoả thuận, thống nhất ý chí một
cách tự nguyện, bình đẳng giúp cho các bên cùng có cơ hội tìm kiếm lợi
nhuận và thực hiện các mục tiêu nghề nghiệp của mình. Pháp luật hợp
đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thoả thuận tự nguyện
luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng
bình đẳng, an toàn cùng có lợi cho tổ chức, cá nhân. Từ năm 2005, khi
Luật Thương mại (2005) và Bộ luật Dân sự (2005) được ban hành, Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 bị huỷ bỏ, sự điều chỉnh đối với các
quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói
riêng đã có sự thay đổi căn bản. Pháp luật đã quy định rõ nghĩa vụ của
các bên trong việc thực hiện các điều khoản đã thoả thuận trong hợp
đồng. Nếu một bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải
gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Việc quy định các hình thức chế
tài trong thương mại có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo ổn định các
1
Nguyễn Ngọc Bưởi
quan hệ hợp đồng, trật tự pháp luật, khôi phục lợi ích của bên bị vi phạm,
giáo dục ý thức pháp luật về hợp đồng. Tiếp nhận sự đổi mới của hệ
thống pháp luật về hợp đồng trong những năm gần đây, nhu cầu tìm hiểu
về vấn đề chế tài trong thương mại ngày càng trở nên bức thiết nhằm ổn
định các quan hệ hợp đồng, nhất là khi Việt Nam đã tham ra vào “sân
chơi” quốc tế về các vấn đề thương mại (Việt Nam tham gia vào tổ chức
Thương mại thế giới WTO). Nhận thức rõ được điều đó em đã lựa chọn


đề tài : “ Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương
mại” làm khoá luận tốt nghiệp đại học cho mình. Trên cơ sở các quy định
của pháp luật hiện hành, các tài liệu và thực tiễn áp dụng các hình thức
chế tài trong thương mại trong thời gian qua, tác giả đặt ra cho mình mục
đích nhận thức toàn diện về các hình thức chế tài trong thương mại, từ đó
có kiến nghị cần thiết đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
về vấn đề hình thức chế tài trong thương mại. Để giải quyết đề tài một
cách thấu đáo, luận văn đi vào nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích những nét chung về hợp đồng và hợp đồng trong
thương mại;
- Phân tích một số vấn đề chung về trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng và chế tài trong thương mại;
2
Nguyễn Ngọc Bưởi
- Phân tích và đánh giá về các hình thức chế tài do vi phạm
hợp đồng trong thương mại cụ thể theo quy định của pháp
luật hiện hành;
- Phân tích thực tiễn áp dụng chê tài thương mại từ một vụ
án và nêu ra một số kiến nghị về chế tài do vi phạm hợp
đồng trong thương mại.
Để khai thác đề tài này em đã sử dụng các phương pháp : phân
tích, so sánh, logic, tổng hợp làm phương pháp nghiên cứu cho mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, kết cấu của luận văn gồm có ba chương:
• Chương I: Khái quát chung về hợp đồng và chế tài do vi
phạm hợp đồng trong thương mại.
• Chương II: Nội dung pháp lý cơ bản của các hình thức chế
tài trong thương mại.
• Chương III: Chế tài thương mại nhìn từ một số vụ tranh chấp
và một số kiến nghị.

3
Nguyễn Ngọc Bưởi
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI
Khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình
thức trao đổi hàng hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan
trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Hợp đồng là hình thức pháp
lý thích hợp và có hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá
- tiền tệ. Ngày nay, phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh
bằng hợp đồng. Vai trò và vị trí của chế định hợp đồng ngày càng được
khẳng định trong mọi hệ thống pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của
một quốc gia, pháp luật về hợp đồng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Vai
trò trung tâm của hợp đồng trong hệ thống kinh tế và pháp luật không
phải là ngẫu nhiên, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi
hàng hoá, dịch vụ phải được tự do lưu thông trên thị trường thì vai trò
của hợp đồng ngày càng được thể hiện rõ hơn, bởi lẽ trong các quan hệ
hợp đồng thì ý chí của các bên mang tính quyết định. Về mặt nguyên tắc,
pháp luật tôn trọng ý chí của các bên và chỉ can thiệp trong các trường
hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật.
4
Nguyễn Ngọc Bưởi
Hợp đồng có bản chất là sự tự nguyện thoả thuận và thống nhất ý
chí nhằm xác lập, thay đổi, hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý
giữa các chủ thể trong xã hội. Hợp đồng là căn cứ pháp lý phổ biến làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Giao kết và thực hiện các hợp
đồng chính là cách thức cơ bản để thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh
tế.

