Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

HIỆU QUẢ CỦA CÁC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.76 KB, 25 trang )


HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
KHOA QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN
TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
Đề tài:
HIỆU QUẢ CỦA CÁC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thảo Quỳnh
Lớp: QHPT 3
Khoa: Quy hoạch phát triển
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Ninh
Hà Nội, tháng 4/2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội tương đối nhanh. Song
với những thành tựu mà đất nước đã đạt được trên các mặt kinh tế, xã hội
thì mặt trái của quá trình phát triển này là sự ảnh hưởng của nó tới môi
trường sống xung quanh chúng ta. Hẳn không phải ai cũng dễ dàng nhận ra
bởi những hậu quả này có thể không tạo ra hiệu ứng tức thời tới môi trường
mà đôi khi lại gây hại nghiêm trọng trong tương lai. Việc xây dựng các
chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế xã hội, tạo ra những tác động
thúc đẩy phát triển là các tác động làm thay đổi môi trường sinh thái, biến
đổi các hệ sinh thái tự nhiên, những vấn đề này có thể không được nhận ra
hoặc nhận ra nhưng chúng ta chấp nhận đánh đổi để phát triển. Vấn đề
quan trọng trong quá trình phát triển chính là sự bền vững của các chương
trình, dự án đó. Chính những vấn đề này đã đưa việc đánh giá tác động môi
trường trở nên hết sức quan trọng. Trên Thế giới vấn đề này đã thành một
phần quan trọng trong việc xây dựng và hình thành các chương trình – dự
án, đặc biệt là ở các nước phát triển. Sau một thời gian dài phát triển và đạt
được những thành quả quan trọng thì họ đã nhận ra được cái giá phải trả


cho sự phát triển không bền vững. Nên đánh giá tác động môi trường
(ĐTM) là một phần không thể thiếu trong việc thực hiện các dự án. Ở Việt
Nam chúng ta, với nhiều năm thực hiện công tác ĐTM đã giúp Chính phủ
từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ thống quy định ĐTM, tạo lập và phát
triển năng lực đội ngũ thực hiện ĐTM; nhờ ĐTM nhiều dự án có nguy cơ,
rủi ro cao đối với môi trường và xã hội đã buộc phải chấm dứt hoặc điều
chỉnh lại. Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập
và yếu kém về cả chất lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp
luật. Vấn đề này đang trở thành một chủ đề nóng, chủ đề tranh luận của các
nhà khoa học, nhà quản lý và đông đảo quần chúng nhân dân.
Với những lí do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Hiệu quả của các
đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam” làm đề tài cho bài tiểu luận của
mình. Bước đầu nhằm phân tích, đánh giá tổng quan về ĐTM và việc thực
hiện ĐTM ở Việt Nam, từ đó tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra một số khuyến
nghị, giải pháp giúp phát triển môi trường bền vững hơn.
3
Chương 1
TỔNG QUAN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường
Vào thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX, nhân dân tại các nước phát triển
đã bắt đầu quan tâm sâu sắc tới chất lượng môi trường sống. Chính những
nguy cơ về thảm họa môi trường nên đánh giá tác động môi trường đã trở
thành một vấn đề chính trị rất quan trọng tại nhiều quốc gia thời bấy giờ.
Năm 1969, lần đầu tiên ĐTM được giới thiệu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, Hoa
Kỳ là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm EIA (Environmental Impact
Assessment) - Đánh giá tác động môi trường (viết tắt: ĐTM), được quy
định theo Đạo luật Chính sách Môi trường Quốc gia (National
Environment Policy Act - NEPA) từ 1/1/1970. ĐTM khi đó được xem như
một “giải pháp chính trị” nhằm giải quyết những quan ngại về hậu quả môi

trường khi nền công nghiệp Hòa Kỳ phát triển bùng nổ sau Chiến tranh thế
giới thứ 2 và đồng thời nhằm khắc phục những hạn chế của các công cụ
chính sách khác ở thời kỳ đó. Cho đến nay, ĐTM đã và đang được áp dụng
rộng rãi ở hơn 100 quốc gia Henriques, Heather-clark, & Gotwals, 2008;
Weaver, 2003). Mục tiêu của ĐTM là để xem xét các tác động đối với môi
trường trước khi quyết định có triển khai dự án hay không. Hiện nay ĐTM
đã trở thành công cụ chính cho thực hiện quản lý môi trường và cho sự
thành công trong việc đạt tới mục tiêu phát triển bền vững.
Ở Việt nam ĐTM bắt đầu thực hiện vào những năm thập kỷ 80. Từ đó
đến nay ĐTM được cũng được coi như là một công cụ ra quyết định cũng
như giám sát các hoạt động phát triển.
Quy định ĐTM của Việt Nam lần đầu tiên được luật hóa trong Điều
17, 18 Luật BVMT năm 1993 và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể.
Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương
quy định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và cam kết bảo vệ môi trường
Luật BVMT năm 2005 đã đưa ra khái niệm: “Đánh giá tác động môi
trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường
của các dự án quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, của các cơ sở sản xuất,
4
kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp
về bảo vệ môi trường”.
Hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở đây có loại mang tính kinh tế -
xã hội của quốc gia, của một địa phương lớn, hoặc một ngành kinh tế văn
hóa quan trọng (luật lệ, chính sách quốc gia, những chương trình quốc gia
về phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch quốc gia dài hạn), có loại mang tính
kinh tế - xã hội vi mô như đề án xây dựng công trình xây dựng cơ bản, quy
hoạch phát triển, sơ đồ sử dụng một dạng hoặc nhiều dạng tài nguyên thiên
nhiên tại một địa phương nhỏ. Tuy nhiên, một hoạt động có ý nghĩa vi mô

