Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

ÔN TẬP MÔN VĂN TRUNG ĐẠI LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.58 KB, 26 trang )

Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN VĂN TRUYỆN TRUNG ĐẠI
Chuyện người con gái Nam Xương
1. Tác giả: Nguyễn Dữ, chưa rõ năm sinh, năm mất, là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Quê ở huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông sống ở thế kỷ
XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê,
Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng tài
cao nhưng chỉ làm quan 1 năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già và viết sách, sống ẩn dật
như nhiều tri thức đương thời khác.
2. Nguồn gốc, xuất xứ “Chuyện người con gái Nam Xương”: thuộc tác phẩm “Truyền kỳ
mạn lục” được viết ở thế kỷ XVI dựa trên chuyện kể dân gian “Vợ chàng Trương”
3. Ý nghĩa nhan đề “Truyền kỳ mạn lục”
- Truyền kỳ mạn lục là ghi chép tản mạn những chuyện kỳ lạ được lưu truyền trong dân
gian.
- Tác phẩm viết bằng chữ Hán, khai thác truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử,
dã sủ của Việt Nam.
- Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên
bình, hạnh phúc nhưng cá thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những
cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh. Một loại nhân vật khác là những người trí thức có tâm
huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp.
4. Tóm tắt truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”
Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, đẹp người đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà
giàu, ít học, có tính đa nghi hay ghen. Gia đình đang êm ấm hạnh phúc thì Trương Sinh
phải đi lính. Vũ Nương ở nhà, sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng chăm sóc mẹ chồng, lo
thuốc thang, cầu khấn thần phật khi mẹ chồng ốm, lo ma chay chu tất khi mẹ chồng mất.
Trương Sinh trở về, tin lời con trẻ, nghi ngờ vợ phản bội. Vũ Nương không minh oan
được bèn trẫm mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng không chết vì được các nàng
tiên dưới nước cứu. Tình cờ, nàng gặp lại Phan Lang- người cùng làng cũng được cứu
sống. Nghe Phan Lang kể chuyện mà Vũ Nương rơm rớm nước mắt muốn trở về dương
gian. Về làng, Phan Lang đem kể chuyện với Trương Sinh. Trương Sinh lập đàn giải oan.
Vũ Nương trở về lộng lẫy, rực rỡ giữa dòng nói lời tạ từ rồi biến mất.


5. Ý nghĩa của chi tiết cái bóng:
- Đối với Vũ Nương: Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn
con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm nàng chỉ bóng mình trên tường, nói dối
con đó là cha nó. Lời nói dối của Vũ Nương với mục đích hoàn toàn tốt đẹp.
- Đối với bé Đản: Mới 3 tuổi, còn ngây thơ, chưa hiêu biết được những điều phức tạp nên
đã tin có người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi và không bao
giờ bế nó.
- Đối với Trương Sinh: Lời nói của bé Đản về một người cha khác (chính là cái bóng) đã
nảy sinh sự nghi ngờ vợ không chung thủy, ghen tuông, lấy đó làm bằng chứng để mắng
nhiếc, đánh đuổi vợ đi khiến Vũ Nương pải tìm đến cái chết oan ức.
 Cái bóng là chi tiết thắt nút, mở nút câu chuyện. Chiếc bóng là vật vô tri nhưng chính nó
là nguồn an ủi nỗi niềm xa cha của bé Đản. Nó đã mở ra sự ghen tuông trong lòng
Trương sinh, mang lại sự khổ đau vì bị nghi ngờ cho Vũ Nương. Chàng Trương sau này
1
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái bóng của chàng trên tường được bé Đản gọi
là cha. Bao nhiêu nghi ngờ của Trương Sinh, oan ức của Vũ Nương đều được hóa giải
nhờ cái bóng.
 Cái bóng làm cho cái chết của Vũ Nương thêm phần oan ức, nó có giá trị tố cáo xã hội
phong kiến với chế độ nam quyền đầy bất công với người phụ nữ.
6. Liên kê các yếu tố kì ảo? Nêu ý nghĩa?
• Các yếu tố kỳ ảo (cuối truyện):
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa được Linh Phi cứu, gặp Vũ Nương ở dưới thủy
cung rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương ở dưới thủy cung, hiện về trong lễ giải oan ở bến Hoàng Gian lung linh, huyền
ảo rồi biến mất.
• Ý nghĩa
- Các yếu tố kỳ ảo đan xen với yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng),
về thời điểm lịch sử (cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình), sự

kiện lịch sủ (quân Minh xâm lược nước ta, nhiều người chạy trốn ra bể rồi bị đắm
thuyền), những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân (quần áo thướt tha, mái tóc
búi xễ), về tình cảnh nhà Vũ Nương không ai chăm sóc sau khi nàng mất (cây cối thành
rừng, cỏ gai rợp mắt),…làm cho thế giới kỳ ảo, lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với đời
thực, tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.
- Nó như khúc vĩ thanh trong bản nhạc để ngân lên những ước mơ ngàn đời của nhân dân
ta về sự công bằng: người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng được minh
oan.
- Nhờ đoạn vĩ thanh truyền kì này, tác phẩm vợi đi phần nào âm hưởng bi thương,tạo một
kết thúc có hậu, giảm độ căng thẳng, đánh thức trong lòng người đọc những niềm tin,
những mong muốn tươi đẹp lạc quan.
- Làm cho câu chuyện ly kì, hấp dẫn
- Hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương. Mặc dù nàng đã ở thế giới khác nhưng
vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát phục hồi
danh dự.
- Khẳng định tài năng và tấm lòng của Nguyễn Dữ.
7. Nguyên nhân dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương. Nêu cảm nhận của em về
thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
• Nguyên nhân dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương
- Cuộc hôn nhân không bình đẳng
- Chiến tranh phong kiến dẫn đến sự xa cách
- Trương Sinh đa nghi, ít học, cư xử hồ đồ độc đoán ( là nguyên nhân chính đẩy Vũ Nương
đến cái chết. Người chồng đáng trách ấy đã bức tử người vợ thủy chung của mình)
- Lời nói ngây thơ của bé Đản
- Hạnh phúc gia đình tan vỡ
- Xã hội phong kiến, chế độ nam quyền độc đoán
- Lời nói dối với mục đích hoàn toàn tốt đẹp của Vũ Nương
2
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
• Cảm nhận của em về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến

Xã hội Việt Nam thế kỉ XVI kéo dài cuộc chiến tranh phe phái, mâu thuẫn đã gây nên bao
cảnh mịt mù,đau thương .,các nhà văn nhân đạo đều xót xa , trân trọng và tập trung viết về
họ- người phụ nữ . Có rất nhiều tác phẩm được viết về đề tài này như là "Truyện Kiều" của
Nguyễn Du hay “ chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “Bánh trôi nước” của
Hồ Xuân Hương. Đó đều là những tác phẩm khiến người đọc phải não nùng , búc xúc mỗi
khi giở lại. Nguyễn Du đã từng thống thiết kêu lên:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Có lẽ đây là một lời nhận xét rất đúng về thân phận bèo bạt của những người phụ nữ
xưa.Trong chuyện “truyền kì mạn lục” “ chuyện người con gái Nam Xương “ của Nguyễn
Dữ thì “ Vũ Nương” hiện ra là 1 cô gái đẹp người đẹp nết, có “ tư dung tốt đẹp”. Và quả
thật, nàng là người phụ nữ mang những nét đẹp truyền thống của Việt Nam: là người vợ thủy
chung, luôn biết chăm lo cho hạnh phúc gia đình, là người mẹ hiền, là con dâu hiếu thảo và
vô cùng trọng tình trọng nghĩa.Còn trong "Truyện Kiều", Vương Thúy Kiều là một cô gái tài
sắc vẹn toàn, một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, tài năng lý tưởng: đủ cả cầm, kỳ, thi,
họa, cô gái trong Bánh trôi nước : được miêu tả với những nét đẹp hình hài thật chân thực,
trong sáng : “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Miêu tả bánh trôi nước nhưng lại dùng từ
thân em khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh nước da trắng và tấm thân tròn đầy đặn,
khoẻ mạnh của người thiếu nữ mơn mởn sức sống. Cô gái ấy dù trải qua bao thăng trầm bảy
nổi ba chìm vẫn giữ tấm lòng son. Sự son sắt hay tấm lòng trong sáng không bị vẩn đục cuộc
đời đã khiến cô gái không chỉ đẹp vẻ bên ngoài mà còn quyến rũ hơn nhờ phẩm chất của tấm
lòng son luôn toả rạng. Họ đều là những người phụ nữ đẹp người đẹp nết, thủy chung son
sắt, công dung ngôn hạnh, cần cù, tần tảo, giàu lòng yêu thương, giàu đức hy sinh. Họ chính
là nhịp cầu hạnh phúc,ngọn gió mát cho gia đình mỗi ngày hè nóng bức,là ngọn lửa ấm áp
trong những ngày đông giá rét. Thế nhưng ba người phụ nữ ấy đều phải chịu bao vất vả, gian
truân với cuộc đời, bao nỗi oan khổ vô bờ và cả cuộc sống bấp bênh, phụ thuộc. Họ không
có quyền được hưởng cuộc sống hạnh phúc, luôn sống phụ thuộc vào chồng, vào cha, vào xã
hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán. Họ không làm chủ được cuộc đời của mình.
Tục ngữ có câu " Gái có công thì chông chẳng phụ " thế nhưng công lao của Vũ Nương
chắng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của

số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất
đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình
được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho
Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã
tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi
ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ
Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người. Không chỉ Vũ Nương, số phận của
Thúy Kiều còn lênh đênh hơn nhiều Vũ Nương . Lần này , dưới chế độ đồng tiền hôi tanh
đen bạc. Nó đã tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp . Chỉ vì tiền mà bọn
sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều.Để có tiền cứu cha và em trai của
mình , nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán người.
3
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong . đo đếm , cò ke, ngã giá Và từ
tay Mà Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà , mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu.
Là một người con gái xinh đẹp , tài năng, và đã sinh trưởng trong 1 gia đình trung lưu, lương
thiện gia giáo , dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu
xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết
nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở khanh lừa nàng , buộc
nàng trở thành 1 cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận
dấn thân vào cuộc sống ô nhục .Đau đớn thay !! Từ một cô gái trong trắng , đức hạnh, nàng
đã trở thành 1 món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không
chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh , bèo dạt , mây trôi và lưu lạc 15 năm
trời , đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu. Trong bài “Bánh trôi nước”, người phụ nữ
sống với thân phận
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Chỉ bằng mấy câu thơ ngắn ngủi nhưng Hồ Xuân Hương đã viết đủ để người đọc hình dung
ra số phận oan nghiệt của người phụ nữ lúc bấy giờ, cuộc sống lênh đênh, bấp bênh, phụ
thuộc, không có quyền tự quyết định cuộc đời của mình. Mặc dù phải trải qua bao khó khăn,