Khi nghiên cứu hợp đồng và pháp luật về hợp đồng cần lưu ý một
số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các
bên tham gia giao kết.
Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong vận hành của nền kinh tế
thị trường. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá trị
xã hội của nó trong điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia. Hợp đồng
luôn gắn liền với sự tự do thể hiện ý chí của các chủ thể. Tự do ý chí
trong giao kết hợp đồng được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Pháp
vào thế kỷ XVIII. Lúc đầu nó được coi là nguyên tắc độc tôn ý chí.
Nguyên tắc này cho phép các cá nhân tự do quyết định trong việc giao kết
hợp đồng và khẳng định quyền của mỗi cá nhân tham gia vào giao dịch
chỉ phụ thuộc vào chính họ mà không phụ thuộc vào pháp luật. Quan
niệm này xuất phát từ việc cho rằng, nếu các cá nhân tự do giao kết thì sẽ
đảm bảo được sự công bằng trong quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do
5
Nguyễn Ngọc Bưởi
ký kết hợp đồng đưa đến một hệ quả là hợp đồng khi đã được ký kết thì
có giá trị bắt buộc thực hiện. Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể
được thực hiện bởi sự thoả thuận của các chủ thể trong hợp đồng và
không ai có quyền can thiệp vào quan hệ của họ cũng như không có
quyền làm thay đổi ý chí của họ. Khi nói đến hợp đồng ta hiểu các chủ
thể trong đó bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Nhưng trên thực tế các
bên tham gia ký kết hợp đồng thường không ngang bằng nhau mà có một
bên mạnh hơn và một bên yếu hơn về kinh tế. Do đó không có sự tự do
ký kết hợp đồng mà thường là một bên phụ thuộc vào ý chí của bên kia,
bằng việc thông qua hợp đồng do bên mạnh hơn định sẵn. Chính vì vậy,
hợp đồng không còn kết quả của sự thể hiện ý chí chung của các bên nữa
mà nó trở thành hình thức biểu hiện của sự bất bình đẳng giữa các bên
với nhau. Do đó, đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp đến các quan hệ này

thông qua pháp luật và chế định hợp đồng ra đời giữ một vị trí rất quan
trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Sự thay đổi từ quan
điểm đề cao lợi ích cá nhân sang đề cao lợi ích xã hội đã làm thay đổi các
nguyên tắc này.
Thứ hai, hợp đồng là tập hợp những cam kết được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ.
Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết,
song sự tự do đó phải giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Nói cách khác,
6
Nguyễn Ngọc Bưởi
pháp luật chỉ bảo vệ những cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật,
trật tự công cộng. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là
tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá nhân và các chủ thể khác trong
việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật các nước đều cho
phép các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng, miễn là không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc hình thành các hạn chế của nguyên
tắc tự do trong ký kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm bảo vệ trật tự
công và lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, pháp luật sẽ bảo vệ lợi ích và
quyền của các bên song lợi ích này phải không được xâm hại đến trật tự
và lợi ích công.
Thứ ba, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết
sức linh hoạt, mềm dẻo.
Điều này không dễ dàng đạt được nếu như quy định pháp luật
không được xây dựng theo hướng đề cao tự do ý chí của các bên, pháp
luật chỉ can thiệp ở giới hạn cần thiết. Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành
không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương mại mà chỉ định nghĩa về
hợp đồng dân sự. Theo Điều 388, Bộ luật Dân sự (2005) “Hợp đồng dân
sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự”. Quyền và nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng dân
sự được hiểu bao gồm cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ

thương mại. Khái niệm hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự (2005)
7
Nguyễn Ngọc Bưởi
được xem là khái niệm chung về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại,
đầu tư kinh doanh. Về lí luận, hợp đồng trong thương mại là một dạng cụ
thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, hợp đồng trong thương mại có
những đặc điểm riêng nhất định, khác với những hợp đồng dân sự thông
thường theo cách hiểu truyền thống. Có thể xem xét hợp đồng thương
mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý mối liên hệ
giữa cái chung và cái riêng. Từ cách tiếp cận này những vấn đề cơ bản về
hợp đồng thương mại như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện
pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng
vô hiệu được điều chỉnh bởi pháp luật và không có sự khác biệt với các
hợp đồng dân sự thông thường. Song, xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu
của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp đồng trong thương mại
được quy định trong các lĩnh vực cụ thể, có tính chất là sự phát triển tiếp
tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng (như chủ thể,
hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp
hợp đồng )
Theo quy định hiện hành có thể nhận diện hợp đồng trong thương
mại theo một số tiêu chí pháp lý chủ yếu như sau:
Về chủ thể hợp đồng: hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu
giữa các chủ thể kinh doanh (chủ yếu là thương nhân). Theo quy định của
Luật Thương mại (2005), thương nhân bao gồm: tổ chức kinh tế được
8
Nguyễn Ngọc Bưởi
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Có những quan hệ hợp đồng
trong thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân, như: hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ

quảng cáo thương mại Có những hợp đồng thương mại chỉ đòi hỏi ít
nhất một bên là thương nhân, như: hợp đông uỷ thác mua bán hàng hoá,
hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hoá, hợp đồng môi giới thương mại,
hợp đồng dịch vụ xây dựng, hợp đồng bảo hiểm Cá biệt, có những hợp
đồng thương mại không nhất thiết chủ thể hợp đồng phải là thương nhân,
như: hợp đồng giao kết giữa các chủ thể kinh doanh là những người bán
hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có
thu nhập thấp (những người này không phải đăng ký kinh doanh, do đó
họ không phải là thương nhân).
Về hình thức: Hợp đồng trong thương mại được thiết lập theo cách
thức mà hai bên thoả thuận, có thể được thể hiện bằng hình thức lời nói,
văn bản hoặc hành vi cụ thể. Trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc
các bên phải thiết lập hợp đồng bằng hình thức văn bản hoặc hình thức
khác có giá trị tương đương với văn bản (hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng uỷ thác mua bán hàng
hoá, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương
mại, )
9
Nguyễn Ngọc Bưởi
Mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Mục đích lợi
nhuận là đặc trưng của các giao dịch thương mại. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, một bên của hợp đồng trong thương mại không có mục đích
lợi nhuận. Những hợp đồng này, về nguyên tắc không đương nhiên chịu
sự điều chỉnh bởi những quy định riêng của pháp luật thương mại. Theo
khoản 3, Điều 1, Luật Thương mại (2005) “hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp
bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng
Luật này” thì sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại (2005).
Bộ luật Dân sự (2005) và Luật Thương mại (2005) ra đời đánh dấu

