Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tích hợp các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học sinh học phần sinh học vi sinh vật- sinh học 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.5 KB, 20 trang )

1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÍCH HỢP CÁC CÂU HỎI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN ĐỜI
SỐNG NHẰM TĂNG HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
PHẦN “SINH HỌC VI SINH VẬT” SINH HỌC 10

Người thực hiện: Trịnh Bá Hưng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN môn: Sinh học

THANH HOÁ NĂM 2013
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
MỤC LỤC 2
TÍCH HỢP CÁC CÂU HỎI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG
NHẰM TĂNG HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
SINH HỌC PHẦN “ SINH HỌC VI SINH VẬT” SINH HỌC 10
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, khoa học kĩ thuật có tốc độ phát triển cực kì nhanh chóng. Cứ
khoảng 4- 5 năm thì khối lượng tri thức lại tăng gấp đôi. Trong sự phát triển chung
đó thì Sinh học có gia tốc tăng lớn nhất. Sự gia tăng khối lượng tri thức, sự đổi mới
khoa học Sinh học tất yếu đòi hỏi sự đổi mới về phương pháp dạy học, đào tạo thế
hệ trẻ.
Trên đà phát triển đó, hiện nay ngành Giáo dục và Đào tạo đang tập trung vào
việc đổi mới phương pháp ở các cấp bậc học. Phong trào đổi mới phương pháp dạy
học đã và đang trở thành một phong trào nổi trội mà tất cả những người làm công
tác giáo dục hưởng ứng một cách tích cực. Bản thân tôi cũng là một trong những


người được xã hội tôn vinh là “Kĩ sư tâm hồn”, cũng ôm ấp trong mình biết bao
nhiêu là ước mơ sẽ góp phần đào tạo một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, thành thục
các kĩ năng sống, đáp ứng với yêu cầu mới của xã hội hiện nay.
Với bộ môn sinh học mà tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng hàng
ngày thì việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng phải có sự khác biệt
nhiều so với các môn học khác. Ngoài các phương pháp dạy học tích cực được sử
dụng thường xuyên như: Thảo luận nhóm, Nêu vấn đề Nhằm nâng cao khả năng
tiếp thu, tính chủ động, sáng tạo trong học tập bộ môn Sinh học của học sinh thì
việc gắn các kiến thức, ứng dụng thực tế bộ môn vào các bài giảng hàng ngày trong
giảng dạy Sinh học ở các trường THPT hiện nay ít được chú trọng, nếu không nói
là bỏ quên. Đối với môn Sinh học : các khái niệm, quy luật, các hiện
tượng… nhiều khi rất trìu tượng, khó hiểu, khô cứng làm học sinh khó tiếp thu, dễ
nhàm chán, đặc biệt với các học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng dẫn đến
sợ bộ môn Sinh học.
Xuất phát từ những thực tế đó và với kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn sinh
học, tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Sinh học của học sinh, từ đó
dần nâng cao chất lượng bộ môn Sinh học ở trường phổ thông hiện nay , người giáo
viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các
2
hiện tượng, ứng dụng thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình
thức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo niềm tin,
niềm vui, hứng thú trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài: “Tích
hợp các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống nhằm tăng hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học sinh học phần: Sinh học vi sinh vật- sinh học 10”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống một số câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống thuộc
kiến thức bộ môn sinh học cho các bài giảng thuộc phần “Vi sinh vật”- Sinh học 10
trong chương trình THPT. Vận dụng hệ thống các hiện tượng, ứng dụng thực tế
trong cuộc sống đã xây dựng để dạy học Sinh học nhằm giáo dục ý thức và tăng
hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.

3. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu.
- Qua các tiết thực nghiệm trên lớp
- Điều tra hiệu quả của phương pháp qua phiếu điều tra, qua chất lượng học tập của
học sinh.
4. Phạm vi đề tài
Đề tài nghiên cứu về vấn đề sử dụng kiến thức gắn với thực tế bộ môn để dạy
học Sinh học theo hướng dạy học tích cực trong phạm vi dạy học các bài dạy về
“Sinh học vi sinh vật” sinh học 10 ở trường THPT .
5. Nội dung đề tài
Đề tài nghiên cứu về vấn đề sử dụng thí nghiệm một cách tích cực khi dạy các
bài học về “Sinh học vi sinh vật” sinh học 10 ở trường THPT trên các mặt:
• Lý luận về phương pháp.
• Hệ thống bộ câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống được khai
thác nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lí luận của đề tài
1.1 Vì sao cần tích hợp các câu hỏi liên quan đến thực tiễn đời sống trong giờ
dạy bài học về “Vi sinh vật”- sinh học 10.
Để đáp ứng được phương pháp “Dạy học sinh học gắn với thực tế bộ môn” theo
hướng dạy học tích cực” thì phải nói đến vị trí, vai trò của các ứng dụng sinh học
trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Nếu các kiến thức thực tiễn được sử dụng
3
theo đúng mục đích sẽ là nguồn HS khai thác, tìm tòi phát hiện kiến thức, giúp phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy năng lực nhận thức và tư duy khoa
học sinh học.
Ứng dụng sinh học vào thực tế cuộc sống là một yếu tố đặc trưng trong hoạt
động dạy học, giữ vai trò cơ bản trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học sinh
học ở trường phổ thông.
Đối với học sinh THPT các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương

lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có
kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người giáo viên dạy
sinh học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, trong đó phương
pháp dạy học bằng cách khai thác các hiện tượng, ứng dụng sinh học thực tiễn
trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn sinh học rất gần
gũi với các em. Giáo viên phải tổ chức được các hoạt động tự lực học tập cho học
sinh theo những cơ sở lí luận sau:
1.1.1: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh học tập theo hướng tích hợp:

Với sự bùng nổ của các thành tựu khoa học trong các lĩnh vực: Vật lí, Sinh
học, Hóa học…nên chương trình đào tạo cũng được phân chia thành các mảng kiến
thức tương đối tách rời, cô lập với những khái niệm chi tiết khó nhớ. Xu hướng
hiện nay trong dạy học sinh học nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học nói
chung, người ta cố gắng trình bày cho học sinh thấy mối quan hệ hữu cơ của các
lĩnh vực không những của sinh học với nhau mà còn giữa các ngành khoa học khác
nhau như: sinh học, toán học, vật lí,…Khi dạy kiến thức sinh học bất kể từ lĩnh vực
nào: Sinh học tế bào, sinh học vi sinh vật, di truyền học …đều liên quan đến kiến
thức vật lí, hóa học hay nhiều hiện tượng thiên nhiên, hoặc kiến thức thành phần
hóa học của tế bào: gluxit, lipit, protein,…đều liên quan đến kiến thức hóa học, nên
khi sử dụng những câu hỏi mở rộng theo hướng tích hợp sẽ làm cho học sinh chủ
động tìm tòi câu trả lời, đồng thời thấy được sự liên hệ giữa các môn học với nhau.
Ví dụ: khi học hóa học ta giải thích hiện tượng: Tại sao nước một số sông hồ
có màu den đó là do H
2
S trong nước ao kết hợp với Fe để tạo thành FeS kết tủa,
Thì với sinh học các em sẽ hiểu rõ hơn trong các môi trường kị khí như bùn trong
các ao, sông, hồ một số vi sinh vật phân giải chất hữu cơ bắt nguồn từ xác thực
vật, vận chuyển Ion và electron đến chất nhận electron cuối cùng là SO
4
2-

được gọi
là hô hấp sunphat. Quá trình hô hấp này tạo ra khí H
2
S, khí này kết hợp với Fe có
trong ao tạo ra Fes làm nước ao có màu đen.

Tuy nhiên để dạy theo cách tích hợp như trên, người giáo viên phải biết chọn
những vấn đề quan trọng, mấu chót nhất của chương trình để giảng dạy còn phần
4
kiến thức dễ hiểu nên hướng dẫn học sinh về nhà đọc SGK hoặc các tài liệu tham
khảo. Ngoài ra giáo viên phải chọn lựa các hiện tượng thực tiễn phù hợp với nội
dung bài mới tăng hứng thú, say mê học tập, tìm hiểu bộ môn.
Nếu người giáo viên kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp sử dụng các hiện
tượng, ứng dụng thực tiễn, ngoài giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập
còn lồng ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Đây cũng là
hướng đi mà ngành giáo dục nước ta đang đẩy mạnh trong các năm gần đây.
1.1. 2: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh cách thiết lập sự liên hệ các nội
dung học với thực tiễn đời sống.
Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học
giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với
thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức sinh học có thể liên hệ được với
các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta.
Ví dụ: Tại sao dưa cà muối lại bảo quản được lâu?
Giải thích:Khi muối dưa cà, axitlactic do vi khuẩn lactic tiết ra cùng với nồng độ
muối cao kìm hãm sinh trưởng của các vi sinh vật khác, đặc biệt là vi sinh vật gây
thối rau quả.
1.1.3: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh thông qua các tình huống giả
định bằng các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống.


Trong quá trình dạy học nếu ta chỉ áp dụng một kiểu dạy thì học sinh sẽ nhàm
chán. Giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học lồng ghép vào nhau,
trong đó hình thức giảng dạy bằng cách đưa ra các tình huống giả định kèm vào các
phương pháp dạy để học sinh tranh luận vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của
học sinh vừa tạo được môi trường thoải mái để các em trao đổi từ đó giúp học sinh
thêm yêu thích môn học hơn.
Ví dụ: Khi học bài: Ảnh hưởng của các yếu tố hóa học đến sinh trưởng của vi
sinh vật- sinh học 10 nâng cao, GV có thể đưa ra tình huống: Vì sao muốn bảo
quản thịt cá người ta có thể bảo quản bằng cách ướp muối? HS sẽ nhanh chóng
trả lời đó là do muối đã ức chế sự phát triển của vi sinh vật trong thịt, cá. Tuy
nhiên nếu hỏi vì sao muối lại có khả năng ức chế vi sinh vật thì học sinh không dễ
giải thích được: Muối làm tăng cao áp suất thẩm thấu, rút nước trong tế bào vi
khuẩn là tác nhân gây hỏng thực phẩm và làm tế bào đó chết.
Tình huống mang tính thách đố như vậy sẽ kích thích học sinh học tập và thi
đua nhau tìm câu trả lời. Các em sẽ nhớ kiến thức lâu hơn.
2. Thực trạng sử dụng kiến thức gắn với thực tiễn đời sống trong bài dạy về
“Vi sinh vật” ở trường THPT
5
Chương trình Sinh học trung học phổ thông ở nước ta hiện nay (thể hiện thông qua
nội dung sách giáo khoa của các lớp 10, 11 và 12) bao gồm nhiều phần khác nhau
như: Di truyền học, tế bào học, sinh học vi sinh vật … Mỗi phần được thể hiện
bằng nhiều đơn vị kiến thức khác nhau, tương ứng với các cách tiếp cận kiến thức
khác nhau. Những tưởng rằng, với một khối lượng kiến thức đồ sộ như vậy, thực tế
cuộc sống của các em sẽ vô cùng phong phú, các em hoàn toàn có khả năng làm
chủ được kiến thức của mình, việc vận dụng kiến thức của các em trong đời sống
thức tế ở chính gia đình của mình, việc giải thích những hiện tượng xảy ra hàng
ngày xung quanh các em chỉ là “vấn đề đơn giản” Nhưng điều đó đã không diễn
ra trên thực tế như những gì chúng ta mong đợi.
Sau khi học xong chương trình sinh học 10, nhiều học sinh còn ngỡ ngàng khi
ăn sữa chua, các em không biết quy trình làm thế nào, thậm chí nhiều em còn chưa