tủi nhục nhưng “mà em vẫn giữ tấm lòng son”, cả người phụ nữ trong “Bánh trôi nước”,
Thúy Kiều hay Vũ Nương đều có khát vọng vươn lên, khát vọng sống yên bình và cố gắng
hết sức trong cuộc sống khắc nghiệt. Bi kịch của họ là là một lời tố cáo xã hội phong kiến
xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm
cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức
hạnh ở đây không những không được bệnh vực, chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất
công, vô lý. vì thế em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay: xã
hội nam nữ bình đẳng, người phụ nữ đã thật sự làm chủ đời mình, làm chủ quê hương đất
nước mình.
8. Câu chuyện kết thúc có hậu nhưng có làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện
không? Tại sao
Câu chuyện kết thúc có hậu nhưng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện vì sự trở
về và những lời thoại của Vũ Nương chỉ là ảo ảnh. Nó là dịu bớt nỗi đau, an ủi cho những
người bạc phận nhưng thực sự người chết không thể sống lại. Nàng và chồng con vẫn
chia lìa âm dương đôi ngả. Hạnh phúc thực sự của gia đình không còn có thể làm lại
được. Và chàng Trương vẫn phải trả giá cho hành động phũ phàng của mình: sống day
dứt, dằn vặt, cô độc. Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kì ảo
này. Và điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi
thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
9. Nhân vật Vũ Nương : đẹp người, đẹp nết nhưng phải chịu nỗi oan khuất vô bờ vì
chồng đa nghi thô bạo
Vũ Nương vốn là một người vợ hiền, người mẹ yêu con và con dâu hiếu thảo, đẹp người
đẹp cả nết đáng lẽ phải được sống hạnh phúc,yên ấm bên chồng con nhưng nàng lại phải
chịu nỗi oan vô bờ vì có một người chồng đa nghi thô bạo. Nếu Vũ Nương là nhân vật có
nhiều nét đẹp thì Trương Sinh là một hình ảnh của con người mang nhiều tính xấu. Ngay vào
4
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
đầu câu chuyện, nhà văn đã kể: “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”…
“ Tuy là con hào phú nhưng không có học”. Nhân vật hiện lên với nét phác thảo như thế
cũng đủ bộc lộ tính cách con người. Sau ba năm ở quân ngũ trở về, tính cách của Trương

Sinh bộc lộ rõ dần. Vừa về tới nhà biết mẹ đã qua đời, Trương Sinh mang tâm trạng nặng nề.
Chàng nói “mẹ đã qua đời, con vừa học nói… Cha về, bà mát, lòng cha buồn khổ lắm rồi.”
Nỗi lòng ấy của Trương Sinh đáng được thông cảm. Nếu là người giàu tình thương, biết
thương mẹ, thương con, hẳn chàng cũng biết thương vợ và cảm thông những nỗi vất vả của
vợ trong ba năm mình xa nhà. Nhưng éo le thay, chàng phải đối mặt với sự việc không bình
thường. Đó là câu chuyện của hai cha con khi viếng mộ bà mẹ. Lời của đứa trẻ lên ba hồn
nhiên, ngây thơ đã kích động tính đa nghi, thói ghen tuông trong lòng Trương Sinh. Lời nói
được tách làm hai phần nêu nhưng thông tin mập mờ, đáng suy nghĩ. “Thế ra ông cũng là
cha tôi ư?”. Thoạt đầu đứa trẻ ngạc nhiên thấy mình có hai người cha, một người cha cũ và
một người cha mới. Sau đó đứa trẻ kể về người cha mà nó từng biết. Đó là một người “chỉ
nín thin thít…một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi, không bao giờ bế Đản cả.” Chao ôi, toàn là những dữ liệu đáng ngờ! Tuy chỉ là lời thỏ
thẻ của đứa trẻ lên ba nhưng nó rất chân thật. Tục ngữ cổ xưa từng đúc rút kinh nghiệm “Đi
hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Thế là vốn sẵn tính đa nghi hay ghen, lại đang trong tâm trạng buồn
khổ, Trương Sinh đã “đinh ninh là vợ hư”. Chàng “đinh ninh” nghĩa là đã khẳng định điều
mình nghe được là chính xác, khẳng định rằng vợ mình không chung thủy, đã phản bội
mình. Đó là cách suy nghĩ vội vàng, một chiều của con người vốn độc đoán. Từ sự suy nghĩ
ấy, Trương Sinh đã xử sự hồ đồ. Chàng không bình tĩnh để phán đoán, phân tích lời đứa con
nói, cũng không thẳng thắn, hỏi han, hoặc chất vấn, thậm chí có thể theo dõi hành động, thái
độ của vợ…. Trái lại, chàng đã không chịu nghe nhưng lời phân trần của vợ, không tin cả
nhưng người họ hàng bênh vực cho nàng, cũng không để cho vợ có cơ hội giã bày, giảng
giải, minh oan. Nút của câu chuyện mỗi lúc thêm căng thẳng. Đỉnh điểm là thái độ và hành
động của Trương Sinh. Chàng trở thành kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc và đánh đuổi nàng
đi”. Thế là bi kịch xảy ra. Vũ Nương bị đẩy đến cái chết oan nghiệt. Trong nguyên nhân của
cái chết ấy có bàn tay của Trương SInh. Chàng chính là người đã bức tử người vợ đáng yêu,
đáng quý của mình. Chỉ đến khi còn lại hai cha con vò võ một mình, đối mặt với cái bóng
của chính mình- cái bóng oan khiên, chàng mới thấu tỏ nỗi oan tình của vợ. Hạnh phúc đã
tan vỡ. Lỗi lầm của chàng không sao sửa nổi. Như vậy, nhân vật Trương Sinh tiêu biểu cho
những người đàn ông nặng tư tưởng phụ quyền trong xã hội phong kiến xưa, cũng là biểu
tượng cho tất cả những ai trong cõi đời này mang thói ghen tuông vô cớ, sống không có

niềm tin, lại vũ phu, tàn nhẫn. Nhân vật có ý nghĩa phê phán nghiêm khắc xã hội đồng thời
cảnh tỉnh con người trong cuộc sống xưa cũng như ngày nay.
10.( tự thêm) Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ là một nhà văn lỗi lạc ở thế kỉ XVI, học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông
học rộng tài cao nhưng sống trong thời kỳ xã hội phong kiến có nhiều rối ren, đen tối nên
ngòi bút của ông hướng về hiện thực: những người phụ nữ với số phận bất hạnh, truân
truyên. Ông đã để lại cho đời sự nghiệp văn chương đồ sộ. Tiêu biểu là “Chuyện người con
gái Nam Xương”. Tác phẩm này nằm trong tập “truyền kỳ mạn lục” được viết dựa trên lịch
sử, dã sử, truyện dân gian. Qua tác phẩm ấy, Nguyễn Dữ đã ca ngợi vẻ đẹp trong tính cách
cảu Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái thùy mị, nết ta, tư dung tốt đẹp.
5
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Trước hết, ta thấy Vũ Nương là một người vợ thủy chung. Khi mới về nhà chồng, nàng đã
thấu hiểu rõ Trương Sinh có tính đa nghi, hay ghen, đối với vợ phòng ngừa quá sức nên
nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, cư xử dịu dàng, đúng mực để cuộc sống vợ chồng chưa
từng xảy ra thất hòa. Nàng vốn tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng không được sống
cảnh hạnh phúc gia đình yên ấm lâu dài. Nước nhà có biến, vợ chồng nàng phải tạm xa nhau.
Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót chén rượu đầy, nói những lời ngọt ngào nồng đượm một tình
yêu chung thủy. Vũ Nương không trông mong vinh hiển mà chỉ cần chồng được bình yên trở
về: “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.” Như vậy, điều mơ ước
lớn lao nhất của Vũ Nương không phải là danh vọng mà là một cuộc sống gia đình yên ấm.
Biết Trương Sinh phải dấn thân nơi trận mạc,nàng xót thương, lo lắng, cảm thông trước
những nỗi vất vả, gian lao, hiểm nguy mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó
liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Mà thế trẻ che
chưa có, mùa dưa thì đã chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băng khoăn, mẹ hiền lo lắng.”Còn
phận người vợ ở nhà, Vũ Nương bày tỏ nỗi khắc khoải, nhớ nhung da diết bằng những lời
nói ân tình, nghe mà không khỏi xúc động: “Nhìn trăng soi thành đường cũ, sửa soạn áo rét
gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có
thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong khi chồng đi lính, nàng

nhớ chồng da diết, nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian. Nàng
vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, thương và đau buồn cho chính mình phải cô đơn vò võ.
Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”- cảnh mùa xuân vui tươi hay “mây che kín núi”- cảnh
mùa đông ảm đạm thì “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng luôn thấy
hình bóng chồng bên mình như hình với bóng, vì vậy đã chỉ bóng mình trên tường bảo con
đó là cha nó. Nhờ chi tiết cái bóng, ta còn cảm nhận được Vũ Nương là người phụ nữ khao
khát hạnh phúc gia đình.Nàng luôn thủy chung, luôn thương nhớ chồng. Sự thủy chung ấy
còn được biểu hiện rõ rệt khi bị nghi oan. Nàng nhẫn nhục, cố gắng hàn gắn tình cảm vợ
chồng đang có nguy cơ tan vỡ. Nàng nói về thân phận mình “vốn con kẻ khó được nương
tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt
của mình: “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ
liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”, phân trần để
chồng hiểu rõ tấm lòng mình, hạ mình, cầu xin chồng đừng nghi oan “Dám xin bày tỏ để cởi
mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Không chỉ vậy, nàng còn nói
lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị “mắc nhiếc và đánh
đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và
biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình “Thú vui nghi gia nghi thất”, niềm tự hào khao khát cả
đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi tram gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong
ao, liễu tàn trước gió…”, cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể
làm lại được nữa “đâu có thể còn lên núi Vọng Phu kia nữa.” Khi sống ở dưới thủy cung, Vũ
Nương vẫn nặng tình với quê hương, với chồng con. Vậy nên khi nghe Phan Lang kể chuyện
về chồng con, nàng rơm rớm nước mắt muốn được trở về gia đình.
Trong lúc chồng đi vắng, phẩm chất hiếu thảo với mẹ chồng đã được bộc lộ ở Vũ Nương.
Nàng thay chồng chăm lo săn sóc mẹ chồng chu đáo. Khi mẹ đau yếu, nàng hết sức thuốc
thang, lễ bái thần phật va lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Tình yêu thương chân
6
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
thành và việc làm nhân hậu ấy của Vũ Nương đã kiến mẹ chồng vô cùng mến thương, cảm
động, Trước khi qua đời, cụ đã trăng trối lại với nàng rằng: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết
sống chết thế nào không thể về đền ơn con được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc

đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con
đã chẳng phụ mẹ…” Những lời nói chân tình của bà mẹ chồng đã chứng minh tình nghĩa mẹ
chồng- nàng dâu của Vũ Nương tốt đẹp biết bao, vượt lên trên thói đời. Câu nói: “xanh kia
quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ” là lời đánh giá khách quan nhân cách
và công lao của Vũ Nương với gia đình chồng, đã khẳng định tấm lòng hiếu thảo hết mức
của nàng. Lời trăng trối ấy như tạc vào không gian, thời gian, dương gian hình ảnh một
nàng dâu hiếu thảo.
Vũ Nương là một người mẹ yêu thương con vô bờ. Trong lúc chàng Trương bận dẹp giặc
ngoài biên ải, Vũ Nương một mình lo toan mọi việc. Nàng một mình sinh con, nuôi con, dạy
dỗ, chăm sóc, yêu thương con. Đối với đứa con nhỏ, nàng là sự kết hợp cao quý giữa nghĩa
mẹ, tình cha. Vũ Nương vì thương đứa con nhỏ ngây thơ, tội nghiệp, thiếu vắng người cha
nên hàng đêm nàng chỉ bóng mình trên tường để dỗ dành con đó là cha Đản.
Có thể nói, trong ba tư cách: một người vợ, một người con, một người mẹ , Vũ Nương đã
nêu cao phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam đảm đang, giàu tình thương, thủy chung, vô
cùng nhân hậu, đáng được ngợi ca, đáng được đền ơn đáp nghĩa. Nhưng con người đức hạnh
ấy lại phải chịu nỗi oan tày đình. Cũng từ đó, ta thấy được Vũ Nương là người phụ nữ trọng
nhân phẩm và tình nghĩa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể hàn
gắn nổi, nàng “tắm gội chay sạch, chạy ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng
chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ,
xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”. Nàng đã hiểu được thân phận thân phận của mình là “kẻ
bạc mệnh” có “duyên phận hẩm hiu”, song nàng vẫn khát khao được sống hạnh phúc với
chồng con, mong được minh oan cho tấm lòng thủy chung của mình. Lời than như một lời
thề nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và sự trong sạch của mình. Lời than, lời
thề nguyền ấy thật thống thiết ai oán. Tìm đến cái chết là giải pháp tiêu cực nhưng dường
như đây là cách duy nhất để giải thoát cho Vũ Nương khỏi cuộc đời đầy rẫy bất công. Nàng
đã mất tất cả, bị dồn nén đến đường cùng bắt buộc nàng phải tìm đến cái chết sau mọi cố
gắng không thành. Hành động tự trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối

cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng là có sự chỉ đạo của lý trí.
Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận như trong truyện cổ tích “vợ
chàng Trương”. Với nàng, danh dự còn lớn hơn cả mạng sống. Cái chết của nàng không chỉ
giúp bảo toàn danh dự mà còn phê phán người chồng cả ghen, thiếu niềm tin trong quan hệ
vợ chồng. Đó cũng là một hành động bế tắc, đau khổ của một kiếp người đơn độc theo cách
ứng xử của người xưa.Còn ngày nay, nếu ai đó bị rơi vào hoàn cảnh éo le tương tự, chắc sẽ
không như Vũ Nương, tìm đến cái chết tuyệt vọng mà sẽ bình tĩnh, kiên trì tìm mọi cách
bằng lời nói, bằng việc làm cụ thể,… để tự bảo vệ, minh oan cho mình, chống lại tất cả
nhưng gì bất công, phi lý, độc đoán, nhẫn tâm,… Dù sao thì Vũ Nương người phụ nữ sống
trong xã hội phong kiến ấy cũng rất đáng thương, đáng trọng. Với nàng, không còn con
7
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
đường nào khác. Nàng đã hành động quyết liệt nhất sau bao đắng cay, bao nhiều giãi bày,
đấu tranh và van nài. Nàng coi trọng nhân phẩm nhưng cũng rất coi trọng tình nghĩa. Mặc dù
Trương Sinh có lỗi với nàng, nhưng khi gặp lại, Vũ Nương không hề oán giận mà còn cảm
ơn chàng. Dù nhớ về quê hương nhưng nàng vẫn quyết giữ lời hứa với Linh Phi, ở lại thủy
cung với Linh Phi suốt đời.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát,
thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thỏa, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh
phúc gia đình. Một con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà
lại phải chết một cách oan uổng.
11. (Tự thêm) Giá trị của “Chuyện người con gái Nam Xương”
 Giá trị nội dung
• Giá trị hiện thực:
- Câu chuyện phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền chà
đạp lên số phận người phụ nữ
- Câu chuyện phản ánh chế độ phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa khiến
cuộc sống của người dân rơi vào bế tắc
- Câu chuyện phản ánh số phận con người trong xã hội phong kiến, đặc biệt là số phận
người phụ nữ.

• Giá trị nhân đạo:
- Câu chuyện ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, điển hình là Vũ Nương
- Câu chuyện thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt của người phụ nữ, phản
ánh ước mơ và khát vọng về cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho họ.
- Câu chuyện lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến bất công
 Giá trị nghệ thuật
- tình tiết hấp dẫn,có thắt nút, mở nút
- sử dụng yếu tố truyền kì để làm nổi bật giá trị tác phẩm. cách kể chuyện xen yếu tố
truyền kì và yếu tố thực làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện\
- Lời trần thuật khách quan
- Lời thoại hợp lý, góp phần thể hiện tính cách nhân vật
Hoàng Lê nhất thống chí
1. Tác giả Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (Nay thuộc Hà Nội), trong đó hai tác giả chính là
Ngô Thì Chí (1753-1788) viết 7 hồi đầu và Ngô Thì Du (1772-1840) viết 7 hồi sau, làm
quan dưới triều nhà Nguyễn.
2. Ý nghĩa nhan đề Hoàng Lê nhất thống chí: ghi chép về sự thống nhất của vương triều
nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
3. Tóm tắt: Quân Thanh kéo vào Thăng Long, quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở chỉ huy rút
quân về núi Tam Điệp. Quang Trung lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, tự đốc xuất đại binh
nhằm ngày 25 tháng chạp năm 1788 tiến ra Bắc để diệt Thanh. Dọc đường vua tuyển
8
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
thêm binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn, chia quân làm các đạo chỉ dụ tướng lĩnh, mở tiệc
khao quân vào 30 tháng chạp và hẹn mồng 7 tháng giêng mở tiệc ăn mừng ở Thăng
Long. Đội quân của Quang Trung đánh đến đâu, thắng đến đấy khiến quân Thanh đại bại.
Ngày 3 Tết, quân Tây Sơn chiếm đồn Hạ Hội, Mùng 5 Tết chiếm đồn Ngọc Hồi ròi tiến
thẳng vào Thăng Long. Tướng Thanh là Tôn Sĩnh Nghị vội vã tháo chạy về nước, Lê
Chiêu Thống và gia quyến chạy trốn theo.
4. Hình ảnh Quang Trung

a. Hành động mạnh mẽ và quyết đoán: từ đầu đến cuối đoạn trích , Nguyễn Huệ
luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất
quả quyết. N Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng lớn
ông không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay” Rồi trong vòng chỉ một tháng,
Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “ tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, “ đốc suất đại
binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc
duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế
hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
b.Trí tuệ sáng suốt nhạy bén: - Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế
tương quan chiến lược giữa ta và địch. Lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An khẳng định chủ
quyền dân tộc ta và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái với đạo trời của giặc “đất
nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”; nêu bật dã tâm của giặc “Người phương Bắc không
phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc
nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”; nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính “đồng tân hiệp lực”; ra kỉ luật nghiêm … Lời phủ dụ
có thể xem như bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích
lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
- Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các
tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân “đều mang gươm trên lưng chịu tội”. Người chủ
tướng không phải không hiểu tội danh lớn nhất trong binh pháp phải xử lý thế nào. Đúng ra
thì “quân thua chém tướng”, đó là luật. Nhưng không có luật lệ nào trái được nhân tâm.
Lòng Sở, Lân không phải thế, hơn nữa đó là mưu lược cảu Ngô Thì Nhậm. Lẽ ra bị trừng
phạt nhưng rồi cuối cùng lại được ngợi khen. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các
tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc,… Cách hiểu người và dùng người đến mức
tri kỉ, tri âm như thế không phải người cầm quan nào cũng có được.
c. Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng: Đối với Nguyễn Huệ trước một trận
chiến dường như không cân sức , kẻ thù đông hơn gấp bội , ông dám hẹn ước với các
tướng sĩ của mình “đến ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng.”
Điều đó thể hiện quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược của Nguyễn Huệ. Mới khởi binh
đánh giặc, chưa giành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh

đóng cột “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao
sau khi chiến thắng nước “lớn gấp 10 lần nước mình” để có thể dẹp chuyện binh đao, cho
nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng.
9
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
d. Tài dùng binh như thần(kì tài về quân sự): cuộc hành binh thần tốc do vua Quang
Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất
binh ở phú xuân ( Huế), gần một tuần lễ sau đã ra đến Tam Điệp cách Huế 500 km. Vậy
mà đến đêm 30 tháng chạp lập tức lên đường , tiến quân ra Thăng Long. Tất cả đều đi bộ.
Quang Trung sử dụng biện pháp cáng võng, cứ hai người khiêng thì một người được năm
nghỉ, luân phiên nhau đi suốt ngày đêm, vừa hành quân vừa đánh giặc. Quang Trung
hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức
hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề đó là do
tài chỉ huy của người câm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân
tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.Họ vừa đi vừa
đánh. Thế mà đêm 30 tháng Chạp Mậu Thân (1788) còn ở Tam Điệp, mồng 3 tháng Giêng
năm Kỉ Dạu (1789) đã tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và Thanh Quyết, hơn
một trăm cây số, mà họ chỉ hành quân trong ba ngày. Giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày
mồng 5, đại quân đã dến đồn Ngọc Hồi, vượt qa cả sự kháng cự của đồn này dưới chỉ huy
của thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống. Cùng ngày hôm ấy, đại quân đã tiến đến Thăng
Long. Điều đó có thực mà như không có thực, đúng như lời dặn cảu vua Quang Trung:
“Các ngươi hay nhớ đấy, đừng cho là ta nói khoác.”. Hình như trong lịch sử chống xâm
lược của dân tộc Việt Nam có hai câu nói gần giống nhau khi nhận định về sự thắng bại,
hơn thua. Ấy là câu trả lời vua Trần của Trần Hưng Đạo “năm nay thế trận giặc nhàn” và
lời dặn trên đây của Nguyễn Huệ. Cùng với cuộc hành quân thần tốc có một không hai
trong lịch sủ chiến tranh, cách đánh của vua Quang Trung biến hóa như thần, không một
thứ sách vở nào có được. Đó là cách đánh bao vây, chia cắt địch, tạo yếu tố bất ngờ. Đối
phương rơi vào một thế cờ bày sẵn không kịp trở tay. Tới sông Thanh Quyết, toán quân do
thám của quân Thanh bỏ chạy, Quang Trung truy đuổi tới cùng để chuẩn bị cho những trận
đánh lớn tiếp theo. Tôn SĨ Nghị không thể chủ động đề phòng. Đảm bảo được yếu tố bất

ngờ tức là đảm bảo được một nửa thắng lợi. Do vậy ở đồn Hà Hồi, mãi tới khi Quang
Trung bắc loa truyền gọi, quân lính trong đồn lúc ấy mới biết. Vì bị động, bị bất ngờ nên
“ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khi giới đều bị quân Nam lấy
hết.”Nói cho cùng, thắng bại trong chiến tranh phụ thuộc vào hai yếu tố: thế và lực. Lực
liên quan đến đến và thế đại quân Tây Sơn có thể tạo ra lực. Quang Trung đã tận dụng và
phát huy hai yếu tố trung tâm then chốt ấy. Bất ngờ là một khía cạnh của thế. Ở đây còn có
sự bất ngờ về thời gian và địa điểm tấn công. Còn có sự bất ngờ về cách đánh. Vì vậy đồn
Hà Hồi đánh nhanh thắng gọn, dễ dàng. Không cần bắn một mũi tên mà kẻ thù tự đem
mình chịu trói. Cái đó còn nhờ vào mưu. Tới đồn Ngọc Hồi, không thể dùng cách đánh ở
Hà Hồi được nữa. Để phản công địch, Quang Trung đã dùng rơm và ván, nghĩa là những
thứ đơn giản, mộc mạc mà thật sáng tạo tài tình để chắn. Diệu kế ấy làm cho các mũi tên
giặc bắn ra chẳng trúng người nào cả. Quân giặc phun hỏa mù thì lại bị gió hất ngược lại,
khiến cho quân chúng rối loạn, thành “gậy ông đập lưng ông”. Điều Nguyễn Trãi tổng kết
trong “Bình Ngô đại cáo” “Đánh một trận sạch không kình ngạc- đánh hai trận tan tác chim
muông” đã được Quang Trung kế thừa ở thời đại ông. Để đạt tới tính triệt để, tính tuyệt
đối, vừa tiêu diệt toàn bộ lực lượng của đối phương vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng,
Quang Trung đã phối hợp tấn công thế gọng kìm. Giữ cho mình cái thế và lực ấy, đại binh
của Tây Sơn kéo thẳng vào Thăng Long. Điều thú vị là các trận đánh của Quang Trung
10
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
ngày một quy mô rông lớn hơn như bão xoáy tăng dần cường độ, vượt qua mọi cánh cửa
vòng ngaoif tiến vào đại bản doanh mà tuyệt nhiên không gặp một vật cản nào đáng kể.
Những vật cản ấy dù là Sầm Nghi Đống, Tôn Sĩ Nghị, dù là ở bất cứ chỗ nào, giặc đều rơi
vào một tình thế không mấy khác nhau: sợ hãi, cuống cuồng, bất lực.
e. Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh
cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch
thật sự; hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến
công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…Đội quân
của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành
quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy

này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù ( bắt sống hết quân do thám của địch
ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi “quân lính luân
phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời sợ hãi” đều xin hàng; công phá đồn
Ngọc Hồi lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận chữ nhất tiến, khi giáp
lá cà “thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí
theo sau cúng nhất tề xông tới, …” . Khí thế của đội quân Tây sơn làm cho kẻ thù khiếp vía
tưởng như tướng ở tren trời xuống, quân chiu dưới đất lên. Hình ảnh Quang Trung trong
chiến trận thật oai phong, lẫm liệt trong cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy
gì” nổi bật hình ảnh Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, khi vào đến thành Thăng Long áo
bào đỏ của ông sạm đen khói súng. Bức tượng đài Quang Trung có một không hai trong
lịch sử văn học nước nhà cứ sừng sững hiện lên dưới bầu trời trong veo còn sặc mùi thuộc
đạn của kinh thành. Trong khải hoàn môn của người thắng cuộc, vua Quang Trung là biểu
tượng đầy ý nghĩa cho những gì thuộc về dân tộc. Đó là đạo lý Việt Nam, tài trí Việt Nam,
sức mạnh Việt Nam. Phải chăng hình tượng đó ít nhiều sống trong giấc mơ của Nguyễn Du
khi biến đổi một kẻ anh hùng thảo dã trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài
Nhân trở thành một anh hùng tái thế- Từ Hải trong “Truyện Kiều”. Trở lại, hình tượng
nhân vật Quang Trung do đó như có một thứ ánh sáng soi vào. Chiến công lẫy lừng của
dân tộc đánh đuổi quân Thanh xâm lược dưới sự chỉ đạo tài tình của vua Quang Trung.
5. Hình ảnh bè lũ bán nước và cướp nước
a) Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
- Tôn Sĩ Nghị Kéo vào Thăng long không mất một hòn tên mũi đạn nên chủ quan kiêu
căng, tự mãn không đề phòng gì. Suốt mấy ngày Tết chỉ “chăm chú vào yến tiệc, vui
mừng, không lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi
- Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng Sầm Nghi Đống “thắt cổ tự tử chết”, tướng Tôn
Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp chuồn
trước qua cầu phao”, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời sợ hãi”, xin ra hàng hoặc
“bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng
hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông mà chết
rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”, “thây
nằm đầy đồng, máu chảy thành sông”. Cả đội binh hùng tướng mạnh, chỉ quen diễu võ

dương oai giờ đây chỉ còn biết tháo chạy, mạnh ai người nấy chạy “đêm ngày đi gấp,
không dám nghỉ ngơi” . Chi tiết “sợ mất mật”, “ngựa không kịp đóng yên, người không
kịp mặc áo giáp” cắm đầu nằm hướng Bắc mà chạy là một chi tiết có thực và rất nhỏ
11
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
nhưng ý nghĩa của nó lại rất lớn.Chỉ mới ít ngày trước đó hai chục vạn quân Thanh hùng
hổ từ phương Bắc kéo sang định làm cỏ nước Nam, hợm hĩnh là thế, nay một mảnh áo
giáp cũng không còn, nói gì đến bọn bán nước cầu vinh Lê Chiêu Thống.
b) Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân
Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ
mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải chịu
đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, không còn đâu tư cách bật quân vương và
kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống vội vã
cùng mấy bề tôi thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền
dân để qua sông, “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp người thổ hào thương tình đón về
cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết “nhìn
nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn
quẫn của vua Lê Chiêu Thống, phơi bày tất cả sự thảm hại trong kết cục của một ông vua
phản dân hại nước. Nhưng có thể thấy tác giả vẫn gửi gắm ở đó chút tình cảm riêng của
một bề tôi cũ nhà Lê. Lòng thương cảm của tác giả biểu hiện qua những giọt nước mắt và
thái độ săn sóc tận tình của người thổ hào. Giọng văn cũng có phần ngậm ngùi, khác với
âm hưởng sôi nổi, hào hứng ở đoạn trên.
6. Hồi thứ 14 của tác phẩm miêu tả hai cuộc tháo chạy
a) Cho biết đó là hai cuộc tháo chạy nào?
Hai cuộc tháo chạy: một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống
b) Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy có gì khác biệt? Vì sao?
Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy đều là tả thực với những chi tiết cụ thể
nhưng âm hưởng khác nhau
- Cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh: nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả “ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”, “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang

sông, xô đẩy nhau ”. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa vẻ hả hê, sung
sướng của người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước.
- Cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống: Nhịp điệu chậm hơn, tác giả dừng lại miêu
tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi
Lê Chiêu Thống, cuộc tiếp đãi thịnh tình “giết gà làm cơm” của kẻ bề tôi âm hưởng
ngậm ngùi, chua xót. Là những cựu thần của nhà Lê, các tác giả không thể không mủn
lòng trước sự sụp đổ của một vương triều mà mình từng phụng thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết
cục không thể tránh khỏi.
7. Tại sao các tác giả là những người trung thành với nhà Lê nhưng lại viết đúng, viết
thực, viết hay về người anh hùng Quang Trung, Nguyễn Huệ như vậy?
Các tác giả là cựu thần của nhà Lê nhưng họ vẫn viết thực, viết hay về người anh hùng
Nguyễn Huệ vì đây là thể chí, cần viết đúng lịch sử. Họ là những trí thức yêu nước, có lương
tâm, có tài năng, tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân tộc. Họ không thể bỏ qua sự thực
là vua Lê Chiêu Thống hèn nhát, cõng rắn về cắn gà nhà, cũng không thể phủ nhận sự tài
giỏi và chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung. Chiến công ấy là niềm tự hào của cả dân
tộc, trong đó có họ.
12
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
8. Giá trị của “Hoàng Lê nhất thống chí” (Tự thêm)
a) Giá trị nội dung: Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả
“Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng
nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
b) Giá trị nghệ thuật: Đoạn trích có nhiều thành công về nghệ thuật: kể chuyện xen kẽ miêu
tả một cách sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh, nhân vật được khắc họa rõ nét.
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
1. Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu ( 1822- 1888), quê ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay
thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Năm 21 tuổi ông thi đỗ tú tài (1843), 6 năm sau, ông bị
mù (1849). Ông có nghị lực sống và cống hiến cho đời. Ông về Gia Định dạy học và bốc
thuốc chữa bệnh cho dân. Ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình và nêu một tấm