bước phát triển mới của pháp luật về hợp đồng và là sự thống nhất pháp
luật về hợp đồng ở Việt Nam. Các quy định về hợp đồng trong thương
mại đã có những thay đổi cơ bản cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung
pháp lý. Luật Thương mại (2005) là nguồn quan trọng điều chỉnh các
giao dịch thương mại giữa các thương nhân với nhau và với các bên có
liên quan nhằm triển khai hoạt động kinh doanh… Luật Thương mại xây
dựng trên cơ sở tiếp tục phát triển các quy định mang tính chất nguyên
tắc của Bộ luật Dân sự, cụ thể hoá các nguyên tắc này cho thích hợp để
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Bên cạnh các quy
định trong Bộ luật Dân sự (2005) và Luật Thương mại (2005), một số
10
Nguyễn Ngọc Bưởi
hợp đồng đặc thù trong thương mại còn được điểu chỉnh bởi quy định
trong các luật chuyên ngành như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Luật Xây dựng, Bộ luật Hàng hải Thông thường, ngoài
việc phải tuân thủ các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
và Luật Thương mại, mỗi loại hợp đồng cụ thể còn chịu sự điều chỉnh của
các luật chuyên ngành đó. Nguyên tắc áp dụng pháp luật được xác định rõ
trong Luật Thương mại (2005) là: Hợp đồng thương mại phải tuân theo
Luật Thương mại và pháp luật có liên quan. Hoạt động thương mại đặc
thù được quy định trong Luật Thương mại và pháp luật có liên quan.
Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng
quy định của luật đó. Hoạt động thương mại không được quy định trong
Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật
Dân sự.
1.2. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Trách nhiệm pháp lý
Trong đời sống xã hội, sản xuất kinh doanh tồn tại rất nhiều các
mối quan hệ xã hội. Quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa cá nhân

với các tổ chức, quan hệ giữa tổ chức với nhau. Các mối quan hệ này rât
đa dạng, trong đó các chủ thể có những trách nhiệm nhất định nào đó với
nhau. Trách nhiệm đó còn gọi là bổn phận, là nghĩa vụ của bên này đối
11
Nguyễn Ngọc Bưởi
với bên kia. Thuật ngữ “Nghĩa vụ” được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Nghĩa vụ trong đời sống hàng ngày là những hành vi mà một người phải
thực hiện vì lợi ích của người khác. Việc thực hiện hay không thực hiện
hành vi đó không cần sự đảm bảo của Nhà nước bằng pháp luật. Nhưng
khi các loại nghĩa vụ đó được các quy phạm pháp luật điều chỉnh thì
chúng trở thành nghĩa vụ bắt buộc - nghĩa vụ pháp lí. Nghĩa vụ trong
quan hệ pháp luật kinh tế là một bộ phận không tách rời của nội dung
quan hệ pháp luật, có nghĩa là những hành vi mà chủ thể của quan hệ
pháp luật nhất định bắt buộc phải thực hiện và thực hiện đó được đảm
bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Theo nghĩa này, trách
nhiệm được hiểu theo nghĩa chung và chỉ khi có sự vi phạm trách nhiệm
này mới làm phát sinh một loại trách nhiệm đặc biệt: trách nhiệm pháp lí.
Trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ phải gánh chịu những tước đoạt
mang tính chất nhân thân hay tài sản tương ứng với hành vi vi phạm pháp
luật gây ra, phù hợp với chế tài của pháp luật.
Theo S.S. ALÊCSEEV thì: “ trách nhiệm pháp lý gắn liền với vi
phạm pháp luật, dẫn đến việc áp dụng những nghĩa vụ mới đối với vi
phạm - trừng phạt tước đoạt một số quyền khác, bắt thực hiện những
nghĩa vị bổ xung”.
1
Trách nhiệm pháp lý được thể hiện qua chế tài của
quy phạm pháp luật và gắn liền với sự cưỡng chế của nhà nước, thể hiện
sự phê phán của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật và với bản
1
S.S.Alêcseev: lý luận chung về chủ nghĩa xã hội. XB lần thứII – SVE DLOSK1964.