biết cả thành phần và tác dụng của nó.
Với kiến thức về sinh học phân tử, sinh học tế bào, sinh học vi sinh vật, ở trên
lớp các em có thể mô tả một cách đầy đủ và chính xác về Cấu trúc axit nucleotit,
cấu trúc protein, cấu trúc virut, nêu đúng những định nghĩa, khái niệm về sinh
trưởng của vi sinh vật, cấu trúc các loại virut, bệnh truyền nhiễm Thế nhưng, với
những câu hỏi đại loại như: “Lấy thêm một số thí dụ ứng dụng trong thực tế về
phân giải vi sinh vật, bệnh do virut ”, cũng thực sự làm cho các em lúng túng.
Nhiều học sinh còn không thể giải thích được những hiện tượng rần gần gũi với đời
sống: Tại sao khi muối dưa, cà nếu không để ráo nước trước khi muối thì dưa dễ bị
nổi váng? hay tại sao virut HIV chỉ lây từ người này sang người khác mà không lây
sang vật nuôi?
Các kiến thức sinh học về vi sinh vật lẽ ra phải là một trong các cơ sở tốt nhất để
các em vận dụng vào thực tiễn, nhưng điều đó dường như vẫn còn “xa vời” đối với
các em. Quan sát bao bì một loại bột giặt thấy trong thành phần có chứa enzim,
chắc hẳn vẫn còn là một “điều lạ” đối với một bộ phận học sinh hiện nay! Tương tự
như thế, chắc hẳn kiến thức về các quy luật, các khái niệm đối với học sinh phổ
thông hiện nay có lẽ vẫn chỉ là nội dung các khái niệm, cách giải các bài tập,
chúng còn “nằm yên” một cách khiêm tốn trên những trang vở, chúng tôi có cảm
giác vẫn còn thiếu một cái gì đó để có thể “đánh thức” chúng dậy, làm cho chúng
trở thành một trong những hành trang tốt trong cuộc sống của mỗi học sinh.
Tôi cũng đã trao đổi vấn đề này với nhiều đồng nghiệp ở một số địa phương
khác nhau, hầu như họ cũng có nhận định như vậy, thậm chí nhiều giáo viên giảng
dạy ở khu vực nông thôn, miền núi khó khăn hơn cho biết thực trạng trên còn có
thể xấu hơn.
Trăn trở với thực trạng đáng buồn trên, tôi đã thử đi tìm đâu là những nguyên
nhân cơ bản của vấn đề và những nguyên nhân ấy bộc lộ dưới những hình thức
nào?
6
Theo tôi, nguyên nhân cơ bản và là nguyên nhân khách quan đầu tiên phải kể
đến, là sự quá tải của chương trình. Nội dung kiến thức trong phần lớn các bài học

là quá nhiều, không thích ứng với thời gian quy định của mỗi tiết học. Thực tế
giảng dạy cho thấy, với thời gian 45 phút của một tiết học, nếu chỉ sử dụng một
cách “tiết kiệm” nhất: 2 phút để ổn định lớp, 5 phút để kiểm tra bài cũ (chủ yếu là
kiểm tra những kiến thức rất cơ bản), 3 phút để củng cố bài (thực chất chỉ đủ để
nhắc lại những kiến thức chính vào cuối tiết học) thì thời gian còn lại chỉ là 35 phút
dành cho thầy và trò tiến hành các hoạt động nhận thức của bài học. Trong khoảng
thời gian này, với nội dung kiến thức tương đối nhiều, việc làm cho học sinh hiểu
được kiến thức bài học thôi cũng đã là khó khăn, giáo viên không còn đủ thời gian
để liên hệ kiến thức mà học sinh vừa lĩnh hội được với thực tế đời sống, hoặc nếu
có liên hệ được thì cũng chỉ dưới hình thức liệt kê tên gọi của các sự vật, hiện
tượng mà thôi.
Nguyên nhân thứ hai là việc giảng dạy kiến thức cho học sinh nói chung và
kiến thức sinh học nói riêng ở nhiều trường vẫn còn tiến hành theo lối “thông báo -
tái hiện”. Do những khó khăn nhất định về kinh phí, cơ sở vật chất, thiết bị mà
nhiều trường trung học phổ thông đã chưa khuyến khích được giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học, không tạo được cho họ những điều kiện tốt để có thể sử
dụng các hình thức dạy học tiên tiến (sử dụng các phương tiện dạy học như tranh
ảnh tự làm, tự sưu tầm, máy tính, thực hiện các tiết học bằng bài giảng điện tử, dã
ngoại ) và do đó lối “dạy chay” vẫn là cách dạy học ngự trị ở nhiều trường trung
học phổ thông hiện nay.
Nguyên nhân thứ ba thuộc về chủ quan của mỗi giáo viên đứng lớp, nhiều giáo
viên chưa có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài giảng, giáo án còn thiên về cung cấp kiến
thức giáo khoa một cách thuần túy, chưa coi trọng việc soạn và sử dụng bài giảng
theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, điều này làm cho học
sinh khá thụ động trong việc lĩnh hội và vận dụng kiến thức. Cũng phải thừa nhận
rằng, nhiều địa phương hiện nay còn thiếu các tài liệu liên quan đến câu hỏi thực
tế, thiếu các phương tiện nghe nhìn, thiếu các thông tin dưới dạng băng đĩa hình,
thiếu các tài liệu lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, nhất là các trường ở vùng
nông thôn và miền núi. Điều đó gây không ít khó khăn cho giáo viên khi xây dựng
bài giảng theo ý muốn của mình.