gương sáng cho đời. Ông có lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kì, Nguyễn Đình Chiểu tích cực tham gia phong trào
kháng chiến, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc việc đánh giặc và sáng tác thơ văn
khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Lúc cả Nam Kì rơi vào tay giặc, ông sống tại
Bến Tre, nêu cao tinh thần bất khuất trước kẻ thù, giữ trọn lòng trung thành với Tổ quốc,
với nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại nhiều
áng văn chương có giá trị nhằm truyền bá đạo lý làm người như “Truyện Lục Vân Tiên”,
“Dương Tử- Hà Mậu”; cổ vũ lòng yêu nước, ý chí yêu nước như “chạy giặc”, “văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”, và truyện thơ dài như “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”
2. Giá trị nội dung, nghệ thuật, thể loại
• Giá trị nội dung: Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thể hiện khát vọng
hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục
Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân
tình.
• Giá trị hiện thực: vạch trần cái ác, cái xấu trong xã hội
• Giá trị nhân đạo: đề cao đạo lý làm người, mối quan hệ giữa người và người, tinh thần
hiệp nghĩa: cứu khó phò nguy ; thể hiện khát vọng về xã hội công bằng
• Giá trị nghệ thuật
- Kết cấu truyện theo kiểu kết cấu ước lệ, quen thuộc, phù hợp với loại văn chương tuyên
truyền đạo đức, phản ánh chân thực cuộc đời đầy bất công, vô lý, nói lên khát vọng ngàn
đời của dân ta: ở hiền gặp lành, cái thiện luôn thắng cái ác, chính nghĩa thắng gian tà.
- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường và mang màu sắc địa phương
Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ
người kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.
- Ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết. Ở đoạn thơ đầu, có thể phân tích
những lời đối thoại giữa không khí cuộc chiến đang sôi sục, một bên là lời Lục Vân Tiên
đầy phẫn nộ, một bên là lời tên tướng cướp hống hách, kiêu căng. Đến đoạn đối thoại
giữa Vân Tiên và Nguyệt Nga thì lời lẽ mềm mỏng, xúc động, chân thành
13
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại

- Truyện thơ nôm mang tính chất truyện cổ dân gian, mang màu sắc Nam Bộ
• Thể loại: truyện thơ nôm, gồm 2082 câu thơ lục bát
• Kết cấu: chương hồi xoay quanh diễn biến cuộc đời nhân vật chính
• Hoàn cảnh sáng tác: năm 1850, thập kỷ 50 của thế kỷ XIX
3. Tóm tắt đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, khôi ngôi tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều
đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ,
gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được
Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên.
4. Chép chính xác những câu thơ nói lên quan điểm về người anh hùng của nhân vật
Lục Vân Tiên. Em hiểu câu thơ ấy ntn?
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Có nghĩa là: thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải người anh hùng.
Theo Lục Vân Tiên, người anh hùng phải là:
- Người làm được nhiều việc phi thường có ích: Lục Vân Tiên một mình dũng cảm đánh
tan bọn cướp hung tợn cứu thoát Kiều Nguyệt Nga lúc nàng nguy khốn nhất.
- Người anh hùng là người hành động hoàn toàn không mang tính chất vụ lợi: Lục Vân
Tiên từ chối đề nghị được trả ơn của Kiều Nguyệt Nga, từ chối cả việc nàng xin ra chào
và tạ ơn. Chàng khẳng khái mà rằng: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”
 Người anh hùng là người hành động vì nghĩa, vì lẽ phải, vì lẽ công bằng.
5. Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên
Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc họa qua mô típ quen thuộc ở truyện Nôm truyền thống:
một chàng trai tài giỏi, cứu một cô gái thoát khỏi tình huống hiểm nghèo rồi từ ân nghĩa đến
tình yêu như Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga. Mô típ kết cấu đó thường
biểu hiện niềm mong ước của tác giả và cũng là mong ước của nhân dân.Trong thời buổi nhiễu
nhương hỗn loạn này, người ta trông mong ở những người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời.
Lục Vân Tiên là một nhân vật thể hiện quan niệm, lý tưởng và ước mơ của Nguyễn Đình
Chiểu. Đây là một chàng trai vừa rời trường học bước vào đời, lòng đầy hăm hở, muốn lập công
danh cũng mong thi thố tài năng cứu đời, giúp người. Gặp tình huông bất bằng này là một thử

thách đầu tiên và cũng là một cơ hội hành động cho chàng. Hành động đánh cướp trước hết bộc
lộ tính cách anh hùng, tài năng và lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Bốn câu thơ đầu đã làm hiện lên
hình ảnh một chàng trai giàu lòng nghĩa hiệp, giữa đường gặp chuyện bất bình thì ra tay cứu
giúp mà không cần so đo tính toán:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô,
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.””
Vân Tiên là người có bản lĩnh chiến đấu anh dũng: Chàng chỉ có một mình, hai tay không
trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “Người đều sợ nó có tài
khôn đương” Vậy mà Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vô đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong
14
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
trận đánh được miêu tả thật đẹp, thật oai hùng. Đó chính là vẻ đẹp của người dũng tướng trong
quan niệm xưa. Chàng được so sánh với những hình mẫu lí tưởng như dũng tướng Triệu Tử
Long mà người Việt Nam, đặc biệt là người Nam Bộ- vốn mê truyện Tam quốc- không mấy ai
không thán phục. Vẻ đẹp của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người vì nghĩa quên thân, cái
tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực bạo tàn. Sức
mạnh ấy tượng trưng cho sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai chẳng kịp trở tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc “Lục Vân Tiên”,
chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả
vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện, vừa rung đùi thích thú,
gửi tới bạn đọc một lẽ phải: người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất
nhân sẽ thảm hại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc
nghĩa, một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ, tất cả đều vì

nhân nghĩa nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Thái độ cư xử với Kiều
Nguyệt Nga sau khi đánh bọn cướp lại bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng
nghĩa khinh tài , giúp người mà không nhận trả ơn, cũng rất từ tâm, nhân hậu. Thấy hai cô gái
còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên “động lòng”, tìm cách an ủi, ân cần hỏi han ngọn ngành từ tên
họ, gia thế đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu,
ảnh hưởng của quan niệm phong kiến “Nam nữ thụ thụ bất thân”, song tất cả đều chân thành,
dung dị, đáng mến. Khi nghe họ nói muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay “khoan
khoan ngồi đó chớ ra”. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt
Nga- nạn nhân được chàng cứu giúp thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, nói lời xin trả
ơn lần thứ hai thì : “Vân Tiên nghe nói liền cười” Cái cười đáng yêu , đáng kính làm sao! Một
là cái cười cảu anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng
rộng lượng, đều nở trên môi Lục Vân Tiên. Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng
yêu:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ- nôm na, giản đơn, cất lên từ một cõi lòng
chất phác. Chất phác là cái bên ngoài, là vỏ xù xì thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao
đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh hào hiệp, vô tư của một lớp người,
một thế hệ con người. Ở đây có phần câu nệ của lễ giáo nhưng chủ yếu là do đức tính khiêm
nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Chàng khẳng định việc mình làm là
hoàn toàn tự nguyện. Làm việc nghĩa thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt vì ơn nghĩa là lẽ
thông thường của người sống có văn hóa, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy
nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng đã
hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Kiều Nguyệt Nga
cũng như mọi người “rõ đặng nguồn cơn”- nghĩa làm hiểu rõ, cảm thông cho hành động của
15
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
chàng. Chàng không muốn nhận cái lạy tạ ơn của hai cô gái, từ chối lời mời về thăm nhà của
Nguyệt Nga để cha nàng đền đáp, và ở đoạn sau, từ chối nhận chiếc trâm vàng của nàng, chỉ

cùng nhau xướng họa một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vấn vương. Đáng quý hơn nữa
là sự hào hiệp, trọng nghĩa cứu người nhưng không vụ lợi, không cần trả ơn. Đối với Lục Vân
Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, lã lẽ tự nhiên con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó
là công trạng. Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô dùng dã” nghĩa là “Thấy việc nghĩa mà
không làm, không phải là người dũng cảm.”Cách nói của chàng giản dị hơn:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
“Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân hèn nhát.Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng,
phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm của chàng là đúng đắn, là lẽ hiển
nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình, cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân,
quân tử ngày xưa và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi
nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong “Truyện Kiều”. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa
hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh
tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
6. Phân tích nhân vật Kiều Nguyệt Nga
Nguyệt Nga là một nhân vật lý tưởng thể hiện quan niệm của tác giả về hình mẫu người phụ
nữ có học rất đỗi kiên chinh, thủy chung, trong sáng. Ở đoạn thơ này, Kiều Nguyệt Nga chỉ
được biểu hiện qua những lời lẽ mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên. Trước hết, đó là lời lẽ
của một cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức: cách xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp”
khiêm nhường. Nàng thực hiện phép tắc lễ nghi trong giao tiếp với Lục Vân Tiên bằng một
thái độ và lời lẽ kính trọng.Bằng cách nói văn vẻ, dịu dàng, mực thước, màng đã giã bày vấn
đề rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ nhưng điều hỏi ân cần của Lục Vân Tiên vừa thể
hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động cảu mình:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Chẳng qua là sự bất bình
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi
Lâm nguy chẳng kịp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi

Xin cho tiện thiếp lạy ròi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.”
Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của nàng đều toát lên vẻ đẹp thùy mị, nết na của người con gái có
học thức, hiểu rõ phép tắc lễ nghi. Nói “Tiết trăm năm” là nói việc hệ trọng của cả một đời
người. “Lạy rồi sẽ thưa” cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con
người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử xự như
thế, hạ mình như thế thì đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư- con quan tri phủ-
nàng được giáo dục chu đáo, gắn bó với những người dân nên tiếp nhận được đạo đức của
nhân dân. Đạo đức ấy là chữ “ân”, chữ “nghĩa”. Hơn nữa, Nguyệt nga lại là người chịu ơn,
lại là một cái ơn trọng, không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của
16
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
nàng. Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp
công lao Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập nhưng
chất phác “nghe thánh thót bên tai giọng cô gái miền nam”:
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới “của tiền”, “vàng bạc” để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới
“báo đức thù công” – đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng ”
để giãi bày sự lúng túng về tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng.
Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn
khoăn, day dứt không nguôi. Chỉ khi thấy “Vân Tiên nghe nói liền cười ” và an ủi: “Nhớ
câu kiến nghĩa bất vi- Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, Nguyệt Nga mới khuây khỏa
hỏi thăm gia cảnh tên tuổi vị ân nhân. Cuối cùng, nàng tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng
trai khảng khái, hào hiệp đó và dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng. Nét
đẹp tâm hồn đó đã làm cho hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chinh phục được tình cảm yêu mến
của nhân dâ, những con người bao giờ cũng rất xem trọng “Ơn ai một chút chẳng quên”.