12
Nguyễn Ngọc Bưởi
thân người vi phạm. Hơn nữa trách nhiệm pháp lý như là hậu quả của
việc không thi hành hoặc thi hành không đúng quy định của pháp luật, thể
hiện trong việc áp dụng những biện pháp trừng phạt đối với hành vi
phạm, bắt buộc thực hiện những quy định pháp luật và buộc khôi phục
các quyền bị vi phạm.
Quan niệm này có từ rất lâu trong khoa học pháp lý, nó bị ảnh
hưởng bởi luật dân sự, một ngành luật phát triển từ rất sớm (từ thời cổ La
Mã). Những hình phạt cổ điển được áp dụng đối với những hành vi trộm
cắp, giết người được nâng lên thành khái niệm hình sự. Cùng với sự
phát triển của lịch sử các quan hệ xã hội mới cũng hình thành và phát
triển như quan hệ hành chính, quan hệ lao động, quan hệ kinh tế đã đòi
hỏi khoa học pháp lý phải điều chỉnh và đáp ứng kịp thời, do đó xuất hiện
nhiều ngành luật mới như: Luật Hành chính, Luật Lao động, Luật kinh
tế lúc này trách nhiệm pháp lý được mỗi ngành luật đưa ra thành đối
tượng nghiên cứu riêng. Quan niệm trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ phải
gánh chịu những tước đoạt mang tính chất nhân thân hay tài sản tương
ứng với hành vi vi phạm pháp luật theo quy định pháp luật có ý nghĩa rất
lớn trong việc ngăn ngừa những vi phạm tương tự sẽ xảy ra, giáo dục
phòng ngừa người vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và kỷ luật lao động, trách nhiệm đó gọi là “trách nhiệm đối với
hành vi đã xảy ra”.
13
Nguyễn Ngọc Bưởi
1.2.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
(i). Khái niệm
Chế tài thương mại và chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là
hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý ở
Việt Nam vẫn có cách nhận diện khác nhau về vấn đề này.

- Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại là những hình thức chế
tài áp dụng với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong lĩnh vực
thương mại.
Hành vi vi phạm ở đây là hành vi xâm phạm trái pháp luật đến lợi
ích của đối tác, người tiêu dùng, xã hội và trật tự quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực thương mại, bao gồm:
Thứ nhất, hành vi vi phạm được quy định tại Điều 320, Luật
Thương mại (2005). Theo đó, các hành vi vi phạm pháp luật về thương
mại bao gồm:
+ Vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh
doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện,
chi nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài.
+ Vi phạm các quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong
nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh;
14
Nguyễn Ngọc Bưởi
+ Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
+ Vi phạm các quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
+ Vi phạm các quy định về nghi nhãn hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hoặc
nguyên liệu, vật liệu phục cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
+ Vi phạm các quy định về liên quan đến chất lượng hàng hoá dịch
vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ;
+ Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng;
+ Vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa,

dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Vi phạm các quy định về xuất xứ hàng hóa;
+ Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của
pháp luật.
Những vi phạm pháp luật này mang đặc điểm chung là vi phạm chế
độ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự quản
lý hoạt động thương mại của Nhà nước. Đối với những vi phạm thuộc
15
Nguyễn Ngọc Bưởi
nhóm này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, thương
nhân có thể bị áp dụng các chế tài, như: chế tài dân sự, chế tài hành chính
hoặc chế tài hình sự.
Thứ hai, hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.
Để tiến hành các hoạt động thương mại, thương nhân phải ký kết
và thực hiện các hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng được hình thành và
có hiệu lực pháp luật, những cam kết trong hợp đồng có giá trị bắt buộc
thực hiện đối với các bên. Nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã thỏa thuận thì bị coi là vi phạm
hợp đồng thương mại. Trong hợp đồng thương mại ngoài các điều khoản
do các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng thì các bên còn phải tuân
thủ những những nội dung pháp lý bắt buộc đã được pháp luật quy định
mà các bên có thể thỏa thuận hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng (điều
khoản thường lệ). Mặc dù, những điều khoản này không được đưa vào
hợp đồng nhưng theo quy định của pháp luật thì việc các bên không thực
hiện những điều khoản này cũng sẽ bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại cũng tức là vi phạm pháp luật về hợp đồng thương mại và sẽ
bị áp dụng chế tài. Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương
mại bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi pham, bồi thường
thiệt hại Như vậy, hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại không chỉ
bao gồm các hành vi vi phạm chế độ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực

16
Nguyễn Ngọc Bưởi
thương mại, xâm phạm trật tự quản lý hoạt động thương mại của Nhà
nước [được quy định tại Điều 320, Luật Thương mại (2005)] mà còn bao
gồm những hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Phù hợp với từng loại
hành vi vi phạm, pháp luật hiện hành quy định các hình thức trách nhiệm
pháp lý với nhiều loại chế tài khác nhau. Theo nghĩa này, chế tài trong
thương mại có thể được áp dụng đối với mọi vi phạm pháp luật thương
mại: từ những hành vi làm tổn hại đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của người
tiêu dùng như đầu cơ lũng đoạn thị trường….đến các vi phạm pháp luật
cã tính chất “riêng tư” giữa các thương nhân, như hành vi không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các cam kết trong hợp đồng. Những hình
thức chế tài được áp dụng trong các trường hợp này có thể là chế tài hành
chính, chế tài hình sự hoặc chế tài mang tính chất dân sự, phù hợp với
tính chất của từng loại hành vi vi phạm. Về phạm vi áp dụng, chế tài
thương mại được áp dụng đối với mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực
thương mại. Chủ thể quyết định áp dụng biện pháp chế tài là cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (cơ quan quản lý Nhà nước đối với chế trài hành
chính, Tòa án đối với chế tài hình sự…) hoặc chính thương nhân bị vi
phạm trong quan hệ hợp đồng.
- Theo nghĩa hẹp, chế tài thương mại là hình thức chế tài áp dụng
đối với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ các cam kết theo hợp đồng, theo đó bên có hành vi vi phạm hợp
17
Nguyễn Ngọc Bưởi
đồng thương mại phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi
vi phạm đó gây ra.
Như vậy, chế tài thương mại (theo nghĩa hẹp) được hiểu đồng
nghĩa với chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại. Theo Điều 292, Luật
Thương mại (2005), các loại chế tài trong thương mại bao gồm: Buộc

thực hiện đúng hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại ; Tạm
ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Hủy bỏ hợp
đồng; Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại được quy định cụ
thể tại Mục I, chương VII, đối với các hành vi vi phạm pháp luật về
thương mại quy định tại Điều 320 thì sẽ áp dụng biện pháp xử lý vi phạm
pháp luật về thương mại quy định tại chương VIII của Luật Thương mại
(2005).
Như vậy, Luật Thương mại (2005) tiếp cận chế tài thương mại theo
nghĩa hẹp, thể hiện sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên có hành vi vi
phạm hợp đồng trong thương mại. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức
rằng, bên cạnh các hình thức chế tài quy định tại chương VII chế tài trong
thương mại bao gồm cả các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về thương
mại quy định tại chương VIII của Luật Thương mại (2005).
18
Nguyễn Ngọc Bưởi
(ii). Đặc điểm của chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
Thứ nhất, chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại phát
sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Khác với trách nhiệm pháp lý nói chung được áp dung đối với mọi
vi phạm pháp luật, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại
chỉ được áp dụng đối với những vi phạm pháp luật hợp đồng hay vi phạm
những điều khoản mà các bên đã thoả thuận. Xuất phát từ nguyên tắc tự
do hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận, các bên được quyền tự do
quyết định việc giao kết những hợp đồng trong thương mại phù hợp với
mục đích kinh doanh của mình. Chính vì vậy, trách nhiệm hợp đồng chủ
yếu phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng (khi đã có hợp đồng và
các bên đã bị ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ)

Thứ hai, chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại là loại
trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản.
Đặc điểm chung của bất kỳ loại trách nhiệm pháp lý nào cũng đều
là sự tước đoạt hay hạn chế các quyền về tài sản hay phi tài sản của chủ
thể có hành vi vi phạm. Khác biệt với đặc điểm chung này, trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng trong thương mại được áp dụng khi có hành vi vi
phạm hợp đồng và hợp đồng thương mại sẽ buộc bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Yếu tố tài sản thể hiện ở cách thức
bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, đó là:
19
Nguyễn Ngọc Bưởi
- Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền quản lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước) để
thực hiện nghĩa vụ nộp phạt, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do đã không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ cam kết trong hợp
đồng. Việc nộp tiền phạt hay bồi thường thiệt hại được thực hiện theo sự
thoả thuận của các bên trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bên vi phạm buộc phải có những chi phí hợp lý cần thiết để thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng khi bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực
hiện hợp đồng (ví dụ: chi phí để sửa chữa sai xót, loại trừ khuyết tật của
hàng hoá )
- Việc áp dụng các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ hay huỷ
bỏ hợp đồng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến lợi ích hạch toán của bên vi
phạm.
Thứ ba, cơ sở phát sinh chế tài do vi phạm hợp đồng trong
thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.
Hợp đồng có hiệu lực pháp luật trở thành “luật” đối với các bên, là
cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên. Việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ pháp lý
đó được coi là hành vi vi pham hợp đồng đã ký kết. Đối với hợp đồng có