Nguyên nhân thứ tư không thể không nhắc tới là cách kiểm tra đánh giá hiện
nay. Nội dung các bài thi và kiểm tra ở nhiều trường phổ thông chủ yếu tập trung
vào nội dung kiến thức mà chưa có những câu hỏi mang tính vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, đây chính là một “khe hở” khá rộng, một nguyên nhân khá rõ để giải
thích cho thực trạng nêu trên. Mặt khác học sinh THPT hiện nay học tập mang tính
thực dụng, tức là các em chỉ tập trung học các môn phục vụ cho khối thi Đại học-
cao đẳng. Do xu thế xã hội về khả năng cơ hội việc làm nên ở những vùng thuần
7
nông như trường THPT Yên Định 3 chúng tôi số lượng học sinh theo khối B rất ít,
chủ yếu các em học môn sinh để thi được hai khối.
Giải quyết thực trạng trên như thế nào? đó là một vấn đề khó. Như đã nêu trên,
Tôi chỉ xin đưa ra một số giải pháp mang tính đơn lẻ, mong rằng những giải pháp
này có thể giúp ích cho chúng ta cải thiện được ít nhiều thực trạng trên, nhằm giúp
học sinh hứng thú học tập thông qua thực tế bộ môn.
3. Nội dung vấn đề:
3.1. Một số hình thức áp dụng các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống
trong tiết dạy:
3.1.1 Đặt tình huống vào bài mới.
Tiết dạy có gây sự chú ý của học sinh hay không nhờ vào người hướng dẫn
(giáo viên) rất nhiều. Trong đó phần mở đầu đặc biệt quan trọng, nếu ta biết đặt ra
một tình huống thực,tiễn hoặc một tình huống giả định yêu cầu học sinh cùng tìm
hiểu, giải thích qua bài học sẽ cuống hút được sự chú ý của học sinh trong tiết dạy.
3.1.2 Lồng ghép tích hợp kiến thức có liên quan đến thực tiễn đời sống về môi
trường vào bài dạy.
Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất, đang được con người nhắc đến rất
nhiều. Trong cuộc sống hằng ngày các hiện tượng thường xuyên bất gặp như: nước
thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng vịt ; khói bụi của các nhà máy xay lúa,
các lò gạch, các cánh đồng sau thu hoạch, có liên quan gì đến những diễn biến bất
thường của thời tiết hiện nay không. Giáo viên dạy học bộ môn sinh có thể lồng
ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các sản phẩm sinh học , hay ứng dụng

của một số vi sinh vật Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn
giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực
trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gủi với các
em.
3.1.3 Liên hệ kiến thức có liên quan đến thực tiễn đời sống trong bài dạy.
Khi học xong vấn đề gì học sinh thấy có ứng dụng thực tiễn cho cuộc sống thì
các em sẽ chú ý hơn, tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn. Do đó mỗi
bài học giáo viên đưa ra được một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi cuốn được sự chú ý
của học sinh. Giáo viên cũng cần chú ý khi sử dụng các hiện tượng sinh học thực
tiễn nên khéo léo trong giải thích vấn đề, vì cấp độ bộ môn sinh ở THPT nhiều khi
chưa tìm hiểu sâu quá trình diễn biến của sự việc hay hiện tượng. Do đó giáo viên
phải biết lựa chọn cách giải thích cho phù hợp, nếu học sinh tỏ ra tìm tòi hơn chúng
ta có thể khích lệ, mở ra hướng giáo dục vai trò quan trọng của bộ môn mà các em
sẽ được tìm hiểu ở các cấp cao hơn.
8
3.2. Hệ thống các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho các bài
giảng phần “ Sinh học- vi sinh vật”- Sinh học 10.
3.2.1 Hệ thống các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho các
bài giảng thuộc Chương I: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở vi sinh vật
Câu 1: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta ngửi thấy
mùi khai ?
Giải thích: Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như
nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ… thì lượng urê trong các chất hữu cơ này
sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy
tiếp thành CO2 và amoniac NH3 theo phản ứng:
(NH2)2CO + H2O CO2 + 2NH3
NH3 sinh ra hòa tan trong nước sông, hồ dưới dạng một cân bằng động. Như
vậy khi trời nắng (nhiệt độ cao), NH3 sinh ra do các phản ứng phân hủy urê chứa
trong nước sẽ không hòa tan vào nước mà bị tách ra bay vào không khí làm cho
không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.

Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp quanh hồ, ao, nhất là vào mùa khô, nắng
nóng. Giáo viên có thể nêu vấn đề để chuyển sang mục “Hô hấp và lên men” bài
33- sinh học 10 nâng cao.
Câu 2: Vì sao không nên bón Phân đạm cùng với phân chuồng trên những ruộng
lúangậpnước?
Giải thích: Vi khuẩn phản nitrat hóa có khả năng dùng nitrat chủ yếu làm chất
nhận điện tử. Tùy theo loài vi khuẩn mà sản phẩm của khử nitrat dị hóa là N2, N2O
hay NO, đây đều là những chất mà cây trồng không hấp thụ được. Quá trình phản
nitrat hóa xảy ra mạnh khi đất bị kị khí như khi dùng phân đạm (nitrat) cùng với
phân chuồng trên những ruộng lúa ngập nước, phân nitrat dùng bón cho lúa bị
nhóm vi khuẩn này sử dụng rất nhanh, nitrat có thể mất hết rất nhanh mà cây trồng
không kịp sử dụng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 22:
Dinh dưỡng, chuyển hóa vật chất và năng lượng ở vi sinh vật- sinh học 10 nâng
cao.
Câu 3: Chữ “sinh học” trong bột giặt sinh học là gì và tác dụng của nó?
Giải thích: Chữ “Sinh học trong bột giặt sinh học có nghĩa là bột giặt chứa một
9
hoặc nhiều loại enzim để tẩy sạch một số vết bẩn. Các enzim đó là các enzim ngoại
bào của vi sinh vật, có thể được sử dụng rộng rãi, ví dụ amilaza để loại bỏ tinh bột,
proteaza loại bỏ protein, lipaza loại bỏ mỡ.
Áp dụng: Ngày nay người ta Sản xuất các chất xúc tác sinh học là các enzim ngoại
bào của vi sinh vật được sử dụng phổ biến trong đời sống con người và trong nền
kinh tế quốc dân trong đó có bột giặt và nhiều ứng dụng khác như:
- Amilaza (thuỷ phân tinh bột) được dùng khi làm tương, rượu nếp, trong công
nghiệp sản xuất bánh kẹo, công nghiệp dệt, sản xuất xirô.
- Prôtêaza (thuỷ phân prôtêin) được dùng khi làm tương, chế biến thịt, trong công
nghiệp thuộc da, công nghiệp bột giặt.
- Xenlulaza (thuỷ phân xenlulôzơ) được dùng trong chế biến rác thải và xử lí các bã
thải dùng làm thức ăn cho chăn nuôi và sản xuất bột giặt.