đối với cấp quốc gia, nhưng có thể có ý nghĩa vĩ mô đối với xí nghiệp. Hoạt
động vi mô nhưng được tổ chức một cách phổ biến trên địa bàn rộng có khi
lại mang ý nghĩa vĩ mô.
Tác động đến môi trường có thể tốt hoặc xấu, có lợi hoặc có hại
nhưng việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp những nhà ra quyết định
chủ động lựa chọn những phương án khả thi và tối ưu về kinh tế và kỹ
thuật trong bất cứ một kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nào.
Nếu như trong Luật BVMT năm 1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP
của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993 yêu cầu tất cả các
dự án trong nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải
thực hiện ĐTM. Các dự án đã đi vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh
giá tác động thì sau khi Luật BVMT năm 2005 ban hành có hiệu lực, bước
này đã bị xoá bỏ. Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi Luật BVMT 2005
được ban hành là giai đoạn vừa thực hiện, vừa hoàn thiện của Việt Nam.
Đến năm 2008, một bảng danh mục các đối tượng gồm 162 loại dự án
khác nhau phải lập báo cáo ĐTM đã được quy định tại Nghị định
21/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/2/2008. Các dự án thuộc
danh mục này sẽ phải thực hiện báo cáo ĐTM chi tiết; nếu không chỉ cần
thực hiện cam kết BVMT. Đối tượng của quy định "ĐTM bổ sung" là các
dự án mở rộng hoặc thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái
niệm này đã thay thế cho dạng báo cáo ĐTM của các cơ sở đang hoạt động
trước đây.
5
1.2. Mục đích, ý nghĩa của ĐTM
1.2.1. Mục đích
ĐTM của một dự án nhằm đảm bảo cho dự án nếu được thực hiện sẽ
làm giảm một cách tối đa các tác động xấu của dự án đó đến môi trường
giúp môi trường bền vững hơn.
- ĐTM nhằm phân tích, đánh giá, dự báo một cách có căn cứ khoa học
những tác động có lợi, có hại do các hoạt động của dự án gây ra cho môi

trường khu vực. Những ảnh hưởng tiềm năng của dự án đến môi trường tự
nhiên, xã hội và sức khỏe con người, bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị xây
dựng, xây dựng cơ sở hạ tầng và triển khai thực hiện dự án.
- ĐTM giúp mọi đề xuất, hoạt động trong các dự án và chương trình
phát triển dự kiến mang tính khả thi về mặt quản lý và công nghệ nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng của dự án đến môi trường và cộng
đồng, giải quyết một cách hợp lý giữa phát triển kinh tế và BVMT nhằm
phát triển bền vững.
- ĐTM nhằm cung cấp những thông tin cần thiết trợ giúp các cấp lãnh
đạo khi xem xét đề ra quyết định có nên thực hiện dự án hay không và nếu
thực hiện thì phải tiến hành như thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất các
tác động xấu của dự án đến môi trường mà cộng đồng dân cư những người
bị ảnh hưởng có thể chaos nhận được. Nó giúp cho việc thực hiện dự án
được nhanh chóng.
1.2.2. Ý nghĩa của ĐTM
Với phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” và theo kinh nghiệm
quốc gia trong nhiều thập kỷ qua đã cho thấy rằng việc đánh giá tác động
môi trường là rất quan trọng. “Lợi ích của ĐTM là vô cùng lớn. Nếu không
chịu bỏ ra một khoản chi phí nhất định và cần thiết cho công tác ĐTM ở
giai đoạn xây dựng dự án để thấy trước những tác động xấu, nhất là các tác
động không thể khắc phục và chủ động phòng ngừa, ứng phó ngay từ đầu,
thì có thể sẽ phải rất tốn kém để khắc phục hậu quả, thậm chí là không thể
khắc phục được cho dù có bao nhiêu tiền của đi chăng nữa!” - TS. Nguyễn
Khắc Kinh, nguyên Vụ trưởng Vụ thẩm định và đánh giá tác động môi
trường, Bộ TN&MT phát biểu tại Hội thảo “Hài hòa mục tiêu phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam: Thực tiễn và thách thức chính
6
sách” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) tổ chức ngày
20-21/09/2012. Khái quát một số ý nghĩa chính của ĐTM như sau:
- ĐTM có ý nghĩa quan trọng trong việc xét duyệt và quyết định thực

hiện một dự án phát triển.
- Khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn. Giúp cho dự án hoạt động
hiệu quả hơn.
- Tiết kiệm được thời gian và tiền của trong thời hạn phát triển dài các
cơ sở và chính phủ, đôi khi tránh được những chi phí không cần thiết.
- Giúp nhà nước cơ sở, cộng đồng, chính phủ có mối liên hệ chặt chẽ
hơn.
1.3. Quy trình thực hiện ĐTM
Cách thức mà một EIA (hay ĐTM) được thực hiện không phải là cứng
nhắc: nó là một quá trình bao gồm một loạt các bước. Kinh nghiệm trong
hơn 20 năm thực hiện ĐTM trên thế giới cho thấy, quy trình được thiết lập
và thực hiện ở các nước có khác nhau, nhưng nội dung chính gồm các bước
sau:
- Lược duyệt
Bước này nhằm xác định một dự án cụ thể cần tiến hành ĐTM ở mức
độ nào, có hay không một ĐTM hoàn chỉnh. Và người ta dựa trên căn cứ là
các quy định trong luật pháp từng nước.
- Xác định mức độ, phạm vi đánh giá
Bước này tập trung đánh giá một số loại tác động đáng kể, thu hẹp
phạm vi đánh giá và mức độ đánh giá. Nếu làm tốt bước này sẽ tiết kiệm
được nhiều tiền của và công sức.
- Xây dựng đề cương báo cáo
Để đảm bảo đánh giá có hiệu quả cần làm tốt bước lập đề cương này.
Hiện nay đã có hướng dẫn lập đề cương cho từng loại dự án. Đồng thời đề
cương này cần sự đóng góp của đông đảo các nhà quản lý, khoa học, cộng
đồng và nhiều khi phải trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Phân tích, đánh giá tác động môi trường
Đây là một trong những bước chính, quan trọng nhất trong trong quá
trình ĐTM. Bước này cần xem xét đến các tác động, nguồn gây tác động,
7

nó sẽ tác động đến thành phần nào của môi trường cũng như đến con người
và hệ sinh thái.
- Biện pháp giảm nhẹ và quản lý tác động
Bước này cần xác định các phương pháp nhằm giảm thiểu tác động có
hại phát huy sử dụng tối đa các tác động có lợi và quản lý tốt các tác động
môi trường. Đảm bảo cho cộng đồng hoặc các thể không phải chịu chi phí
vượt quá lợi nhuận mà họ nhận được.
- Báo cáo kết quả
Báo cáo kết quả chính được gọi là Báo cáo tác động môi trường , và
có một kế hoạch chi tiết cho việc quản lý và giám sát tác động môi trường
trong và sau khi thực hiện, đặt với sự tham gia của cộng đồng
- Xem xét, so sánh các phương án dự án thay thế
Để thỏa mãn yêu cầu phát triển và thực tế có thể có nhiều phương án,
dự án khác nhau được thực thi mà dự án đề xuất chỉ là một trong số đó.
- Tham khảo ý kiến cộng đồng
Mục đích của bước này nhằm tăng cường khả năng sử dụng thông tin
đầu vào và cảm nhận từ phía các cơ quan chính phủ, các công dân và các
cộng đồng quan tâm để nâng cao chất lượng của việc ra quyết định liên
quan đến ĐTM.
- Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
Sau khi báo cáo ĐTM được hoàn chỉnh phải được thẩm định bởi cơ
quan có thẩm quyền. Xây dựng chương trình giám sát môi trường; Lập hội
đồng thẩm định và phê duyệt báo cáo. Ở Việt Nam các Hội đồng thẩm định
có trách nhiệm xem xét mức tuân thủ pháp luật và cơ sở khoa học của các
đánh giá nêu trong báo cáo, có thể đưa ra các khuyến nghị giúp người ra
quyết định có thêm tư liệu để xem xét dự án.
- Kiểm toán môi trường
Thực tiễn thì dù dự báo tác động có chính xác đến đâu thì vẫn gặp
nhiều sai số. Vì vậy bước kiểm soát, kiểm toán được đặt ra nhằm xem xét
các tác động thực sự nảy sinh, hiệu quả của các biện pháp giảm nhẹ thông

