Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của địa danh tâm linh ở thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.17 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
HOÀNG THỊ THÚY
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA ĐỊA
DANH TÂM LINH Ở THÀNH PHỐ HUẾ
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NƯỚC NGOÀI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG THỊ NHÀN
Huế, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản
thân. Các số liệu trong luận văn có được là trung thực và chưa
từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu có kế thừa
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác thì đều có trích dẫn cụ
thể, rõ ràng.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thúy
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn
này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô, gia
đình, bạn bè và các phòng ban liên quan. Tôi xin bày tỏ
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Khoa Ngữ
văn, Đại học Khoa học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
TS Trương Thị Nhàn, cô giáo hướng dẫn, người cô kính


mến đã hết lòng giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn
tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin dành sự biết ơn sâu sắc tới gia đình
đã luôn ủng hộ, động viên và luôn là hậu phương vững
chắc để hỗ trợ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể yên
tâm học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thúy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng
MỤC LỤC 4
Trang 4
Trang phụ bìa 4
Lời cam đoan 4
Lời cảm ơn 4
Mục lục 4
Danh mục bảng 4
PHỤ LỤC 7
DANH MỤC BẢNG 8
Số hiệu bảng 8
Tên bảng 8
Trang 8
2.1 8
Thống kê số lượng địa danh tâm linh ở thành phố Huế 8

26 8
2.2 8
Phân loại địa danh theo tôn giáo, tín ngưỡng 8
27 8
2.3 8
Phân loại địa danh theo tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ 8
29 8
2.4 8
Phân loại địa danh theo tiêu chí cấu tạo 8
36 8
2.5 8
Bảng phân loại địa danh theo tiêu chí trường nghĩa 8
49 8
2.6 8
Phân loại địa danh theo tiêu chí phương thức định danh 8
52 8
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích của đề tài 4
4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 6
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 7
7. Cấu trúc của luận văn 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 8
1.1. Khái quát về địa danh 8
1.1.1. Khái niệm địa danh 8
1.1.2. Chức năng của địa danh 9
1.1.3. Phân loại địa danh 11
1.2. Khái niệm từ và cụm từ 13

1.2.1. Khái niệm từ và đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt 13
1.2.2. Khái niệm cụm từ và cấu tạo cụm từ trong tiếng Việt 15
1.3. Các khái niệm tâm linh, địa danh tâm linh 16
1.3.1. Khái niệm tâm linh 16
1.3.2. Khái niệm địa danh tâm linh 17
1.4. Mối quan hệ giữa tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo 17
1.4.1. Khái niệm tín ngưỡng 17
1.4.2. Khái niệm tôn giáo 18
1.4.3. Mối quan hệ giữa tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo 19
1.5. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ 20
1.5.1. Khái niệm văn hóa 20
1.5.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 21
1.6. Đặc điểm tự nhiên, lịch sử, văn hóa và xã hội của thành phố Huế 22
1.6.1. Về mặt địa lý 22
1.6.2. Lịch sử và tên gọi 23
1.6.3. Văn hóa Huế 24
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA ĐỊA DANH TÂM LINH 26
Ở THÀNH PHỐ HUẾ 26
2.1. Thống kê và phân loại địa danh 26
2.1.1.Thống kê địa danh 26
2.1.2. Phân loại địa danh 27
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của địa danh tâm linh ở thành phố Huế 28
2.2.1. Đặc điểm về nguồn gốc ngôn ngữ của địa danh tâm linh ở thành phố
Huế 28
2.2.2. Đặc điểm về hình thức của địa danh 30
2.2.3. Đặc điểm về nội dung của địa danh 39
2.2.4. Đặc điểm về phương thức định danh 51
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CỦA ĐỊA DANH TÂM LINH 58
Ở THÀNH PHỐ HUẾ 58
3.1. Địa danh mang dấu ấn tôn giáo, tín ngưỡng 58