Truyện Kiều
1. Viết đoạn văn thuyết minh ngắn giới thiệu tác giả Nguyễn Du.
Nguyễn Du làm một thiên tài văn học, lỗi lạc nhất của Việt Nam. Ông sinh trưởng
trong một thời kỳ có đầy biến động dữ dội: Xã hội phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ
khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục mà đỉnh cao là cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn đã “một phen thay dổi sơn hà.” Phong trào Tây Sơn thất bại, chế độ
phong kiến triều Nguyễn được thành lập. Chính những thay đổi kinh thiên động địa ấy đã tác
động mạnh tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút vào hiện thực.
Gia đình Nguyễn Du là một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về
văn học, cha đỗ tiến sĩ, từng làm Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ từng làm quan to và là
người say mê nghệ thuật. Nhưng cuộc sống êm đềm chướng rủ màn che với Nguyễn Du
không kéo dài được bao lâu. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi và mồ côi mẹ năm 12 tuổi.Hoàn
cảnh gia đình cũng có tác động lớn tới cuộc đời Nguyễn Du. Nguyễn Du là người có hiểu
biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Trong những biến động dữ dội của lịch sử, nhà thơ đã
sống nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, những con người, những số phận khác
nhau. Khi ra làm quan với nhà Nguyễn, ông đã từng đi sứ Trung Quốc, qua nhiều vùng
Trung Hoa rộng lớn với nền văn hóa rực rỡ. Đi nhiều, tiếp xúc nhiều, từng trải trong cuộc
sống, tất cả những điều đó đã có ảnh hưởng lớn đến sáng tác của nhà thơ. Nguyễn Du là
con người có trái tim giàu yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong “Truyện Kiều”:
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường- chủ nhân trong lời tựa “Truyện
Kiều”cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du đối với con người, với cuộc đời: “Lời văn tả ra
hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải
thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột. Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả
cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy” Nguyễn Du còn là một thiên tài văn học
ở cả sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, ở giá trị kiệt tác của “Truyện Kiều”. Về chữ Hán,
17
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Nguyễn Du có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục với
tổng số 243 bài. Về chữ Nôm ngoài Truyện Kiều còn có Văn Chiêu hồn.

2. Viết đoạn văn thuyết minh Truyện Kiều
Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện thơ Nôm trong văn học
trung đại Việt Nam, được sáng tác vào đầu thế kỉ XIX."Truyện Kiều" có nguồn gốc cốt truyện
từ một tác phẩm văn học Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn, mang
nghĩa quyết định thành công của tác phẩm. Viết "Truyện Kiều" tác giả có dựa vào cốt truyện
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài Nhân. Tuy nhiên Nguyễn Du có nhiều sáng tạo từ
nghệ thuật tự sự- kể chuyện bằng thơ đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả thiên nhiên,
tất cả đều có rất nhiều khác biệt. Điều đó đã khiến cho "Truyện Kiều" mang những vẻ độc đáo
mới lạ, gây hứng thú cho người đọc. Tuyệt tác này đã và sẽ mãi mãi là sáng tạo văn chương
đích thực của thiên tài văn học Nguyễn Du. Tác phẩm này mang hai tên gọi. Trước kia mọi
người thường gọi là “Đoạn Trường Tân Thanh”, đoạn trường- đứt ruột, tân thanh -tiếng kêu
mới. Tên gọi được rút ra từ nội dung cơ bản của tác phẩm : tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt
ruột. Truyện Kiều: tên gọi thể hiện nội dung cơ bản của tác phẩm: dùng tên nhân vật chính của
truyện để đặt tên cho tác phẩm. Cả hai nhan đề đều hay, mỗi nhan đề lại có một ưu điểm riêng
nhưng đều góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. Cốt truyện Kim Vân Kiều truyện xây dựng trên
cơ sở ba biến cố lớn: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ. Truyện Kiều đã thể hiện
đầy đủ ba biến cố ấy. Nhưng trong thể loại truyện thơ, Nguyễn Du không thể sử dụng thủ pháp
kết cấu như tiểu thuyết văn xuôi: không thể nào phân chương hoặc sử dụng lối qua hàng, qua
trang của thể loại tiểu thuyết cận hiện đại. Bố cục của "Truyện Kiều" vô cùng chặt chẽ, có thể
nói từ trước đến nay, chưa một nhà văn nào có thể xây dựng kết cấu truyện cụ thể, rõ ràng như
đại thi hào Nguyễn Du. Đọc tác phẩm ta có thể chia ra từng phần, mỗi phần lại có nội dung
khác nhau, tưởng như đó là một đoạn truyện hoàn chỉnh. Đặc sắc về bố cục ấy cũng khiến
"Truyện Kiều" của Nguyễn Du gần hai trăm năm nay chiếm một vị trí rực rỡ trong lịch sử văn
học Việt Nam. Về nội dung, "Truyện Kiều" có hai giá trị lớn là hiện thực và nhân đạo. Tác
phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị
và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận người phụ nữ. Truyện Kiều
mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản nhất: niềm thương cảm sâu sắc trước những
đau khổ của con người, sự lên án, tố cáo những thế lực bạo tàn, sự trân trọng, đề cao con người
từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân chính. Về nghệ thuật,
"Truyện Kiều" có thành tựu về nhiều mặt. Nhắc đến "Truyện Kiều", ta không thể không nói đến

ngôn ngữ. Ngôn ngữ Tiếng Việt đã đạt tới đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật, không chỉ có chức
năng biểu đạt, biểu cảm mà còn mang chức năng thẩm mĩ. Tiếng Việt trong "Truyện Kiều" hết
sức giàu và đẹp. Với "Truyện Kiều", nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Ngông
ngữ kể chuyện đã có ba hình thức: trực tiếp ( lời nhân vật), gián tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp
(lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật). Nhân vật xuất hiện với cả con người
hành động (dáng vẻ bên ngoài) và con người đa cảm nghĩ (đời sống nội tâm bên trong). Nghệ
thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh những bức tranh chân thực, sinh động là những bức
tranh tả cảnh ngụ tình.
3. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và ước lệ tượng trưng
Tả cảnh ngụ tình: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình chính là miêu tả cảnh vật thiên nhiên
để gửi gắm suy nghĩ tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhân vật vui thì cảnh vật hiện lên một
18
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
cách thơ mộng, yên bình, còn buồn thì nhìn cảnh chỉ một màu đen u tối. Tác dụng: tình ý trong
văn bản hàm súc sâu sắc kín đáo mà vẫn chứa sức gợi và tạo liên tưởng cho người đọc
Ước lệ tượng trưng: Lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực gợi tả vẻ đẹp của con
người. Hình ảnh ước lệ tượng trưng là sáng tạo nghệ thuật của mĩ học phong kiến,
nó có giá trị thẩm mĩ nhất định, đem lại cho lời văn lời thơ trang nhã, bóng bẩy, súc
tích.
Đoạn trích: Chị em Thúy Kiều
1. Phân tích 4 câu thơ đầu: giới thiệu khái quát chị em Thúy Kiều
Bốn câu thơ đầu đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã để lại cho em một ấn tượng sâu
sắc. Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu
đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt "tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em
Thuý Vân, Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ

thuật ước lệ tượng trưng lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em
Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Chị em Kiều mang vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao,
trong trắng của người thiếu nữ: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”bởi “Mai cốt cách” là cốt cách
của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. “Tuyết tinh thần” là tinh thần của tuyết trắng và trong sạch.
Câu thơ đã tạo được sự chú ý. Sự chúy ý này trên hai cấp độ: đó là những vẻ đẹp khác nhau, và
cả hai đều hoàn mĩ “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Đó còn là vẻ đẹp tinh thần trong
tổng hòa của cốt cách- cả hình thức lẫn nội dung. Chỉ bằng một câu thơ mà tác giả đã khái quát
được vẻ đẹp chung và vẻ đẹp riêng của từng người.
2. Phân tích 4 câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân
Chỉ bằng bốn câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh Thúy Vân đẹp vô
cùng. Câu mở đầu vừa giới thiệu, vừa khái quát đặc điểm của nhân vật: “Vân xem trang trọng
khác vời”. Từ “xem” xen vào câu kể đã để lại một dấu ấn chủ quan của người kể. Nhưng nhưng
nhan sắc của Thúy Vân đến độ khác vời thì đã làm dấu ấn chủ quan của người kể càng rõ rệt
hơn. “Khác vời” tương đương với cụm từ “tuyệt vời”. “Khác vời”là cái đẹp khó lòng nói hết,
cái đẹp của nhan sắc và cái đẹp ở cả ngoài nhan sắc. Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao
sang, quý phái của Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với
những thứ tươi đẹp nhất trong thiên nhiên: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Vẫn là bút pháp ước lệ
với những hình tượng quen thuộc, nhưng khi tả Vân, ngòi bút của Nguyễn Du lại có chiều
hướng cụ thể hơn tả Kiều. Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn chân dung từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc, đến nục cười, giọng nói, phong thái ứng xử. Nhà thơ đã miêu tả chi tiết vẻ đẹp
của Thúy Vân qua ba câu thơ:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
19
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Mỗi chi tiết miêu tả được cụ thể hơn nhờ các định ngữ, bổ nghữ, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ,
nhà thơ đã vẽ lên bằng ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt bức chân dung xinh đẹp của Thúy
Vân . Thúy Vân hiện lên với khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như trăng ngày rằm, đôi
lông mày sắc nét như con ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm

răng ngà ngọc, mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Các từ ngữ: “đầy
đặn” , “nở nang”, “đoan trang” kết hợp với các hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã tô đậm vẻ đẹp đoan
trang, quý phái, phúc hậu của người thiếu nữ. Nhưng cái tài của Nguyễn Du đâu chỉ dừng lại ở
đó, tác giả đã khiến chân dung Thúy Vân hé mở, dự bảo về tính cách, số phận của nàng. Vẻ đẹp
của Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh, “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có
cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
3. Phân tích mười hai câu miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều
Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều mang một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” về cả tài lẫn sắc.
Thật vậy, câu thơ đầu vừa giới thiệu, vừa khái quát nên vẻ đẹp của Kiều :“Kiều càng sắc sảo
mặn mà”Kiều không chỉ sắc sảo về trí tuệ mà còn mặn mà về tâm hồn. Đó là hai phẩm chất của
Thúy Kiều mà Thúy Vân chưa có hoặc có nhưng chưa trọn vẹn. “Sắc sảo” là trí tuệ, là tài,là khả
năng nhận thức nhanh nhạy, thông minh và ứng xử linh hoạt, kịp thời. Tài còn là cầm kì thì họa,
bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ. Còn “mặn mà “là tình, là sự nồng nàn, say đắm không nhạt
nhẽo, vô tâm. “Càng” ở câu trước đã là hơn nhưng hình như chưa đủ. Cần phải hai năm rõ mười
nên câu thơ thứ hai đã so sánh hai chị em Kiều “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Mặc dù đã nói ở
trên rằng “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, nhưng Kiều vẫn đẹp hơn và tài năng hơn
Vân. Chân dung Thúy Vân được miêu tả trước để làm nền nổi bật lên chân dung Thúy Kiều. Có
thể coi đây là thủ pháp đòn bẩy. Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để gợi tả Vân trong khi đó lại
dành tới mười hai câu thơ để tả Kiều. Vẻ đẹp của Kiều nhờ đó mà trở nên nổi bật hơn. Nếu như
khi miêu tả Thúy Vân, tác giả khiến nàng hiện ra rõ ràng từ khuôn mặt, nét mày, mái tóc, làn da
cho đến nụ cười, giọng nói thì khi miêu tả Thúy Kiêu, đại thi hào Nguyễn Du chỉ tập trung vào
đôi mắt vì đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ và tâm hồn hay đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Cái
“sắc sảo” của trí tuệ, “mặn mà” của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Cực tả đôi mắt của Kiều,
nhà thơ vẫn sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. “Thu thủy” là
làn nước mùa thu, “xuân sơn” là dáng núi mùa xuân. Câu thơ miêu tả đôi mắt của Kiều linh
hoạt, trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu. Tô điểm thêm cho đôi mắt ấy là hàng lông
mày thành thoát, nhẹ nhàng tựa dáng núi mùa xuân. Đúng là đôi mắt và lông mày, một đôi mắt
trong suốt như không màu, một đôi mắt biết khóc, biết cười, một tuổi trẻ tiềm năng đang bừng
thức. Nhan sắc ấy không chỉ là nhan săc, nó đã hóa linh hồn. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi,
tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đôi mắt ấy, con người ấy đẹp

đến nỗi thiên nhiên phải hờn ghen đố kỵ: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” Nhà thơ
không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy hay sự ngưỡng mộ, say mê
trước vẻ đẹp đó. “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo từ điển cố để cực tả giai
nhân. Cũng như vẻ đẹp của Thúy Vân, chân dung Thúy Kiều dự báo số phận của nàng thật
truân truyện, trắc trở. Khi miêu tả Thúy Vân, tác giả chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi miêu tả
Thúy Kiều thì tài năng của nàng là phần được chú ý hơn cả. “Sắc đành đòi một, tài đành họa
hai”. Kiều là một người con gái thông minh, tài giỏi. Tài của nàng đạt đến mức lý tưởng theo
20
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
quan niệm thẩm mỹ phong kiến: đủ cả cầm, kỳ , thi, họa. Đặc biệt tài đàn là sở trường, là năng
khiếu, là nghề riêng vượt lên trên mọi người.
“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
Tài đàn của Kiều được miêu tả bằng bốn câu thơ, và trong bốn câu ấy, câu nào cũng nói đến
một bậc kì tài. Khi thì thuần phục “làu”, lúc thì nổi bật “ăn đứt” một tài năng trời phú “khúc
nhà” nhất là với cung bạc mệnh “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.Cung đàn bạc mệnh
mà nàng sáng tác chính là tiến lòng của trái tim đa sầu, đa cảm, nghe thật da diết, thiết tha. Cực
tả tài đàn chính là cực tả tâm hồn Kiều. Người ta thường nói đến vẻ đẹp số phận của nàng Kiều
vì “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Không chỉ vì thiên nhiên giận hờn, ghen tức mà
Kiều cũng như thế: “Đã cho lấy kiếp hồng nhan/ Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân”. Nhưng
nếu xét cho cùng, tiếng đàn mới làm cho đời nàng đau đớn. Rồi tiếng đàn ấy cũng đi suốt mười
lăm năm lưu lạc, đi hết cuộc đời nàng. Vẻ đẹp của Kiều kết hợp cả sắc, tài tình đạt đén mức lý
tưởng. Chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho
tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị “hoa ghen”, “liễu hờn” nên số phận nàng sẽ
éo le, đau khổ.
4. Phân tích bốn câu thơ cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em Kiều
Khép lại hai bức chân dung tuyệt mĩ, Nguyễn Du lại dùng những ngôn từ đẹp đẽ để
nói chung về cuộc sống của hai nàng. “ Phong lưu rất mực hồng quần” sử dụng phép hoán dụ,

cho thấy cuộc sống của chị em Kiều là cuộc sống của những người con gái đẹp trong khuê các.
“Hồng quần”: quần đỏ, chỉ người phụ nữ ngày xưa, người phụ nữ nhà quyền quí thường mặc
quần đỏ. Đoạn thơ đóng lại nhưng vẫn có cái gì đó không yên. Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài
trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh
trướng rủ màn che , không tơ tưởng đến những kẻ đi tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong
bướm tìm hoa. Hai nàng luôn tránh xa ong bướm: tình yêu không đứng đắn. Chính những nét
hồn nhiên , trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân
cách và ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này , đặc biệt là Thúy Kiều . “Xuân xanh
xấp xỉ tới tuần cập kê” phải chăng là chút thoáng hồi hộp, đợi chờ một cái gì đáng tới phí ngoài
kia, phí “Tường đông ong bướm đi về mặc ai” ma những cô gái “màn che”, “trướng rủ” chưa
mấy bận tâm thao thức.Mấy câu kết trong sáng, đằm thắm như chở che, bao bọc cho hai chị
em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh “êm đềm” chưa một lần hương tỏa vì ai.
Đoạn trích: Cảnh ngày xuân
1. Phân tích bốn câu thơ đầu: khung cảnh ngày xuân.
Bốn câu thơ đầu đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã gợi tả khung cảnh thiên nhiên với vẻ
đẹp riêng của mùa xuân. Hai câu thơ đầu vừa gợi thời gian, vừa gợi không gian:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết trời đã bước sang tháng ba. Trong tháng cuối cùng của mùa
xuân, những con én vẫn bay liệng rộn ràng như đưa thoi giữa bầu trời trong sáng. Thời gian đi
rất nhanh, với mùa xuân và với cái nhìn của tuổi trẻ, nó càng nhanh vì tuổi trẻ và mùa xuân là
cơ hội một lần. Cái nhìn của nhà thơ thấm đẫm tâm lý của người trong cuộc. Bởi thế mới thấy
21
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
nhanh và tiếc: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. “Sáu mươi” trên “chín chục”, hơn
thế “đã ngoài” trái ngon ngọt mùa xuân đã đi hết hai phần, sốt ruột biết bao! Trong “Truyện
Kiều” thời gian đi rất nhanh nhưng mỗi lần một khác, không lần nào giống lần nào.Hai câu thơ
tiếp theo với bút pháp nghệ thuật chấm phá đã tạo nên bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Hai câu thơ tả cảnh mùa xuân này thật là tuyệt bút. Có hai cách nhìn về bức tranh ấy. Cái nhìn
thứ nhất của người khách qua đường, của con mắt “thế nhân”: Những thảm cỏ khô cằn mùa
đông nay đã hồi sinh thành cỏ non, khoác lên mình một màu xanh non trải dài tít tắp tới tận
chân trời. Màu xanh nhạt của cỏ non kết hợp với màu xanh ngọc của trời đã tạo nên một phông
nền tuyệt đẹp cho bức họa về mùa xuân. Trên phông nền xanh non ấy có điểm xuyết một vài
bông hoa lê màu trắng. Cỏ xanh, hoa trắng hòa làm một đã làm nên bức tranh xuân với màu sắc
hài hòa tuyệt diệu. Với bốn câu thơ lục bát, đại thi hào Nguyễn Du đã gợi nên vẻ đẹp riêng của
mùa xuân. Mùa xuân là mùa của sự mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Từ “cỏ non” đã nói lên
điều đó. Mùa xuân có không gian khoáng đạt, trong trẻo nên mới thấy “xanh tận chân trời”. Nó
nhẹ nhàng mà tranh khiết “trắng điểm một vài bông hoa”. Cái hay là sự hội nhập với từ “cành lê
trắng điểm”. Cái tài cũng là cái tài tình của Nguyễn Du ở đây là đảo ngược một cách dùng từ
thông dụng: biến “điểm trắng” thành “trắng điểm”. Chỉ thay đổi một chút đó thôi, công việc đơn
giản mà ngoài Nguyễn Du, không ai làm được. Trong sáng tạo thơ ca, người ta có thể “chết” vì
một từ “sống” cũng vì một tư thế. Nếu viết “điểm trắng” thì không sai, ý thơ, âm điệu thơ không
hề thay đổi. Nhưng đó là cách viết “non tay”, cách vẽ tranh cảu nghệ nhân bắt chước mà chưa
có cái “thần”. Viết “trắng điểm” tạo nên yếu tố bất ngờ, làm nổi bật màu sắc trắng tinh khôi của
hoa lê bằng bàn tay vô tình của tạo hóa và bút pháp tài hoa của Nguyễn Du. Nó đang chăm
chút, tô điểm không cầu kì chau chuốt mà rất tế nhị, tinh vi. “Điểm” ở đây là điểm xuyết, nghĩa
là thêm vào, chỉ một chút thôi mà gương mặt của cành lê tưởng như không còn là chính nó.
“Trắng điểm” và “điểm trắng” chỉ hơn nhau một sự lung linh nho nhỏ mà đã là hai thế giới khác
xa nhau. Bút pháp ước lệ chấm phá kết hợp với đảo trật tự từ “trắng điểm” đã tạo nên yếu tố bất
ngờ, làm nổi bật màu sắc trắng tinh khôi của hoa lê bằng bàn tay vô tình của tạo hóa và bút
pháp tài hoa của Nguyễn Du. Điều đó làm cho bức tranh trở nên sinh động có hồn chứ không
tĩnh lặng. Bức tranh xuân với đường nét thanh thoát, khí trời trong trẻo và cảnh vật tràn đầy sức
sống đã góp phần thể hiện tâm trạng phấn chấn của con người đi chơi xuân.
2. Phân tích tám câu thơ tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh
Tám câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã gợi lên khung cảnh lễ hội trong
tiết thanh minh. Mùa xuân là mùa của lễ hội. Lễ tảo mộ là đi sửa sang phần mộ của gia đình, tổ
tiên, tìm về những bóng hình của quá khứ. Hội đạp thanh là giẫm lên cỏ xanh- đi chơi xuân ở
chốn đồng quê, là cuộc sống hiện tại, có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau. Lễ thực ra