nội dung trái pháp luật, không có hiệu lực pháp luật thì không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên ngay từ thời điểm ký kết. Vì vậy,
20
Nguyễn Ngọc Bưởi
hành vi không thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ những
cam kết trong hợp đồng đó không được coi là sự vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng và các bên không phải thực hiện trách nhiệm hợp đồng.
Hành vi vi phạm được biểu hiện ở việc không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng có
hiệu lực pháp luật. Nếu các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng được thực
hiện đầy đủ thì trách nhiệm hợp đồng không được đặt ra. Tuy nhiên, hợp
đồng có hiệu lực pháp luật và vi phạm hợp đồng chỉ là điều kiện pháp lý
để một bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện trách nhiệm hợp đồng.
Trên thực tế, bên có hành vi vi phạm hợp đồng có bị áp dụng chế tài hay
không còn phải phụ thuộc vào việc chứng minh có hội đủ các căn cứ xác
định trách nhiệm hợp đồng đối với từng hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng.
Thứ tư, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại áp dụng trực tiếp
đối với bên vi phạm.
Nguyên tắc chịu trách nhiệm trực tiếp được áp dụng đối với bên vi
phạm. Khi có sự vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm phải trực tiếp chịu
trách nhiệm đối với bên bị vi phạm không phụ thuộc vào nguyên nhân sự
vi phạm là do tổ chức, cá nhân nào gây ra. Trong hoạt động thương mại
thường tồn tại một sâu chuỗi các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau.
Ví dụ: A ký hợp đồng bán hàng hóa với B, B lại bán lại cho C, rồi C lại
21
Nguyễn Ngọc Bưởi
bán lại cho D… Khi A vi phạm hợp đồng thì kéo theo B vi phạm hợp
đồng với C và tiếp đó C lại vi phạm hợp đồng với D… Nhưng khi có
hành vi vi phạm hợp đồng, chế tài thương mại sẽ được áp dụng trực tiếp