3.2. Địa danh thể hiện dấu ấn kiến trúc 62
3.3. Địa danh thể hiện dấu ấn lịch sử 64
3.4. Địa danh thể hiện đặc trưng phương ngữ thành phố Huế 69
3.5. Địa danh thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân 74
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê số lượng địa danh tâm linh ở thành phố Huế 26
2.2 Phân loại địa danh theo tôn giáo, tín ngưỡng 27
2.3 Phân loại địa danh theo tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ. 29
2.4 Phân loại địa danh theo tiêu chí cấu tạo 36
2.5 Bảng phân loại địa danh theo tiêu chí trường nghĩa 49
2.6 Phân loại địa danh theo tiêu chí phương thức định danh 52
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Địa danh là một phạm trù phản ánh nhiều khía cạnh địa lý, lịch sử, văn
hóa, xã hội… Địa danh cũng được xem là những tấm bia lịch sử, văn hóa
bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy, để hiểu rõ một vùng đất nào đó ta không thể
không quan tâm đến địa danh.
Địa danh là một đơn vị được cấu tạo từ chất liệu ngôn ngữ, nó là lớp từ
ngữ nằm trong từ vựng của một ngôn ngữ, được dụng để đặt tên cho các đối
tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt Trái đất. Trong quá trình ra đời, tồn
tại, phát triển địa danh luôn hoạt động và chịu sự tác động theo cơ chế hoạt
động của ngôn ngữ.
Nghiên cứu địa danh giúp soi sáng nhiều mặt cho các ngành khác của

khoa học ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phương ngữ học.
Không những thế, địa danh còn có tính bảo lưu mạnh mẽ, địa danh vẫn có thể
tồn tại mặc dù đối tượng mà nó định danh không tồn tại nữa. Các nhà nghiên
cứu đã gọi địa danh là những “hóa thạch”, những “trầm tích” để ta lần mở lại
quá khứ. Có thể coi địa danh là mảnh đất màu mỡ luôn hứa hẹn cho người
nghiên cứu những phát hiện bất ngờ, thú vị.
Mặt khác, địa danh bao giờ cũng có những mối quan hệ gắn bó, những
ảnh hưởng, tác động qua lại với văn hóa, lịch sử, địa lý và dân cư nơi nó tồn
tại. Nghiên cứu địa danh trong những mối quan hệ với các mặt có liên quan,
giúp phác thảo bức tranh toàn cảnh về cơ cấu và sự giao thoa giữa các yếu tố
có ảnh hưởng lẫn nhau trên một vùng đất, từ quá khứ đến hiện tại. Không thể
hiểu đúng địa danh nếu không sử dụng những tri thức về ngôn ngữ.
Chịu sự ảnh hưởng, tác động của những đặc điểm về địa lý, lịch sử nền
văn hóa của Huế vừa có những nét của tầng văn hóa Việt, văn hóa Hán và
những nét của văn hóa Chăm còn được lưu giữ. Đặc biệt Huế được coi là “thủ
2
đô Phật giáo” của Việt Nam, nơi đây còn là cố đô của nước Việt nên văn hóa
của thành phố Huế vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc vừa có những giao thoa
văn hóa Phương Tây.
Thành phố Huế là địa phương có đặc điểm về ngôn ngữ, lịch sử, văn
hóa tương đồng với nhiều địa phương ở vùng Bắc Trung Bộ. Vì vậy, nghiên
cứu địa danh tâm linh ở thành phố Huế giúp ta có cái nhìn khá toàn diện về
đặc điểm địa danh tâm linh của khu vực miền Trung cũng như của Việt Nam.
Là người đang sinh sống và làm việc tại thành phố Huế, nhận thấy rõ
những giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt là những nét văn hóa tâm linh của
vùng đất này. Chính vì thế, tôi mạnh dạn vận dụng những kiến thức ngôn ngữ
học vào việc nghiên cứu địa danh tâm linh ở thành phố Huế để từ đó thấy rõ
thành phố Huế là nơi hội tụ của nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, vừa là
nơi có bề dày lịch sử với những nét văn hóa truyền thống đặc sắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về địa danh đã có lịch sử từ lâu đời. Có thể thấy, ngay từ
trước Công nguyên con người đã bắt đầu quan tâm đến địa danh. Tuy nhiên, ở
giai đoạn này người ta mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm, thống kê địa danh.
Tiên phong trong lĩnh vực xây dựng hệ thống lý thuyết về địa danh là các nhà
địa danh học Xô Viết. Cụ thể, N. I. Niconovl (1964) trong “Các khuynh
hướng nghiên cứu địa danh” và E.M.Murazev (1964) trong “Những khuynh
hướng nghiên cứu địa danh học” đã cùng quan tâm đến vấn đề khuynh hướng
nghiên cứu chung.
Cùng góp phần cho sự sáng tỏ về lý thuyết có A. I. Popov (1964) đưa ra
“Những nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu địa danh”, trong đó chú trọng 2
nguyên tắc chính là phải dựa vào tư liệu lịch sử của các ngành ngôn ngữ học,
địa lý, lịch sử học và phải thận trọng khi sử dụng phương pháp thành tố để
phân tích ngữ vi của địa danh. Ngoài ra còn có Iu. A. Kapenco (1964) với
3
những suy nghĩ khi “Bàn về địa danh học đồng đại” . N. V. PodonXKaja
trong phân tích lý giải “Địa danh mang những thông tin gì” cũng đã góp thêm
những ý kiến cho sự nghiên cứu địa danh, đi sâu vào bản chất bên trong của
đối tượng. Tác phẩm đã đặt ra những vấn đề vừa mang tính vụ thể vừa mang
tính khái quát tổng hợp cao. Ngoài các nhà địa danh học người Xô Viết, các
nhà địa danh ở các nước khác cũng đã góp phần vào sự phong phú, đa dạng
của lĩnh vực này. C-Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã chú trọng
trong việc nêu ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tìm các hình thức
cổ của từ cấu tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh đó thì phải
dựa trên kiến thức ngữ âm của địa phương.
Nghiên cứu địa danh học có những cuốn sách sưu tầm địa danh nổi tiếng
như “Hán thư” của Ban Cố thời Đông Hán, “Thủy Kinh chú” của Lê Đại
Nguyên thời Bắc Ngụy.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu địa danh cũng ra đời từ khá sớm và để lại
cho chúng ta nhiều tài liệu quý, nhiều công trình có giá trị. Nhiều nhà sử học,
địa phương học đã dày công tìm hiểu tên đất, tên người, phục vụ cho những