- Lipaza (thuỷ phân lipit) dùng trong công nghiệp bột giặt và chất tẩy rửa…
Giáo viên có thể sử dung câu hỏi này để dẫn dắt vào phần ứng dụng quá trình
tổng hợp các chất ở vi sinh vật- sinh học 10
Câu 4: Tại sao trâu bò lại đồng hóa được rơm, rạ, cỏ giàu chất xơ?
Giải thích: Trong dạ cỏ của trâu, bò chứa các vi sinh vật, trong các vi sinh vật đó
chứa các enzim có khả năng phân giải xenlulozo, heemixenlulozo và pectin trong
rơm rạ thành các chất dơn giản mà cơ thể hấp thụ được
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng đặc điểm quá trình
phân giải và ứng dụng các chất ở vi sinh vật.
Câu 5: Tại sao khi nướng bánh mì lại trở lên xốp?
Giải thích: Khi làm bánh mì, ngoài bột mì ra thì một thành phần không thể thiếu là
nấm men, đây là những vi sinh vật sinh sản nhanh và biến đường, ôxi có trong bột
mì thành khí cacbonic, sinh khối và vitamin. Khí cacbonic trong bột sẽ giãn nở và
tăng thể tích khi nướng nên làm bánh mì nở, rỗng ruột và trở nên xốp hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho bài 35: Quá trình phân giải các chất
ở vi sinh vật và ứng dụng nhằm giúp học sinh hiểu được lợi ích của vi sinh vật
trong thực tiễn.
Câu 6: Trong làm tương và làm nước mắm có sử dụng cùng một loại vi sinh vật
không?
Giải thích: Không, vì làm tương nhờ nấm vàng hoc cau là chủ yếu, loại nấm này
tiết ra proteaza để phân giải protein trong đậu tương. Làm nước mắm nhờ vi khuẩn
kị khí trong ruột cá là chủ yếu, chúng sinh ra proteaza để phân giải protein của cá.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng ứng dụng quá trình
phân giải protein.
10
Câu 7: Người ta đã áp dụng hình thức lên men nào trong muối dưa, cà? Làm thế
nào để muối được dưa, cà ngon?
Giải thích: Muối dưa, cà là hình thức lên men lactic tự nhiên, do vi khuẩn lactic.
Muốn muối dưa, cà ngon phải tạo điều kiện ngay từ đầu vi khuẩn lactic lấn át được
vi khuẩn gây thối. Do đó phải cho đủ muối, nhưng không được quá nhiều vì sẻ ức

chế ngay cả vi khuẩn lactic làm dưa không chua được.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài hoặc liên
hệ thực tế quá trình phân giải các chất ở vi sinh vật.
Câu 8: Tại sao rượu vang hoặc sâmpanh đã mở thì phải uống hết?
Giải thích: Đã mở phải uống hết vì để đén hôm sau dễ bị chua, rượu nhạt đi do
axetic bị ôxi tạo ra giấm. Đây là quá trình oxi hóa hiếu khí được thực hiện bởi
nhóm vi khuẩn axetic thuộc chi Acetobacter. Nếu để lâu nữa thì axit axetic bị ôxi
hóa thành CO
2
và nước làm giấm nhạt đi.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài thực
hành lên men Etilic.
Câu 9: Tại sao những quả có vị ngọt như vải, nhãn để 3 đến 4 ngày thường có mùi
chua?
Giải thích: Vì trong dịch quả có nhiều đường, nấm men ở trên vỏ xâm nhập vào và
quá trình lên men diễn ra. Sau đó các vi khuẩn chuyển hóa dường thành rượu, từ
rượu thành axit khiến quả bị chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài thực hành
lên men Etilic.
Câu 10: Tại sao dưa muối lại chua, ăn ngon và giữ được lâu?
Giải thích: Muối dưa, cà là hình thức lên men lactic tự nhiên, do vi khuẩn lactic.
Vị chua là vị của axit lactic. Do vi khuẩn lactic và dung dịch muối ức chế sự phát
triển của các vi khuẩn gây thối nên giữ được lâu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề, giới hạn kiến thức
vào chương và bài học của phần chuyển hóa vật chất và năng lượng ở vi sinh vật.
Câu 11: Vì sao rượu trưng cất bằng phương pháp thủ công ở một số vùng dễ làm
người uống đau đầu?
Giải thích: Nấu rượu bằng nồi đồng xảy ra phản ứng:
C
2

H
5
OH + O
2
→ CH
3
CHO + H
2
O
Sản xuất rượu thủ công không khử được anđêhit, nên khi uống vào gây đau đầu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong mục tìm
hiểu quá trình phân giải các chất ở vi sinh vật.
11
Câu 12: Ở Thanh Hóa có đặc sản nem chua, ăn nem chua có đảm bảo sạch hay
không vì nem chua làm bằng thịt sống hoàn toàn mà không qua đun nấu.
Giải thích: Làm nem chua dựa trên nguyên lí lên men lacstic đảm bảo an toàn,
nhung nếu trong quá trình làm không vệ sinh đúng thì các vi khuẩn lên men thối
hoạt động.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài thực
hành lên men láctic.
3.2.2 Hệ thống bộ câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho các bài
giảng thuộc Chương II: Sinh trưởng và sinh sản của vi sinh vật
Câu 1: Trong môi trường tự nhiên (đất, nước), pha lũy thừa có xảy ra không?
Giải thích: Pha lũy thừa xảy ra trong điều kiện vi sinh vật được ổn định vì đầy đủ
thức ăn. Trong môi trường tự nhiên, vi sinh vật phải chịu tác động với điều kiện
ngoại cảnh luôn thay đổi: thành phần chất dinh dưỡng không đủ, sự thay đổi pH,
nhiệt độ… và sự cạnh tranh của các vi sinh vật khác. Vì thế sinh trưởng của vi sinh
vật trong môi trường tự nhiên không thể diễn ra pha lũy thừa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế mục “Sinh
trưởng của quần thể vi sinh vật.