đối với bên vi phạm. Tính phân định trách nhiệm trong chuỗi mối quan hệ
này thể hiện ở việc C sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với D do hành
vi vi phạm của mình mà không cần xét đến nguyên nhân của vi phạm đó
là do A hay B gây ra. Việc bên vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm
với bên bị vi phạm thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau đây:
- Bên vi phạm hợp đồng phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền quản lý của mình để nộp tiền phạt hợp đồng hoặc bồi thường thiệt
hại.
- Khi bị áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, bên vi phạm phải
trực tiếp thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, phải dùng tài sản của mình để
trang trải các chi phí sửa chữa, loại trừ khuyết tật của hàng hoá hoặc phải
chấp nhận phải giảm giá.
- Khi áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực
hiện hợp đồng hay hủy hợp đồng, bên bị áp dụng và trực tiếp bị ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích cũng chính là bên vi phạm.
Phù hợp với quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng được
pháp luật bảo hộ, khi các bên tự nguyện thiết lập quan hệ hợp đồng thì
nghĩa vụ hợp đồng phát sinh và là nghĩa vụ trực tiếp của các bên với
22
Nguyễn Ngọc Bưởi
nhau. Chính vì vậy, khi truy cứu trách nhiệm hợp đồng, bên bị vi phạm là
chủ thể được thụ hưởng trọn vẹn sự bù đắp mà bên vi phạm đã thực hiện.
Thứ năm, chủ thể có quyền lựa chọn và quyết định áp dụng các
hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là bên bị vi phạm
trong quan hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện một hay nhiều hình thức
chế tài theo sự cam kết trong hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật.
Trường hợp yêu cầu thực hiện chế tài trong thương mại không được đáp
ứng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nội dung đơn khởi kiện chính là sự
thể hiện quyền lựa chọn và quyết định áp dụng các chế tài của bên bị vi
phạm đối với bên vi phạm hợp đồng thương mại đã ký kết. Trong khuôn
khổ pháp luật, thương nhân bị vi phạm có thể yêu cầu thương nhân có
hành vi vi phạm thực hiện một phần nghĩa vụ tài sản. Tòa án hay Trọng
tài khi được yêu cầu giải quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định
đoạt của nguyên đơn hoặc cũng có thể là yêu cầu phản tố của bị đơn.
Việc Tòa án hay Trọng tài ban hành phán quyết buộc bị đơn phải nộp tiền
phạt hay tiền bồi thường thiệt hại thể hiện việc những cơ quan này đã
chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Thực chất, Tòa
án hay Trọng tài không trực tiếp quyết định áp dụng hình thức chế tài
23
Nguyễn Ngọc Bưởi
nào, hay có áp dụng chế tài hay không đối với bên vi phạm mà quyền
quyết định thuộc về bên bị vi phạm. Tòa án hay Trọng tài đóng vai trò
công nhận yêu cầu của đương sự.
Thứ sáu, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại không nhất thiết
là phải có sự hội tụ đầy đủ những điều kiện như đối với trách nhiệm pháp
lý.
Thông thường căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý bao gồm bốn
yếu tố: có hành vi vi phạm, có thiệt hại thực tế, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế và cố lỗi. Trong khi đó để áp
dụng các trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có thể không nhất thiết phải
có đầy đủ các căn cứ như truy cứu các trách nhiệm pháp lý khác, như:
Bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm hợp đồng khi không có lỗi,
không phải bồi thường vượt quá mức thiệt hại hay không phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại nếu bên vi phạm trong khả năng của mình đã thực hiện
việc ngăn chặn hạn chế thiệt hại Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp
lý tuỳ thuộc vào từng hình thức chế tài. Khi một hợp đồng được xác lập
và có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải tôn trọng và thực hiện

bởi đó là do sự tự do ý chí của các bên xác lập nên. Việc vi phạm những
nghĩa vụ đã tự nguyện cam kết thực hiện sẽ dẫn đến bên vi phạm phải
chịu những chế tài do pháp luật quy định, chế tài do vi phạm hợp đồng
thương mại là một loại trách nhiệm pháp lý.
24
Nguyễn Ngọc Bưởi
(iii). Căn cứ áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
Với tính chất là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng trong thương mại được áp dụng khi có những căn cứ do
pháp luật quy định. Với mỗi hình thức chế tài, căn cứ áp dụng có sự khác
nhau nhất định, phụ thuộc vào tính chất và mục đích của hình thức chế tài
đó. Căn cứ áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại, bao gồm:
* Có hành vi vi phạm hợp đồng.
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất
cả các hình thức chế tài trong thương mại do vi phạm hợp đồng. Hành vi
vi phạm hợp đồng trong thương mại là xử sự của các chủ thể hợp đồng
không phù hợp với nghĩa vụ theo hợp đồng. Biểu hiện cụ thể của vi phạm
hợp đồng trong thương mại theo khoản 12, Điều 3, Luật Thương mại
(2005) : “vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận
giữa các bên hoặc theo quy định của luật này”. Như vậy, trong quan hệ
hợp đồng trong thương mại, các bên không chỉ phải thực hiện những
nghĩa vụ thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng (ghi vào trong hợp
đồng) mà còn phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
(trong khoa học pháp lý gọi điều khoản thường lệ). Vì vậy, khi xem xét
hành vi có vi phạm hợp đồng hay không cần phải căn cứ vào hợp đồng và
các quy định của pháp luật. Song làm thế nào để xác định khi nào thì một
25

×