công trình nghiên cứu như: “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An (viết năm
1555) “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (viết vào thế kỷ XVIII).
Thời Pháp thuộc, nhiều nhà nghiên cứu chuyên tâm hơn về địa danh
nhưng hầu hết tác phẩm của họ chỉ nhằm phục vụ cho một mục đích khác,
một ngành khác không phải cho địa danh học thuần túy.
Mãi cho đến những năm sau Cách mạng Tháng Tám, các vấn đề liên
quan đến địa danh mới được chú ý quan tâm. Từ những bài nghiên cứu có quy
mô nhỏ “Thử bàn về địa danh Việt Nam” của Trần Thanh Tâm đến nay đã
xuất hiện những công trình mang tính chuyên khảo về địa danh như “Địa
danh thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Trung Hoa, “Đặc điểm địa danh thành
phố Hải Phòng” của Nguyễn Kiên Trường. Đây là những công trình nghiên
4
cứu địa danh đã cung cấp các khái niệm và phương pháp giúp chúng tôi
nghiên cứu đề tài này.
Thành phố Huế là vùng đất hình thành rất sớm, với bề dày về văn hóa,
lịch sử đã tạo nên cho mình một nét văn hóa đặc sắc trong đó có văn hóa định
danh cho sự vật. Là kinh đô của vương triều Nguyễn, Huế vừa là nơi hội tụ của
những tinh hoa văn hóa Việt vừa là điểm giao thoa đậm nét của văn hóa Hán,
văn hóa Chăm và văn hóa Âu Châu. Nơi đây được xem là thủ đô Phật giáo của
Việt Nam cũng là nơi in dấu của nhiều tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, đạo
Cao Đài Vì vậy, các địa danh tâm linh của Huế rất phong phú.
Tuy nhiên, từ trước tới nay khi nghiên cứu địa danh về Huế các tác giả
thường tiếp cận ở các mặt như “Tên làng xã Thừa Thiên Huế qua các thời kỳ
lịch sử” – Trần Đại Vinh (2002) hay khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Mai
“Địa danh văn hóa lịch sử - danh thắng trên báo Thừa Thiên Huế”. Mới đây
nhất là luận án tiến sĩ của Trần Văn Sáng “Địa danh có nguồn gốc dân tộc
thiểu số ở tây Thừa Thiên Huế”. Các công trình nghiên cứu về các địa danh
tâm linh của Huế thường được tiếp cận dưới cái nhìn của triết học hoặc sưu
tầm với mục đích phục vụ du lịch chứ chưa có tác phẩm nào phản ánh dưới
góc nhìn ngôn ngữ học.