qua việc đo đạc, quan trắc. Từ đó có kế hoạch thay đổi cách thức quản lý
dự án, tối ưu hóa việc BVMT.
8
Chương 2
THỰC TIỄN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM
Ở Việt Nam, ĐTM cũng đang ngày càng trở thành một công cụ bảo vệ
môi trường quan trọng và chiếm một vị trí đáng kể trong các văn bản pháp
luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc
lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất lượng cũng như việc tuân thủ quy
trình ĐTM như pháp luật đã quy định. Bản thân quy định pháp luật hiện
hành về ĐTM cũng chưa chặt chẽ. Do vậy, cần có sự đánh giá và nhận thức
lại về khía cạnh pháp lý cũng như hiện trạng thực hiện hoạt động ĐTM.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được áp dụng ở Việt Nam sau
khi Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) được thông qua vào năm 1993. Tuy
nhiên, dù đã qua nhiều lần điều chỉnh, sửa đổi, các quy định về ĐTM hiện
vẫn bộc lộ nhiều khiếm khuyết, chưa thực sự phù hợp và đáp ứng yêu cầu
là một công cụ dự báo và hỗ trợ quản lý môi trường. Bên cạnh không phủ
nhận những thành tựu mà ĐTM đã đóng góp trong việc bảo vệ phát triển
môi trường bền vững. Tuy nhiên đề tài xin được đi sâu về những bất cập,
yếu kém trong công tác ĐTM ở Việt Nam hiện nay.
2.1. ĐTM chưa thực hiện tốt chức năng dự báo
ĐTM về bản chất là công cụ phân tích, dự báo các tác động môi
trường của các đề xuất phát triển nhằm phục vụ cho quá trình ra quyết định
của cơ quan có thẩm quyền. Nói cách khác, mục tiêu của ĐTM là xem xét
các tác động đối với môi trường trước khi quyết định có nên cho phép triển
khai một dự án do nhà đầu tư đề xuất hay không, hoặc nếu cho phép thì cần
điều chỉnh gì. Do đó, ĐTM cần phải thực hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên
hình thành ý tưởng về dự án. Tuy nhiên, thực tế áp dụng hiện nay ở Việt
Nam cho thấy ĐTM chưa thực hiện tốt chức năng dự báo của nó.

Theo quy định, khi tiến hành triển khai dự án đầu tư, chủ đầu tư buộc
phải lập báo cáo ĐTM. Tuy nhiên, quy trình này thường được chủ đầu tư
và các bên liên quan xem nhẹ để nhanh chóng “hợp thức hóa” dự án đầu tư.
Theo khoản 20 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì ĐTM là “việc
phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để
đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”. Tuy
9
nhiên, từ khâu thẩm định, phê duyệt cho đến cấp giấy phép xây dựng dự án,
không chỉ các chủ đầu tư mà ngay cả cơ quan chính quyền liên quan vẫn
còn xem nhẹ quy trình này, đánh giá các báo cáo ĐTM qua loa để “hợp
thức hóa” dự án đầu tư nên đã có không ít dự án đầu tư gây tác động rất lớn
đến môi trường.
Có một thực tế là nhiều dự án đầu tư có báo cáo ĐTM thiếu cả dữ
liệu về môi trường và các số liệu quan trắc, cũng như khả năng tác động
đến môi trường xung quanh sau khi dự án hoàn thiện. Việc lập ĐTM cho
một dự án đầu tư còn gặp nhiều bất cập, nhất là ở việc các báo cáo ĐTM
bao giờ cũng chỉ tập trung vào các tác động có hại trực tiếp trước mắt của
vấn đề môi trường mà ít quan tâm đến tác động gián tiếp lâu dài và tác
động đến xã hội.
2.2. Chất lượng của báo cáo ĐTM còn nhiều hạn chế
Hiện nay, ĐTM chủ yếu do các cơ quan tư vấn thực hiện thông qua
hợp đồng ký với chủ đầu tư. Mối quan hệ hợp đồng kinh tế giữa người yêu
cầu và người cung cấp dịch vụ trong việc lập báo cáo ĐTM dẫn đến việc cơ
quan tư vấn khó có thể đảm bảo tính khách quan trong phản ánh và đánh
giá trung thực toàn bộ các tác động tiêu cực tiềm tàng của dự án. Qua phản
ánh của báo chí cũng như một số nghiên cứu gần đây, nhiều báo cáo ĐTM
chỉ là “sản phẩm cắt dán” từ báo cáo của các dự án khác cùng loại hình.
Chất lượng của báo cáo ĐTM vì thế chưa đạt yêu cầu và mất đi vị thế là
“chỗ dựa” cho cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và ra quyết định đối với
dự án.

Ngoài ra, quy định về chi phí lập báo cáo ĐTM hiện nay không rõ
ràng, chủ yếu theo thỏa thuận của đơn vị tư vấn và chủ đầu tư. Tham khảo
ở một số nước như Tây Ban Nha mức chi phí này trung bình là 2,5% tổng
vốn đầu tư, ở Nauy là từ 0,1-2,2% hay Iceland là từ 0,5-3% tổng vốn đầu tư
của dự án (Oosterhuis, 2007). Việt Nam cũng cần nghiên cứu và đưa ra các
quy định cụ thể về chi phí thực hiện ĐTM cho phù hợp với yêu cầu kỹ
thuật và tình hình thực tiễn.
10
2.3. Tham vấn cộng đồng chỉ dừng lại ở hình thức
Tham vấn cộng đồng có thể coi là một trong những tiến bộ của Luật
Bảo vệ Môi trường 2005 (khoản 8 Điều 20) và được cụ thể hóa trong các
văn bản hướng dẫn thực hiện Luật (Điều 14 và Điều 15 Nghị định 29/2011,
Điều 12 Thông tư 26/2011/TT-BTNMT). Theo đó, quy trình tham vấn được
thực hiện trong vòng 15 ngày làm việc kể từ thời điểm chủ đầu tư gửi văn
bản xin ý kiến và tóm tắt các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi
trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án tới UBND cấp xã, đại
diện cộng đồng nơi chịu tác động trực tiếp của dự án; có quy định về đối
thoại giữa chủ đầu tư và đại diện cộng đồng và ý kiến tham vấn được ghi
nhận bằng văn bản và phải nộp kèm theo báo cáo ĐTM khi thẩm định. Tuy
nhiên, thực tế áp dụng tham vấn cộng đồng trong thực hiện báo cáo ĐTM
vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Tuyên bố Rio 1992 khẳng định, các vấn đề môi trường được giải
quyết tốt nhất với sự tham gia rộng rãi của quần chúng, bởi vậy việc giáo
dục, sự tham gia và tiếp cận thông tin của quần chúng cần được tăng cường
đồng thời.
Như đã nêu trên đến năm 2005, nội dung tham vấn và công khai thông
tin liên quan đến ĐTM mới được đưa vào Luật Bảo vệ Môi trường. Tuy
nhiên, việc tham vấn và công khai thông tin ở Việt Nam hiện vẫn còn quá
nhiều hạn chế về cả quy định pháp luật và thực tiễn thực thi. Vì vậy, các
xung đột liên quan do đó khó có thể được phòng ngừa và kiểm soát ngay từ