chỉ là cái cớ, còn hội ới là mục đích cuối cùng. Một ngọn gió lướt đi và đây là những cái gì đã
đến:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơ xuân”.
Đọc qua, tưởng như hai câu thơ kể việc, vì yếu tố này không phải là không có: hành trang,
phương tiện đi đường, có chị có em. Nhưng không phải. Việc chuẩn bị tất nhiên không thể
22
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
không làm, nhưng đó là những chất liệu sinh hoạt đời thường chứ không phải chất liệu của thơ.
Điều đáng kể nhất là niềm vui tíu tít, rộn ràng, một hạnh phúc lớn lao chưa từng có của những
chị, những em đi dạ hội lần đầu giữa một mùa xuân kép: xuân của thiên nhiên, xuân của lòng
người. Được hòa vào cái không khí đặc trưng “nô nức yến anh”, việc “sắm sửa” cảu mấy chị em
cũng là ngày hội. Chưa đến hội, hai chị em đã vội vã ngây ngất như lâng lâng bay bổng. Tưởng
như không có âm thanh nào ngoài công việc nhưng tâm hồn họ thì quả thực đang cất tiếng hát
ca. Chân dung lễ hội, không rõ một gương mặt ai nhưng ai cũng thấy mình trong đó, trong cái
phấn khích mà không một ngày nào trong năm có được. Tất cả sự náo nhiệt đều dồn vào đây:
“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”
“Dập dìu” là một từ láy. Theo nghĩa của từ điển, dập dìu là cùng nhau vui chơi, chỉ đông người
tấp nập. Nhưng trong văn cảnh này, nó như khúc hát dìu dặt mau thư, nghĩa là sự xuống lên
theo quy trình của những con sóng nước. Các danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân gợi tả sự
đông vui, tấp nập, nhiều người cùng đến hội; các động từ sắm sửa, dập dìu gợi tả sự rộn ràng,
náo nhiệt của ngày hội; các tính từ gần xa, nô nức làm rõ hơn tâm trạng của người đi hội. Cách
nói ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay
ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp nhất là những nam thanh nữ tú, những tài tử
giai nhân. Niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân gian. Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều,
tác giả khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Tiết Thanh minh mọi người đi sắm sửa
lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo để vui hội đạp thanh. Người ta rắc những thoi vàng vó, đốt
tiền giấy hàng mã để tướng nhớ những người thân đã khuất. Họ luôn hy vọng những người thân
của họ sẽ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc của thế giới bên kia. Chắc chắn Nguyễn Du

phải là người có vốn hiểu biết sâu sắc về lễ hội truyền thống của Việt Nam nên mới có thể viết
thực, viết hay như vậy.
3. Phân tích sáu câu thơ cuối: cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về
Sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều
du xuân trở về. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ,
nhịp cầu bắc ngang. Mọi chuyển động nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân
người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Cái không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không
còn nữa, tất cả đã nhạt dần, lặng dần. Cảnh vẫn đẹp, vẫn thanh nhưng đã nhuốm màu tâm
trạng. Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà
còn bộc lộ tâm trạng của con người. Phút êm dịu của cảnh vật tạm lấp dần khoảng trống rất
khó nguôi vơi của nỗi buồn tiếc nuối. Vừa khép lại vừa mở ra từ dòng nước, nhịp cầu một tâm
trạng chênh vênh. “Nao nao dòng nước uốn quanh”. Dòng nước tâm tình chia sẻ ấy, nhịp cầu
nên thơ như giấc mộng hiện lên ấy ru vỗ lòng người làm dịu lại cái xôn xao từ ngày hội bước
ra. Đặc biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nét buồn khó hiểu. Nó diễn tả sự xúc động đến rưng
rưng. Đó vừa là dư âm của cái đã qua, vừa là sự lấy đà chuyển sang một tâm trạng mới: gặp
nấm mồ Đạm Tiên. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn. Chị em Kiểu ra về trong sự bần
thần, nuối tiếc, lặng buồn. Hành động “dan tay” như vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn
không nói hết. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đoang còn mà như
linh cảm có điều sắp xảy ra đã xuất hiện.
Đoạn trích: Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Phân tích sáu câu thơ đầu: hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều
23
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Sáu câu thơ đầu đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã cho ta thấy hình ảnh cô đơn,
tội nghiệp của Kiều. “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”. Hai chữ “khóa xuân” cho ta thấy Kiều
ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng: “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”. Nàng trơ trọi
giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi nên sự rợn ngợp
của không gian. “Bốn bề bát ngát xa trông”. “Xa trông” là trông thêm một tầm của mắt, rộng
hơn, thoáng đãng hơn, thấy những dặm đường, cồn cát. Chúng chỉ là những chi tiết đời thường
rất dễ bị lãng quên nhưng đã góp phần diễn tả cái lặng lẽ bên ngoài và làm nên chất thơ, chất

thơ cảu cái đẹp mà không đẽo gọt cầu kì, rất dung dị, tự nhiên. Hình ảnh non xa, trăng gần, cát
vàng, bụi hồng là hình ảnh thực gợi lên lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang rời nước. Nó
cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian. Qua đó,
diễn tả tâm trạng cô đơn của nàng Kiều. Cái lầu chơi vơi ấy đang giam giữ một thân phận trơ
trọi, không một bóng người,không có sự giao lưu giữa người với người. “Bẽ bàng mây sớm đèn
khuya”. “Bẽ bàng” là sự tủi, thẹn cho chính người đang có nó. Bởi nó đang hiện diện nơi nàng
nên mới có sự phân đôi: một tấm lòng chia làm hai nửa: nửa tình, nửa cảnh.Cụm từ “mây sớm
đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Thời gian cũng như không gian đang giam hãm
con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều chỉ thui thủi về mình. Nàng chỉ biết làm bạn với
mây sớm đèn khuya. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.
2. Phân tích tám câu thơ tiếp: nỗi nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của
nàng Kiều.
Qua tám câu thơ trong đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” ta thấy Kiều hiện lên là
người con gái thủy chung, hiếu thảo, vị tha. Với ngôn ngữ độc thoại nội tâm, tám câu thơ đã
diễn tả nỗi nhớ thương Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ của nàng Kiều. Trước hết, nàng đau đớn
nhớ tới chàng Kim. Điều này vừa phù hợp với quy luật tâm lý, với hoàn cảnh vừa thể hiện tâm
lý của Nguyễn Du. Nhớ tới người tình là nhớ tới tình yêu, nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người
dưới nguyệt chén đồng”. Vừa mới hôm nào nàng và Kim Trọng còn uống rượu thề nguyền hẹn
ước trăm năm mà nay mỗi người một ngả. Nàng xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình. Nàng cứ
tưởng tượng Kim Trọng không hay biết gì, ngày đêm vẫn mong ngóng, chờ tin uổng công vô
ích. “ Tin sương luống những dày trông mai chờ”. Lời thơ như có nhịp đập thổn thức của một
trái tim yêu thương nhỏ máu. Niềm thương nhớ Kim Trọng pha lẫn day dứt, tủi hổ, dằn vặt vì
thấy mình là kẻ phụ tình. Kiều trách mình và cảm thấy không còn xứng đáng với chàng Kim vì
tấm lòng thủy chung son sắt đã bị vùi dập, hoen ố. Tiếp đó, Kiều nhớ tới cha mẹ. Nghĩ tới cha
mẹ, Kiều thương xót song thân già yếu mà sáng chiều cứ tựa cửa để ngóng trông con. Nàng xót
xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông
nom. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ
thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà đã thay đổi mà sự
thay đổi lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ
“cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách bao mùa mưa náng, vừa nói lên được sức

mạnh tàn phá của thiên nhiên, của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Lần nào khi nhớ về
cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ
công nuôi dạy của cha mẹ. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất
nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người
tình thủy chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng.
3. Tâm trạng của Kiều trong 8 câu thơ cuối
24
Vũ Quỳnh Mai – 9A- Văn trung đại
Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện tâm trạng buồn lo
của nàng Kiều. Tám câu thơ này là những câu thơ tuyệt bút về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
Cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng của nàng Kiều
thấm dần qua từng cảnh vật. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tĩnh đến động để diễn tả các sắc thái tình cảm khác nhau của nàng Kiều, nỗi buồn từ
mơ hồ đến kinh sợ hãi hùng. Không gian mênh mông của cửa bể chiều hôm gợi nỗi buồn cô
đơn, nỗi nhớ nhà da diết. Nguyễn Du đã đặt Kiều vào không gian nghệ thuật để diễn tả nỗi nhớ
quê hương, gia đình, cha mẹ và gợi nỗi khao khát sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn
nước mới sa gợi nỗi buồn lo lắng cho tương lai vô định về thân phận trôi nổi không biết trôi dạt
về đâu, bị vùi dập ra sao. Kiều như cánh hoa, như trái bần trôi “gió dập sóng dồi biết tập vào
đâu”. Cảnh cỏ nhạt nhòa, úa tàn trải dài tít tắp, mênh mông gợi nỗi chán chường, vô vọng, bi
thương vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Nàng cảm
thấy tuyệt vọng trước tương lai mờ mịt. Âm thanh dữ dội kết thúc đoạn thơ như báo trước sóng
gió, bão tố cuộc đời sắp ập xuống Kiều khiến nàng kinh hoàng khiếp hãi. Ngôn ngữ độc thoại
kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” lặp lại ở đầu mỗi câu thơ sáu chữ đã tạo âm hưởng trầm
buồn. Nó là điệp khúc của đoạn thơ và cũng la điệp khúc của tâm trạng. Tất cả đều diễn tả nỗi
buồn nhiều vẻ kéo dài nặng nề trong lòng Kiều. Đó là sự trông đợi trong vô vọng, đó là nỗi
buồn sầu mênh mang đến vô tận.
25

×