Vì vậy, với đề tài này tôi muốn tiếp cận và nghiên cứu địa danh tâm
linh ở thành phố Huế dưới góc nhìn ngôn ngữ học để góp phần hoàn thiện cái
nhìn đa chiều về địa danh của Thừa Thiên Huế nói chung và địa danh tâm linh
của thành phố Huế nói riêng.
3. Mục đích của đề tài
Mục đích của tôi trong đề tài này là nghiên cứu các địa danh tâm linh
của thành phố Huế trên các phương diện định danh, đặc điểm về mặt cấu
tạo, đặc điểm ý nghĩa cùng như những đặc trưng văn hóa qua mối quan hệ
địa danh với lịch sử, địa lý, phương ngữ. Đề tài xin đưa ra những nét đặc
5
sắc trong một nền văn hóa đa dạng và có bề dày của một quá trình phát
triển. Đồng thời sẽ thấy được nguồn gốc của những sinh hoạt văn hóa dân
gian, những tín ngưỡng nằm sâu thẳm trong đời sống tâm linh của người
dân xứ Huế. Từ đó thấy được sự giao thoa giữa ngôn ngữ với văn hóa và
lịch sử của vùng đất này.
Thông qua việc thu thập miêu tả phân tích các địa danh tâm linh ở
thành phố Huế, tôi hy vọng sẽ góp phần hoàn chỉnh kiến thức nghiên cứu địa
danh văn hóa của Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Công
trình nghiên cứu có ý nghĩa khái quát một cách có hệ thống các địa danh góp
phần lưu giữ những tài liệu quý giá cho thành phố Huế. Qua đó, quảng bá
nhằm tôn vinh nét đẹp truyền thống của cố đô Huế.
4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của bài luận văn là những đặc điểm về ngôn ngữ và văn hóa
của các địa danh tâm linh trên địa bàn thành phố Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống các địa danh tâm linh ở thành phố Huế như đền, chùa, nhà
thờ, niệm phật đường, đàn, điện, thánh thất, không tính đến các lăng tẩm, am
miếu nhỏ và nhà thờ họ.
4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với đề tài này, tôi muốn hoàn thành được nhiệm vụ quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề về lý luận, đề tài này sẽ bổ sung thêm
những lý luận về địa danh, qua đó đưa ra những khái niệm, những lý thuyết
về địa danh.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, đề tài sẽ góp phần vào việc nghiên cứu các
ngành khoa học khác như địa lý, giáo dục, lịch sử, văn hóa Và đây cũng là
6
sự khám phá trước những nét hấp dẫn riêng biệt của các địa danh tâm linh của
thành phố Huế. Qua đây, cũng góp phần phản ánh những nét đẹp truyền thống
của quê hương, từ đó có ý nghĩa giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tự hào về quê
hương đất nước và sẽ có cách giữ gìn trân trọng, phát huy.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Do đặc điểm của địa danh học nói chung, khi nghiên cứu đề tài này
chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp quy nạp. Tức là phải đi từ các cứ liệu cụ
thể, mô tả các sự kiện, sau đó rút ra nhận xét và kết luận khái quát.
Bên cạnh đó, phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp bao
trùm sẽ sử dụng trong luận văn.
Trong quá trình thu thập cứ liệu, tôi xin được sử dụng phương pháp
điền dã thực tế sau đó là các phương pháp thống kê, phân tích theo định
lượng, định tính.
Một phương pháp quan trọng nữa là phương pháp miêu tả ngôn ngữ.
Trong luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh lịch sử để thấy
những biến đổi mang tính quy luật (do ảnh hưởng của lịch sử, văn hóa) của
các địa danh tâm linh của thành phố Huế.
Ngoài ra, trong quá trình làm việc chúng tôi sẽ sử dụng kết hợp các
phương pháp liên ngành của văn hóa học, xã hội học.
5.2.Tư liệu nghiên cứu
Để thực hiện tốt đề tài, chúng tôi tham khảo tư liệu từ các tạp chí, sách