ngay từ giai đoạn hình thành ý tưởng dự án.
Yêu cầu tham vấn cộng đồng trong hoạt động ĐTM được quy định
như một nội dung bắt buộc của báo cáo ĐTM tại Điều 20, Luật Bảo vệ môi
trường (BVMT) 2005. Mặc dù, Thông tư 05/2008/TT-BTNMT có quy định
UBND và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã có trách nhiệm phối hợp với
chủ dự án đối thoại với các bên liên quan trong trường hợp cần thiết và đưa
biên bản đối thoại đính kèm trong phần phụ lục của báo cáo ĐTM, thực tế
các yêu cầu tham vấn cộng đồng vẫn chưa rõ ràng và chưa phải là quy định
bắt buộc thực hiện.
Nghị định 29/2011/NĐ-CP đã khác phục khiếm khuyết này thông qua
quy định tại Điều 14 - Trong quá trình lập báo cáo ĐTM, chủ dự án phải tổ
11
chức tham vấn ý kiến: UBND xã, phường, thị trấn nơi thực hiện dự án; Đại
diện cộng đông dân cư, tổ chức chịu tác động trực tiếp của dự án. Quá trình
tham vấn được thực hiện bằng cách "chủ dự án gửi văn bản đến UBND cáp
xã, đại diện cộng đông dân cư, tổ chức chịu tác động trực tiếp của dự án
kèm theo tài liệu tóm tắt về các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi
trường, các giải pháp BVMT của dự án xin ý kiến tham vấn" (Điều 15 của
Nghị định).
Tuy nhiên cần có quy định rõ ràng hơn "trường hợp cần thiết" nào thì
"UBND cấp xã triệu tập đại diện của tổ chức, cộng đồng dân cư bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi dự án, thông tin cho chủ dự án biết về thời gian, địa
điểm, thành phần tham gia buổi đối thoại, cùng chủ dự án chủ trì tổ chức
buổi đối thoại".
Tóm lại, quá trình thông tin và tham vấn cộng đồng trong ĐTM hiện
nay vẫn nặng về hình thức và thủ tục. Việc phát triển một cơ chế tham vấn
hoàn thiện hơn, đặc biệt là quy trình thông tin, tiếp nhận ý kiến và phản hồi
những băn khoăn của người dân trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt
và thực hiện báo cáo ĐTM là rất cần thiết. Điều này sẽ góp phần giảm thiểu
những tranh chấp, xung đột tiềm tàng có thể xảy ra trong quá trình thực

hiện dự án giữa các bên liên quan và cộng đồng địa phương bị ảnh hưởng.
2.4. Mức độ công khai thông tin liên quan đến ĐTM còn hạn chế
Mặc dù Điều 104 Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có quy định báo cáo
ĐTM, quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM và kế hoạch thực hiện các yêu
cầu của quyết định phê duyệt phải được công khai trừ các thông tin thuộc
danh mục bí mật Nhà nước; song Điều 22 Nghị định 29/2011 chỉ quy
định:“chủ dự án có trách nhiệm lập, phê duyệt và niêm yết công khai kế
hoạch quản lý môi trường tại trụ sở UBND cấp xã nơi thực hiện việc tham
vấn cộng đồng” sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt.
Trong khi đó, báo cáo ĐTM và quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM
chỉ được gửi cho các cơ quan theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 Nghị định
29/2011, bao gồm Bộ TN&MT; Sở TN&MT nơi thực hiện dự án; UBND
cấp tỉnh; UBND cấp huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh nơi thực hiện dự án
và chỉ gửi quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM (không kèm báo cáo ĐTM)
cho các Bộ quản lý ngành; UBND cấp xã nơi thực hiện dự án. Vấn đề đặt
12
ra làm thế nào để chính quyền và cộng đồng địa phương nơi trực tiếp bị tác
động có đủ thông tin, hiểu biết về tác động môi trường của dự án, để từ đó
có thể phòng ngừa, giám sát và phối hợp giải quyết khi xảy ra các tác động
tiêu cực hoặc sự cố môi trường, trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống, sinh kế
của nhân dân.
Mức độ công khai thông tin không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của báo cáo, chất lượng thẩm định, chất lượng tham vấn trong quá
trình lập báo cáo ĐTM mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện và giám sát
thực hiện báo cáo ĐTM đó trong thực tế. Như vậy, với các quy định hiện
tại trong ĐTM, khả năng tiếp cận thông tin cũng như giám sát việc thực
hiện báo cáo ĐTM của cộng đồng, cơ quan quản lý cấp xã và các tổ chức
xã hội bị hạn chế rất nhiều.
Trong bối cảnh Luật BVMT 2005 đang được xem xét sửa đổi, một số
bất cập đã được bổ sung trong Dự thảo lần 4 như quy định thực hiện báo