Câu 2: Tại sao nói quá trình tiêu hóa từ dạ dày đến ruột của người là hệ thống nuôi
cấy liên tục đối với vi sinh vật.
Giải thích: Nói tiêu hóa từ dạ dày đến ruột của người là hệ thống nuôi cấy liên tục
vì quá trình này được diễn ra liên tục: dạ dày thường xuyên được bổ sung thức ăn
từ bên ngoài vào đồng thời thường xuyên thải các sản phẩm tiêu hóa ra ngoài, do
đó tương tự như một hệ thống nuôi cấy liên tục.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài “Sinh trưởng của
vi sinh vật” nhằm giúp cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức để giải thích
hiện tượng trong cuộc sống.
Câu 3: Tại sao trong đường ruột của cơ thể người giàu chất dinh dưỡng nhưng các
vi khuẩn không thể sinh sản với tốc độ cực đại?
Giải thích: Trong đường ruột người có nhiều loại vi sinh vật khác nhau, chúng
cạnh tranh chất dinh dưỡng đồng thời tiết ra các chất kìm hãm nhau.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “Sinh sản
của vi sinh vật”.
Câu 4: Nếu không diệt hết nội bào tử, hộp thịt hộp để lâu ngày sẽ bị phồng, bị biến
dạng,vìsao?
Giải thích Hầu hết các vi khuẩn có hại có thể bị tiêu diệt ở nhiệt độ 60 - 700C hay
12
cao hơn nếu được đun nấu trong ít nhất 10 phút. Các bào tử khó bị tiêu diệt hơn nên
cần khoảng nhiệt độ 100 - 1200C trong ít nhất 10 phút. Thịt đóng hộp nếu không
được diệt khuẩn đúng quy trình, các nội bào tử mọc mầm phát triển và phân giải
các chất, thải ra CO2 và các loại khí khác làm cho hộp thịt bị phồng lên, biến dạng.
Áp dụng: Ngày nay vấn đề “An toàn thực phẩm” trở thành một vấn đề có ảnh
hưởng mang tính toàn cầu. Mục đích vấn đề giúp học sinh biết được nguyên nhân
và tác hại của việc sử dụng thực phẩm không an toàn. Giáo viên có thể đặt vấn đề
này khi dạy tích hợp trong bài “Sinh sản của vi sinh vật”.
Câu 5: Tại sao dưa, cà muối lại bảo quản được lâu?
Giải thích: Khi muối dưa, cà axit lactic do vi khuẩn lác tic tiết ra cùng với nồng độ
muối cao kìm hãm sinh trưởng của các vi khuẩn khác, đặc biệt là vi sinh vật gây

thối rau, quả.
Áp dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì học sinh sẽ
không biết. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài “Ảnh hưởng của
các yếu tố hóa học đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
Câu 6: Tại sao phải bảo quản thực phẩm ở nhiệt độ thấp?
Giải thích: Mục đích của việc bảo quản thực phẩm là giữ cho thực phẩm không bị
vi sinh vật có trên bề mặt thịt, cá (đặc biệt là vi khuẩn ưa nhiệt) xâm nhập làm hỏng
thực phẩm bằng cách tạo điều kiện không thuận lợi (nhiệt độ thấp) để ức chế sự
phát triển của vi sinh vật.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “Ảnh
hưởng của các yếu tố vật lí đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
Câu 7: Tại sao muốn bảo quản thịt, cá người ta có thể bảo quản bằng cách ướp
muối?
Giải thích: Khi ướp muối làm tăng áp suất thẩm thấu, rút nước trong tế bào vi
khuẩn là tác nhân gây hỏng thịt, cá và làm cho tế bào đó chết.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “Ảnh
hưởng của các yếu tố vật lí đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
Câu 8: Vì sao trong sữa chua hầu như không có vi sinh vật gây bệnh?
Giải thích: Trong sữa chua lên men tốt (lên men đồng hình) chứa rất nhiều vi
khuẩn lactic, chúng tạo ra môi trường axit (pH thấp) ức chế hầu như mọi loại vi
sinh vật gây bệnh (vì những VSV này quen sống trong môi trường pH trung tính).
Do đó trong sữa chua hầu như không có vi sinh vật gây bệnh. Có thể nói sữa chua
là loại thực phẩm vừa bổ dưỡng, vừa vô trùng.
Áp dụng: Đây là các câu hỏi nhằm kích thích tính tò mò của học sinh. Học sinh
không lạ gì với hiện tượng trên nhưng để giải thích thì không phải dễ. Giáo viên có
13
thể nêu vấn đề trên sau khi dạy xong mục bài : “Ảnh hưởng của các yếu tố vật lí
đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
Câu 9: Người ta thường quảng cáo trên ti vi xà phòng thơm diệt được 90% vi
khuẩn có đúng không?

Giải thích: Xà phòng không phải là chất diệt khuẩn mà chi loại khuẩn nhờ bọt và
khi rửa vi sinh vật bị rửa trôi. Do đó thông tin quảng cáo trên chỉ mang tính chất
quảng bá.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “Ảnh
hưởng của các yếu tố hóa học đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
Câu 10: Tại sao cá biển giữ trong tủ lạnh dễ bị hư hỏng hơn cá sông?
Giải thích: Vi khuẩn biển thuộc nhóm ưa lạnh, nên trong tủ lạnh chúng vẫn hoạt
động gây hỏng cá.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “Ảnh
hưởng của các yếu tố vật lí đến sinh trưởng của vi sinh vật”.
3.2.3 Hệ thống bộ câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho các bài
giảng thuộc Chương III: Virut và bệnh truyền nhiễm.
Câu 1: Tại sao mỗi loại vi rút chỉ có thể nhiễm vào một loại tế bào nhất định?
Giải thích: Trên bề mặt tế bào có các thụ thể dành riêng chomỗi loại virut đo là
tính đặc hiệu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề hoặc liên hệ thực
tế bài “Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ”.
Câu 2: Thế nào là bệnh cơ hội và vi sinh vật gây bệnh cơ hội?
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề hoặc liên hệ thực
tế mục II, bài “Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ”.
Giải thích:
- Một số vi sinh vật ở điều kiện bình thường thì không gây bệnh nhưng khi cơ thể
bị suy yếu hoặc hệ thống miễn dịch bị suy giảm thì chúng lại trở thành tác nhân
gây bệnh. Những vi sinh vật đó được gọi là vi sinh vật cơ hội, bệnh do chúng gây
ra gọi là bệnh cơ hội.
- Hiện nay nhiễm HIV/AIDS được coi là bệnh đại dịch toàn cầu, AIDS là giai đoạn
cuối của quá trình nhiễm HIV. Tuy nhiên, người bị nhiễm HIV không phải bị chết
vì virut HIV mà do các bệnh cơ hội khi hệ thống miễn dịch của cơ thể bị suy giảm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề hoặc liên hệ thực
tế mục II, bài “Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ”.