cáo ĐTM hai bước: ĐTM sơ bộ và chi tiết; cụ thể hóa quy trình tham vấn
trong Luật, tăng thời gian tham vấn từ 15 ngày lên 30 ngày làm việc, quy
định trách nhiệm tổ chức tham vấn cho chủ đầu tư. Tuy nhiên, một số lỗ
hổng khác vẫn chưa được đánh giá đầy đủ và xem xét đưa vào dự luật mới.
Nếu Luật BVMT sửa đổi không có những sửa đổi căn bản và mạnh mẽ hơn
vì mục tiêu BVMT như đúng tên gọi của nó thì môi trường sống của tất cả
chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bị suy thoái khi mà sức chịu tải của môi trường
đang tiệm cận ngưỡng giới hạn của nó. Bên cạnh đó, nguy cơ những tranh
chấp, xung đột môi trường có thể sẽ ngày càng gia tăng do mẫu thuẫn lợi
ích giữa các nhóm khác nhau trong xã hội.
13
Chương 3
NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1. Nguyên nhân
Những nguyên nhân chính lý giải sự yếu kém của quy trình thực hiện
Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) ở các nước đang phát triển đã được
TS. John.O.Kakonge – cố vấn đặc biệt hãng tin South-South News (có trụ
sở tại New York, Mỹ) phản ánh bao gồm nhiều nội dung quan trọng. Việt
Nam đã có gần 20 năm áp dụng ĐTM kể từ khi Luật Bảo vệ Môi trường
1993 được ban hành. Tuy nhiên, vai trò của ĐTM trong việc đảm bảo sự
cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường vẫn còn khá mờ nhạt.
Mặc dù các cơ quan thẩm quyền ở cả cấp Trung ương và địa phương đều đề
cao ý nghĩa và khẳng định sự tuân thủ nghiêm túc chính sách thực hiện
ĐTM, các nhà môi trường và phân tích chính sách lại đưa ra các bằng
chứng và lập luận rằng ĐTM mới chỉ được xem như một thủ tục cho bộ hồ
sơ dự án để được cấp phép thực hiện. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc
thực hiện ĐTM còn hạn chế. Đề tài dựa trên quan điểm của TS.
John.O.Kakonge xin trình bày một số nguyên nhân cụ thể dưới đây.
3.1.1. Tham nhũng và quản lý yếu kém

Một trong những thách thức lớn đối với quy trình thực thi ĐTM chính
là tham nhũng và quản lý yếu kém. Cũng chính vì thế mà việc thực hiện
ĐTM ở Thái Lan thường bị chỉ trích là không hợp pháp và thiếu trung thực,
thậm chí rất hiếm khi tham vấn ý kiến cộng đồng, dẫn đến các khuyến nghị,
đề xuất hay bị lờ đi, trừ trường hợp có khiếu nại. Điều này cũng có thể
quan sát được ở Nigeria.
Không chỉ với các doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện ĐTM,
KwaZulu-Natal Wildlife – một tổ chức bảo tồn động vật hoang dã uy tín
tầm cỡ quốc tế ở Nam Phi – cũng bị nêu danh khi nói tới bê bối tham
nhũng liên quan tới các tổ chức phi chính phủ vì bị coi là dính líu tới tham
nhũng khi cản trở quy trình ĐTM bằng cách không tuân thủ khung thời
gian phản hồi.
Còn rất nhiều báo cáo ĐTM bị mua chuộc và thường được dùng để
“xoa dịu các cơ quan chính phủ, cộng đồng, khiến họ lầm tưởng rằng mọi
14
thứ đều ổn nhưng thực ra, các tác động nghiêm trọng lên môi trường vẫn
đang tiềm ẩn bên trong”.
Nhìn tổng thể thì các nước đang phát triển là nơi còn nhiều yếu kém
trong quản lý và thiếu ưu tiên vấn đề tác động môi trường trong các chính
sách quốc gia. Nói như tác giả Svetlana Wibourne trong báo cáo Corruption
and the Environment (Tham nhũng và Môi trường), thì lãnh đạo các nước
đang phát triển “sẵn sàng hy sinh bầu không khí và nguồn nước sạch, đa
dạng sinh học và những cánh rừng, trừ phi chúng có thể biến thành lợi ích
kinh tế, hỗ trợ các chương trình nghị sự chính trị ngắn hạn cũng như có các
lợi ích kinh tế trung hạn” mà không ý thức được rằng việc làm này sẽ châm
ngòi cho tham nhũng và gây ra những hậu quả môi trường không ngờ tới
trong tương lai.
3.1.2. Chất lượng các báo cáo ĐTM còn thấp
Lý do thứ hai giải thích sự yếu kém của quy trình ĐTM là chất lượng
báo cáo thấp và thiếu nhất quán.

Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 29/2011, các cơ quan có thẩm
quyền tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM gồm Bộ TN&MT; các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp tỉnh. Cụ thể hơn, theo
Phụ lục III, Nghị định 29/2011, Bộ TN&MT tổ chức thẩm định báo cáo
ĐTM đối với một số loại hình dự án nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các
bộ ngành khác thẩm định dự án thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
UBND cấp tỉnh tổ chức thẩm định đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê
duyệt của địa phương. Việc phân cấp thẩm định như vậy dẫn đến tình trạng
“vừa đá bóng vừa thổi còi” khi các ngành, địa phương được thẩm định báo
cáo ĐTM của dự án do chính mình phê duyệt (khoản 2 Điều 18 Nghị định
29/2011). Đặc biệt nếu các dự án phát triển này đã được đưa vào chủ
trương, quy hoạch phát triển ngành, địa phương hoặc được xem là “quyết
tâm chính trị” thì cơ quan tham mưu phê duyệt báo cáo ĐTM khó có thể
không đồng tình.
Ngoài ra, các địa phương thường gặp nhiều khó khăn trong việc thành
lập hội đồng thẩm định do thiếu các chuyên gia có chuyên môn, kinh
nghiệm và năng lực, nhất là đối với các dự án có tác động phức tạp và cần
chuyên gia từ nhiều ngành khác nhau.
15
Thời hạn phê duyệt báo cáo ĐTM cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng thẩm định các báo cáo ĐTM. Dưới áp lực của việc cải cách các
thủ tục hành chính, thời hạn thẩm định báo cáo ĐTM theo quy định là 45
ngày và tối đa là 60 ngày làm việc đối với dự án thuộc thẩm quyền của Bộ
TN&MT và 30 ngày, không quá 45 ngày đối với dự án không thuộc thẩm
quyền của Bộ TN&MT (Điều 20 Nghị định 29/2011). Mặt khác, mặc dù
pháp luật cho phép Hội đồng thẩm định có thể thuê các chuyên gia, các tổ
chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp phản biện các nội dung trong báo cáo
trong trường hợp cần thiết (khoản 4 Điều 18 Nghị định 29/2011), nhưng
với giới hạn về thời gian như trên khiến quy định này trở nên khó khả thi
trong thực tế.

Việc thiếu chú ý đến các tác động xã hội có thể thấy rõ trong nhiều
báo cáo đã được thực hiện. Ví dụ, Báo cáo ĐTM của Dự án xây dựng nhà
máy thuỷ điện Hương Sơn phần đánh giá tác động xã hội chỉ có 01 trang,
Báo cáo ĐTM của Dự án khai thác mỏ Titan ở Hà Tĩnh phần đánh giá tác
động xã hội chỉ có ½ trang; Báo cáo ĐTM của Dự án nhà máy thủy điện
Lai Châu có nội dung dày tới 200 trang nhưng phần đánh giá tác động xã
hội cũng chỉ có 2 trang. Nhiều báo cáo ĐTM chỉ là bản copy của các dự án
khác, thậm chí nhiều trường hợp chủ đầu tư còn “quên” thay đổi địa danh
cho phù hợp với dự án mới. Có những báo cáo thì lại làm ngơ hoặc đánh
giá thấp các giá trị và vai trò của môi trường và hệ sinh thái ở nơi dự án đề
xuất can thiệp để dễ được chấp thuận. Ví dụ Vườn quốc gia Tam Đảo đã
được quy hoạch và khẳng định là “khu rừng đa dạng sinh học cao với rừng
lùn thường xanh điển hình”, tuy nhiên báo cáo hiện trạng môi trường phục
vụ cho chuẩn bị dự án Tam Đảo II (xây dựng khu giải trí do nước ngoài đầu
tư) ở vùng lõi VQG đã đánh giá là khu vực “nghèo đa dạng sinh học, không
có giá trị bảo tồn”. Tương tự, báo cáo ĐTM cho đề xuất dự án xây dựng
thủy điện Rào Àn1 và Rào Àn 2 trong vùng rừng nguyên sinh kề VQG Vũ
Quang ở xã Kim Sơn (Hà Tĩnh) đã không đề cập đến tác động của dự án
đối với các loài thú lớn bị đe doạ có giá trị bảo tồn trên toàn cầu như sao la,
voi. Tình trạng này cho thấy các quy định hiện hành chưa đủ để ràng buộc
trách nhiệm của người lập báo cáo ĐTM trong việc đảm bảo chất lượng và
16
trung thực của báo cáo ĐTM. Bên cạnh đó, việc nâng cáo năng lực thẩm
định báo cáo ĐTM cũng là đòi hỏi bức thiết để khắc phục tình trạng này.
Có không ít nguyên nhân lý giải vì sao chất lượng báo cáo ĐTM
thường thấp nhưng một nguyên nhân quan trọng cần nhắc tới là lượng
thông tin và dữ liệu về môi trường mà nhiều báo cáo chuẩn bị quá sơ sài.
Bởi “nhu cầu về số lượng báo cáo ĐTM ngày càng nhiều trong khi nguồn
dữ liệu cơ sở lại vô cùng ít ỏi đã dẫn tới việc hàng loạt báo cáo ĐTM có
chất lượng thấp và ít giá trị” – Ngân hàng Thế giới (WB) nhìn nhận.

Cũng theo Ngân hàng này thì các báo cáo ĐTM yếu kém chính là sản
phẩm của những cán bộ có năng lực và thông tin về môi trường hạn chế.
Ở Việt Nam xét về tính đồng bộ, toàn diện thì các quy định về ĐTM
hiện nay thiếu những yêu cầu, tiêu chí cần thiết để đảm bảo chất lượng của
các báo cáo ĐTM. Các quy định hiện hành dường như cũng đã cố gắng
khắc phục hạn chế này bằng các phương thức như quy định các chủ thể lập
báo cáo ĐTM phải đảm bảo những nội dung nhất định trong báo cáo ĐTM,
quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường, quy định
cách thức thực hiện (như yêu cầu thành lập tổ công tác, yêu cầu về thành
phần tham gia…, quy định chi tiết về các bước thẩm định, chủ thể thẩm
định v.v. nhưng lại thiếu chính những quy định về cơ sở để đánh giá chất
lượng của báo cáo ĐTM đó. Điều đó dẫn đến một thực tế là việc thẩm định
các báo cáo ĐTM chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của người thẩm định,
chưa có các căn cứ cụ thể để thẩm định và cơ chế pháp lý cụ thể ràng buộc
yêu cầu thẩm định. Thực tế này, một phần xuất phát từ chính tính pháp lý
của các văn bản quy hoạch, chiến lược phải lập báo cáo ĐMC. Hiện nay,
các văn bản quy hoạch, chiến lược chủ yếu mang tính định hướng, không
mang tính bắt buộc, chính vì vậy, việc xác định tính pháp lý của các báo
cáo ĐMC được lập phục vụ cho các văn bản quy hoạch, chiến lược này
tương đối phức tạp. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng các nội dung
của báo cáo ĐMC không có tính chất ràng buộc các hoạt động đầu tư trên
thực tiễn và việc khẳng định tính ràng buộc cũng như quy định cơ chế đảm
bảo thực thi các nội dung của báo cáo ĐMC là điều cần thiết.
17
3.1.3. Cơ chế giám sát lỏng lẻo
Muốn tạo ra các ĐTM hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược thì phải có
cơ chế giám sát phù hợp. Việc bỏ qua bước này hiện đang là một trong
những điểm yếu của quy trình ĐTM.
Thông thường, bản ĐTM mà các cơ quan chính phủ phê duyệt được
mặc định đã gồm cả một kế hoạch quản lý môi trường phục vụ hoạt động

giám sát. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân như phân bổ kinh phí không
đều, thiếu cán bộ thực thi giám sát của chính phủ, thiếu nguồn thông tin –
dữ liệu chất lượng, thiếu cam kết từ phía chính phủ về việc triển khai các
hoạt động giám sát cùng những ưu tiên mang tính cạnh tranh khác nên các
kế hoạch quản lý ĐTM về sau hầu như không được thực hiện.
Để đạt được tín nhiệm, hoạt động giám sát cần đưa vào quy định bắt
buộc – bà Clare Harmer nhấn mạnh trong một báo cáo nghiên cứu năm
2005 – vì đây là hoạt động cần thiết giúp xác định đầu ra của ĐTM. Chưa
kể từ đây, các bên liên quan có thể rút ra nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý
giá cho những dự án sau. Có như vậy, quy trình ĐTM mới không còn mang
tính hình thức.
Bên cạnh đó, các quy định hiện hành cũng chủ yếu quy định trách
nhiệm thực thi đối với báo cáo ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường, chưa
có cơ chế đảm bảo thực thi đối với nội dung báo cáo ĐMC.
3.1.4. Năng lực hạn chế
Yêu cầu nâng cao năng lực đội ngũ làm ĐTM đang được đặt ra cấp
thiết ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là châu Phi. Nếu có điều kiện, cần
khuyến khích các chuyên gia ĐTM cấp quốc gia và khu vực phối hợp làm
ĐTM với những người có nhiều kinh nghiệm hơn ở trong hoặc ngoài khu
vực. Ở Việt Nam còn thiếu nhiều các hướng dẫn kỹ thuật cần thiết cho
ĐTM, công tác ĐMC chưa được coi trọng đúng mức.
Mặt khác cũng cần chú trọng xây dựng năng lực cho cơ quan quản lý
phê duyệt ĐTM của một số nước đang phát triển. Nhiều nghiên cứu cho
thấy, những nước này không đủ khả năng xem xét các báo cáo ĐTM dẫn
đến tình trạng tồn đọng nghiêm trọng. Thống kê của WB cho biết, năm
2007, El Salvador bị tồn tới 2.500 ĐTM khiến quy trình ĐTM bị tắc nghẽn.
18
Để tránh rơi vào tình trạng này, các tổ chức không đủ năng lực nên
đầu tư mời các chuyên gia tư vấn độc lập thẩm định ĐTM đi đôi với việc
nâng cao trình độ nhân lực.