14
Câu 3: Tại sao nói HIV gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải?
Giải thích:
- Hệ miễn dịch là hệ thống phòng ngự bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh từ
ngoài xâm nhập vào cơ thể, suy giảm miễn dịch là tình trạng hệ miễn dịch trở nên
yếu, giảm hoặc không có khả năng chống lại sự tấn công của các tác nhân gây
bệnh. Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải là sự suy giảm hệ thống miễn dịch
của cơ thể không phải do nguyên nhân di truyền mà do bị lây nhiễm bởi các tác
nhân trong cuộc sống.
- Virut HIV có khả năng gây nhiễm và phá hủy một số tế bào của hệ thống miễn
dịch trong đó có tế bào Limpo T-CD4, sự giảm số lượng các tế bào này làm mất
khả năng miễn dịch của cơ thể. Vì vậy, HIV chính là một tác nhân gây hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải.
Câu 4: Thuốc trừ sâu sinh học có chứa virut dựa trên cơ sở khoa học nào?
Giải thích: Một số loại virut kí sinh và gây bệnh cho côn trùng cũng như một số
vi sinh vật gây hại cho cây trồng. Do có tính đặc hiệu cao nên một số loại virut chỉ
gây hại cho một số sâu bệnh nhất định mà không gây độc cho người, động vật và
côn trùng có ích. Nhờ tính chất này mà một số loại virut được sử dụng để sản xuất
các chế phẩm sinh học có tác dụng như những thuốc trừ sâu để tiêu diệt sâu bệnh,
bảo vệ mùa màng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề hoặc liên hệ thực
tế mục “Ứng dụng của virut trong thực tiễn”.
Câu 5: Tại sao virut kí sinh trên thực vật không có khả năng tự nhiễm vào tế bào
thực vật mà phải nhờ côn trùng hoặc qua các vết xước?
Giải thích: Virut kí sinh trên thực vật không có khả năng tự nhiễm vào tế bào
thực vật mà phải nhờ côn trùng hoặc qua các vết xước, bởi vì: thành tế bào thực vật
dày và không có thụ thể nên đa số virut xâm nhập vào tế bào thực vật nhờ côn
trùng (chúng ăn lá, hút nhựa cây bị bệnh rồi truyền sang cây lành); một số virut
khác xâm nhập qua các vết xước.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề hoặc liên hệ thực

tế bài “ Viruts gây bệnh và ứng dụng của virut trong thực tiễn”.
Câu 6: Lấy ví dụ về một số bệnh truyền nhiễm do vi sinh vật gây ra trên cơ thể
con người?
Giảithích:
- Bệnh cúm do virut cúm gây ra, lây truyền qua đường hô hấp.
- Bệnh AIDS do virut HIV gây nên, lây truyền qua đường máu, đường tình dục
hoặctruyền từ mẹ sang con.
- Bệnh tả, lị do vi khuẩn gây ra, lây truyền qua đường tiêu hóa.
15
- Bệnh quai bị là bệnh do virus quai bị gây ra, lây truyền chủ yếu do các chất tiết
của đường hô hấp
- Bệnh lao do vi khuẩn lao gây ra, lây truyền qua đường hô hấp.
Câu 7: Dựa vào con đường lây nhiễm muốn phòng tránh bệnh do virut thì phải
thực hiện biện pháp gì?
Giải thích: phòng tránh bệnh do virut: Tiêm phòng vacxin; kiểm soát vật trung
gian truyền bệnh; vệ sinh cá nhân và môi trường sống.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “ Bệnh
truyền nhiễm và miễn dịch”.
Câu 8: Tại sao trẻ em chỉ bị quai bị hay lên sởi một lần còn cúm thì bị mắc lại
nhiều lần.
Giải thích: Khi trẻ bị quai bị hay lên sởi cơ thể sẽ tiết ra một loại kháng thể đặc
hiệu để đáp lại sự xâm nhập của kháng nguyên gây bệnh quai bị hoặc sởi.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế bài “ Bệnh
truyền nhiễm và miễn dịch”.
Câu 9: Có một thời gian ở vùng trồng vải thiều, trẻ em hay bị viêm não và người ta
đổ cho vãi thiều. Em có ý kiến gì về điều này?
Giải thích: Vải thiều không phải là ổ chứa virut gây bệnh, mà khi vải chín có một
loài chim và côn trùng ăn, những loài này mang virut. Muỗi hút máu của những
loài này rồi đốt vào người mới gây bệnh.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế mục vi rút gây

bệnh bài “ Vi rút gây bệnh, ứng dụng”.
4. Kết quả cụ thể:
4.1.Trước khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát chất lượng giữa học kì I
Lớp
Tổng
số
học
sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
10A1 40 8 20 15 37,5 14 35 3 7,5 0 0
10A2 42 5 11,5 10 24 23 55 4 9,5 0 0
10A3 45 4 9 12 27 23 51 6 13 0 0
Tổng 127 17 13 37 29 60 47 13 11
16
4.2.Sau khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát chất lượng học kì I
Lớp
Tổng
số
học
sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
10A1 40 10 25 16 40 12 30 2 5
10A2 42 6 14 15 36 18 43 3 7
10A3 45 7 16 14 31 20 44 4 9
Tổng 127 23 18 45 35 50 39 9 8
Kết quả khảo sát chất lượng giữa học kì II