Cuối cùng, việc thực hiện ĐTM chắc chắn sẽ tốn kém cả về tiền bạc
và thời gian. Tuy nhiên, quá trình này chắc chắn phải được thực hiện một
cách nghiêm túc và không được thỏa hiệp. Theo khuyến cáo của Hiệp hội
Quốc tế về đánh giá tác động/Viện Đánh giá tác động môi trường
(IAIA/IEA 1999) thì để có quy trình thực hiện ĐTM tốt, các chính phủ và
các bên liên quan cần xây dựng các hình mẫu thực hiện ĐTM đảm bảo tính
thực tế, chi phí rẻ, có trọng tâm, có sự tham gia của các bên liên quan, thu
hút liên ngành và minh bạch.
3.1.5. Quá trình tham vấn cộng đồng
Ở Việt Nam, quy định về tham vấn cộng đồng là một trong những
tiến bộ của Luật Bảo vệ Môi trường 2005 (khoản 8 Điều 20). Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng cho thấy các quy định này chưa phù hợp về cách thức
thực hiện cũng như lựa chọn đối tượng tham vấn. Do đó, việc thực hiện
quy định còn mang tính thủ tục và kết quả tham vấn chưa thực sự có ý
nghĩa trong quá trình hỗ trợ ra quyết định.
Thứ nhất, Nghị định 29/2011/NĐ-CP quy định trong quá trình lập báo
cáo ĐTM, chủ đầu tư chỉ phải tham vấn đại diện cộng đồng dân cư nơi chịu
tác động trực tiếp của dự án. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ
thể về đại diện cộng đồng và cách thức lựa chọn đại diện. Theo Nghị
định 21/2008/NĐ-CP (đã hết hiệu lực), Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã hoặc Bí
thư chi bộ xã được tham vấn với vai trò đại diện của cộng đồng. Tuy nhiên,
các
đại diện này khó có thể đảm bảo phản ánh đúng nguyện vọng của
cộng đồng, đặc biệt là những nhóm yếu thế như phụ nữ, người dân mất đất
hoặc dân tộc thiểu số. Một số loại hình dự án như thủy điện hoặc xây dựng
cơ sở hạ tầng giao thông có thể ảnh hưởng đến hàng ngàn cá nhân hoặc hộ
gia đình. Tuy nhiên, chính sách hiện hành lại không quy định cụ thể số
người được tham vấn. Nhìn chung, người dân bị ảnh hưởng chưa thực sự
có cơ hội trực tiếp tham dự trong quá trình tham vấn ĐTM. Hệ lụy của tình
trạng này là khó đảm bảo đạt được sự đồng thuận giữa cộng đồng, nhà đầu

19
tư và chính quyền về dự án. Đây là cũng là một trong những nguyên nhân
của việc gia tăng các tranh chấp và xung đột môi trường trong thời gian
qua.
Thứ hai, Thông tư 26/2011/TT-BTNMT quy định chủ đầu tư phải gửi
UBND cấp xã và đại diện cộng đồng bản Tóm tắt các hạng mục đầu tư
chính, các vấn đề môi trường và các giải pháp bảo vệ môi trường của dự
án. Tuy nhiên, thông tư này lại không quy định cơ chế hoặc chế tài để đảm
bảo rằng các thông tin do chủ đầu tư cung cấp như trên là
Trong khi quy định về cung cấp thông tin chưa hợp lý, Nghị định
29/2011/NĐ-CP lại quy định người dân chỉ được đối thoại với chủ đầu tư
“trong trường hợp cần thiết” và thiếu hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện
quy định này. Việc tổ chức đối thoại do UBND xã quyết định nên khó đảm
bảo phản ánh nguyện vọng cộng đồng. Quy định này đã một mặt hạn
chế quyền được yêu cầu cung cấp thông tin của cộng đồng; mặt khác chưa
khuyến khích chủ đầu tư và cơ quan liên quan tuân thủ nguyên tắc giải
trình trách nhiệm. Ngoài ra, hiện nay chưa có các chế tài ràng buộc chủ đầu
tư phải tiếp thu và xử lý các ý kiến của cộng đồng đối với dự án.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ĐTM
Để ĐTM có thể là một công cụ hữu hiệu trong quản lý và bảo vệ môi
trường, cần hoàn thiện khung pháp lý về ĐTM ở Việt Nam ở các khía cạnh
sau đây:
Thứ nhất, Cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định đảm bảo chất
lượng của báo cáo ĐTM được lập, trong đó có việc đưa ra các tiêu chí đánh
giá chất lượng của báo cáo ĐTM. Việc đưa ra các tiêu chí cụ thể về mặt nội
dung đối với báo cáo ĐTM vừa đảm bảo tính minh bạch của các quy định
về lập và thẩm định báo cáo ĐTM, vừa làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân
lập báo cáo ĐTM, vừa là căn cứ cho việc thẩm định báo cáo.
Thứ hai, Cần có cơ chế để đảm bảo thực thi các nội dung của báo cáo
ĐMC trên thực tế. Nội dung của báo cáo ĐMC phải được coi là một phần

của các quy hoạch, chiến lược đã được phê duyệt và các báo cáo ĐTM
thuộc các dự án nằm trong phạm vi của các quy hoạch, chiến lược phải
đảm bảo sự phù hợp với các báo cáo ĐMC đã được lập cho các quy hoạch,
chiến lược đó.
20
Thứ ba, Cần cụ thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở
vật chất, trang thiết bị đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo
ĐTM nhằm đảm bảo năng lực cung cấp dịch vụ của các tổ chức này, góp
phần chuyên môn hoá công tác lập báo cáo ĐTM và đảm bảo chất lượng
của công tác ĐTM trên thực tế.
Thứ tư, Cần có cơ chế đảm bảo sự tham gia của cộng đồng địa phương
vào quá trình lập, thẩm định và giám sát thực hiện các báo cáo ĐTM và
ĐMC thông qua việc nâng cao năng lực của cộng đồng về các vấn đề môi
trường và yêu cầu đối với báo cáo ĐTM và ĐMC.
Thứ năm, Cần làm rõ trách nhiệm môi trường của các chủ thể tham
gia vào việc lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM đảm bảo trong trường
hợp các dự án được phê duyệt làm tổn hại đến môi trường xuất phát từ chất
lượng của báo cáo ĐTM thì sẽ có chủ thể phải chịu trách nhiệm về hậu quả
này. Cụ thể là trong trường hợp báo cáo ĐTM được lập với chất lượng
không cao, không đánh giá đầy đủ các tác động môi trường cũng như thiếu
những giải pháp cần thiết để đảm bảo hạn chế tác động tiêu cực của dự án
đến môi trường mà vẫn được phê duyệt thì sẽ xác định trách nhiệm của
người phê duyệt, người thẩm định và chủ dự án như thế nào, trong trường
hợp dự án đó được triển khai và gây thiệt hại cho môi trường, cho cộng
đồng dân cư thì trách nhiệm thuộc về ai là những vấn đề cần được làm rõ.
Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm cho Sở Tài nguyên và Môi
trường giám sát việc thực hiện báo cáo ĐTM trong khi triển khai Dự án.
Cần trao cho Sở Tài nguyên và Môi trường quyền (và trách nhiệm) phát
hiện những vấn đề mới phát sinh, những giải pháp nêu trong báo cáo ĐTM
đã không còn phù hợp với thực tế để yêu cầu chủ dự án điều chỉnh nội

dung Báo cáo ĐTM.
Thứ sáu, cần tích cực tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ thẩm định
báo cáo ĐTM cho các cán bộ cấp tỉnh. Việc này sẽ góp phần nâng cao chất
lượng của công tác thẩm định, ngay cả đối với các dịch vụ thẩm định.
Thứ bảy, Cần có những chế tài nghiêm khắc hơn đối với các vi phạm
nghĩa vụ từ việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để
đảm bảo tính răn đe đối với hành vi vi phạm, bổ sung chế tài đình chỉ dự án
và yêu cầu khôi phục hiện trạng để tránh tình trạng có những chủ thể cố
21
tình không lập báo cáo ĐTM nhưng vẫn triển khai dự án gây ra những hậu
quả môi trường không thể khắc phục được.
22
KẾT LUẬN
Với hơn 20 năm thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường ở
Việt Nam chúng ta không thể phủ nhận công lao to lớn của các nhà khoa
học, nhà quản lý về lĩnh vực môi trường và quá trình thực hiện ĐTM ở Việt
Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Tuy rằng vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập nhưng chúng ta phải thật khách quan nhìn nhận toàn diện về
vấn đề này. Nhìn ra lịch sử thế giới về bảo vệ môi trường và vấn đề đánh
giá tác động môi trường, thì Việt Nam chúng ta cũng là một quốc gia nhận
được sự quan tâm lớn của Đảng và nhà nước.
Với một đất nước có nền kinh tế trong giai đoạn đang phát triển, chịu
ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh nhưng chúng ta đã có những
định hướng nhằm không ngừng phát triển kinh tế và hiện nay vấn đề mà
chúng ta quan tâm rất nhiều là vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy còn có một
số dự án thực hiện còn chưa được như chúng ta vẫn mong đợi, song chúng
ta không thể phủ nhận những thành quả này.
Áp dụng thực hiện công cụ ĐTM ở Việt Nam là một quá trình phát
triển thể chế nhằm xác lập vai trò, chức năng của các bên liên quan và các
cơ chế thực hiện ĐTM dựa trên các kinh nghiệm và phản hồi thực tiễn cũng

như yêu cầu hài hòa với các hoạt động phát triển ngày càng khó kiểm soát.
Phải xem xét quy trình ĐTM như là một phần cốt lõi của hệ thống quản trị
môi trường mà theo đó các nguyên tắc về sự tham gia, minh bạch thông tin
và giải trình trách nhiệm phải được lồng ghép tối đa trong khung luật pháp
liên quan. Tôi hy vọng trong thời gian tới công tác ĐTM ở nước ta sẽ ngày
càng đạt được những hiệu quả và thành công hơn nữa.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do những hạn chế về mặt thời gian,
tài liệu, khả năng nghiên cứu… nên không tránh khỏi những thiếu sót hạn
chế. Tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp để nghiên cứu này được
đầy đủ và có thể tiếp tục phát triển hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm
ơn!
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương Anh (2013). Quy định về đánh giá tác động môi trường:
Còn "vênh", trích dẫn
27/12/2013.
2. Environmental impact assessment of irrigation and drainage
projects (1995), trích
dẫn 2013.
3. ThS. Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang (2011). Hoàn
thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí
Luật học số tháng 6/2011.
4. Lê Văn Khoa (chủ biên) (2012). Khoa học môi trường, NXB Giáo
dục Việt Nam.
5. Nguyễn Khắc Ninh (2013). Bản nhận xét về Dự thảo 5 Luật BVMT
2005 sửa đổi.
6. Nguyễn Khắc Ninh (2013). Đánh giá tác động môi trường trong quá
trình ra quyết định đối với các dự án phát triển: Một số bất cập lớn trong
thực tiễn thực hiện ở Việt Nam. />lieu/hoithaomt&pt/2.NguyenKhacKinh-Presentation.pdf, trích dẫn 2014
7. Hoàng Phượng (2013). Bất cập chính sách và thực tiễn của ĐTM ở

Việt Nam, />thuc-tien-cua-dtm-o-viet-nam/, trích dẫn 01/10/2013.
8. Nguyễn Hoàng Phượng, Trần Thanh Thủy, Nguyễn Việt Dũng
(2013). Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: Cải cách chính sách để
góp phần giảm xung đột và tranh chấp môi trường. Hà Nội: Trung tâm Con
người và Thiên nhiên, />cach-chinh-sach-de-gop-phan-giam-xung-dot-va-tranh-chap-moi-truong/,
trích dẫn 02/04/2014.
9. Nguyễn Thị Anh Thu (2010). Hài hoà ĐTM hỗ trợ Tuyên bố chung
Hà Nội về Hiệu quả Viện trợ. Báo cáo chương trình Nâng cao Năng lực
Toàn diện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Phát triển Châu Á, tháng
1/2010.
24
10. Nguyễn Hải Vân, Nguyễn Việt Dũng, Hoàng Xuân Thúy (2009).
Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam. Từ pháp luật đến thực tiễn,
Trung tâm con người và thiên nhiên, Hà Nội, 4/2009, trang 1.
Một số văn bản pháp luật:
11. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005
12. Thông tư 05/2008/TT-BTNMT
13. Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18/7/2011
14. Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 04 năm 2011

25

×