Lớp
Tổng
số
học
sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
10A1 40 12 30 18 45 9 22,5 1 2,5
10A2 42 8 19 18 43 14 33 2 5
10A3 45 9 20 16 36 17 37 3 7
Tổng 127 29 23 52 41 37 29 6 7
* Nhận xét:
Sau thời gian áp dụng phương pháp mới, kết quả đạt được (giữa học kì II) như
sau:
- Tỉ lệ học sinh giỏi từ 13% lên 23%, tăng 10%
- Tỉ lệ học sinh khá từ 29% lên 41%, tăng 12%
- Tỉ lệ học sinh trung bình từ 47% xuống 29%, giảm 18%
- Tỉ lệ học sinh yếu từ 11% xuống 7%, giảm 4%
5.Tự đánh giá:
Đề tài có tính khả thi, do các kiến thức gắn với thực tiễn bộ môn mang tính
ứng dụng cao nên tạo cho học sinh cảm giác gần gũi, thoải mái hơn trong giờ học,
17
phát huy được tính sáng tạo của học sinh, kích thích học sinh suy nghĩ tích cực hơn,
tăng khả năng tư duy của học sinh và rèn kỹ năng sống theo một hệ thống logic.
Mặt khác, trong quá trình giảng dạy, việc sử dụng câu hỏi găn với thực tiễn
cuộc sống kết hợp linh hoạt với nhiều phương pháp học khác sẽ tạo hứng thú trong
giờ học, phát huy tính chủ động, tìm tòi của học sinh sẽ giúp học sinh ghi nhớ bài
nhanh hơn và tiết kiệm thời gian trong quá trình ôn tập và củng cố kiến thức.
C. KẾT LUẬN:
1. Kết quả nghiên cứu:

Như vậy, đổi mới dạy và học hiện nay là hướng tới học tập chủ động, tích cực,
tự tòm tòi, chống thói quen học tập thụ động. Các phương pháp tích cực hướng tới
việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học phải gắn liền
với giá trị thực tiễn của nôi dung bài học. Đó là nhu cầu cũng là xu hướng của giáo
dục thời hội nhập để rèn luyện cho học sinh khả năng tự lực, nhạy bén trong cuộc
sống bao gồm các kĩ năng đặc trưng chung là : Khả năng liên hệ thực tế các vấn đề
học tập vào cuộc sống. Khả năng tự học, khả năng tổ chức các hoạt động học tập
của học sinh. Tăng cường học tập cá nhân phối hợp với học tập hợp tác. Áp dụng
các hiện tượng thực tiễn phải biết lựa chọn đúng nội dung bài, thời gian hợp lí
trong giờ học mới cuốn hút sự chú ý, tập trung của học sinh tạo không khí thoải
mái trong tiết học, mới tạo được ý thức học tập và yêu thích bộ môn. Khi tôi chưa
áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích bộ môn sinh học rất ít. Từ đó dẫn đến
kết quả học tập của học sinh cũng rất thấp.
Sau khi tôi áp dụng phương pháp dạy học tích cực lồng ghép các hiện tượng thực
tiễn vào bài giảng thì tỉ lệ học sinh thích học bộ môn tăng lên rõ rệt thông qua chất
lượng học tập bộ môn này được nâng cao. Thông qua kết quả thực tế đã đạt được
cho thấy chất lượng từ trung bình trở lên của bộ môn được nâng cao khá rõ( từ 89%
lên 93%, tăng 4%), trong đó tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng cao, tỉ lệ học sinh yếu
giảm nhiều.
Đa số học sinh hứng thú trong quá trình học tập, học sinh ý thức được tầm
quan trọng của việc xác định được nội dung trọng tâm trong bài học và vận dụng
kiến thức đó để giải thích các sự vật, hiện tượng gắn với cuộc sống hàng ngày, qua
đó học sinh dễ dàng tiếp thu và ghi nhớ kiến thức được lâu hơn và tiết kiệm được
nhiều thời gian ôn tập.
2. Đề xuất:
Qua thực nghiệm tôi thấy rằng sử dụng “Các kiến thức thực tiễn gắn với bộ môn
sinh hoc phần Vi sinh vật- sinh học 10” trong dạy học tích cực tạo hứng thú cho
học sinh là khả thi, đảm bảo hình thành kiến thức vững chắc, rèn luyện năng lực
nhận thức, thái độ yêu thích bộ môn và phương pháp tự học của học sinh. Vì vậy
18

tôi hi vọng phương pháp này sẽ được nghiên cứu kĩ hơn và được áp dụng rộng dãi.
Phương pháp này khi sử dụng đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị công phu, hiểu biết
rộng phải nắm vững kiến thức. Do đó cần tăng cường bồi dưỡng chuẩn hoá giáo
viên.
Do điều kiện thời gian ngắn, tôi chỉ mong góp một ý kiến nhỏ của mình tích
luỹ được trong quá trình giảng dạy ở trường phổ thông. Với tâm huyết và tấm lòng
của mình tôi muốn đóng góp cho công việc dạy học một đề tài nhỏ để nâng cao
hiệu quả dạy học. Chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, hạn chế, rất mong được sự chỉ
dẫn, góp ý và đồng cảm của đồng nghiệp và bạn đọc để kinh nghiệm của tôi được
hoàn thiện hơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị: Tôi xin cam đoan SKKN này là do tôi
viết, không sao chép của người khác.
Người viết
Trịnh Bá Hưng
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Sinh học 10 –Nguyễn Thành Đạt (tổng chủ biên) –NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên Sinh học 10 –Nguyễn Thành Đạt (tổng chủ biên) –NXB Giáo dục.
3. Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi trung học phổ thông môn sinh học
–Vũ Đức Lưu (chủ biên) –NXB GD 2004.
4. Thiết kế bài giảng sinh học 10 –Nguyễn Quang Vinh –Nguyễn Thị Dung
–Nguyễn Đức Thành –NXB GD 2006
5. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông -
Môn Sinh học Lớp 10 (Cấp THPT) – Ngô Văn Hưng (Chủ biên) – Lê Hồng Điệp –
Nguyễn Thị Hồng Liên – NXB GD 2009
6. Hỏi đáp sinh học- Trần Ngọc Oanh ( Nhà xuất bản Giáo dục, 2006)
20

×