báo, luận văn có liên quan.
Bên cạnh đó, nguồn tư liệu lưu trữ hoàn chỉnh của các phường thuộc
thành phố Huế, tư liệu do học viện Phật giáo, tổng giáo phận Huế, trung tâm bảo
tồn di tích cố đô cung cấp… Đây là nguồn tài liệu quan trọng vì có tính minh xác
cao, đảm bảo tính pháp lý cho những điều được trình bày trong luận văn.
7
Đối với việc thống kê số liệu xin được phép thống kê địa danh ở thời điểm
hiện tại.
Từ những cứ liệu thu thập được chúng tôi sẽ tiến hành phân loại địa
danh và đi sâu vào phân tích những đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của vùng
đất được thể hiện qua tên gọi của địa danh.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Khi thực hiện đề tài này tôi mong muốn sẽ có những đóng góp cả về
mặt khoa học và thực tiễn.
Về mặt khoa học: luận văn sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề về địa danh và
địa danh tâm linh.
Về mặt thực tiễn: luận văn làm sáng tỏ những đặc điểm về ngôn ngữ và
văn hóa của địa danh trên nhưng bình diện như kiến trúc, lịch sử, đặc trưng
phương ngữ, dấu ấn tôn giáo, tín ngưỡng.
Bước đầu luận văn nghiên cứu những đặc điểm về ngôn ngữ và văn hóa
của địa danh trong mối quan hệ với địa lý, lịch sử của thành phố Huế.
Đây sẽ là nguồn tư liệu bổ ích, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận
nghiên cứu địa danh nói chung và địa danh thành phố Huế nói riêng.
Qua việc tìm hiểu những đặc điểm văn hóa thể hiện trong địa danh một
lần nữa luận văn chỉ rõ sự tương đồng về văn hóa và những sự tiếp xúc ngôn
ngữ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của thành phố Huế.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận

Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ của địa danh tâm linh ở thành phố Huế
Chương 3: Đặc điểm văn hóa của địa danh tâm linh ở thành phố Huế
8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát về địa danh
1.1.1. Khái niệm địa danh
Cho đến nay, đã có nhiều người đề cập tới, nhưng khái niệm địa danh
vẫn chưa tìm ra được một sự thống nhất tuyệt đối. Từ thực tế nhận thấy,
mỗi vùng đất, mỗi sự vật đều được gắn với một tên gọi riêng. Những tên
gọi này tồn tại trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Trong thuật ngữ quốc tế, những tên gọi địa lý ấy là “toponym”, khi dịch
sang tiếng Việt có nghĩa là “địa danh” hay “tên riêng chỉ đối tượng địa lý”.
Phân ngành chuyên nghiên cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình biến đổi
của địa danh gọi là địa danh học (topynymy). Theo Kadmon, thuật ngữ
“toponymy” có nguồn gốc từ Hy Lạp “topos” (name: tên gọi) và onyma
hay “onoma” (place: nơi chốn).
Qua nghiên cứu có thể nhận thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về địa
danh, tiêu biểu như:
A-V Superans Kaja, nhà ngôn ngữ học người Nga trong cuốn “Địa
danh là gì” đã đưa ra định nghĩa: “Địa danh là những từ ngữ biểu thị tên gọi
các địa điểm, mục tiêu địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” và ông
cũng chỉ rõ “Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những vật thể tự nhiên hay
nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn nhất
(các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (các ngôi nhà,
vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên gọi. Khác với những vật thể thông thường,
những mục tiêu địa lý có hai loại tên: Tên chung để xếp chúng vào hệ thống
cả khái niệm nào đó (núi, sông, thành phố, làng mạc) và tên riêng biệt của
từng vật thể” [22, tr.13].
9
Nguyễn Văn Âu xét từ góc độ ngôn ngữ - Địa lý- Văn hóa đã đưa ra

quan điểm: “Địa danh là tên đất gồm sông, núi, làng mạc… hay tên đất các
địa phương” [2, tr.5].
Với cách tiếp cận địa danh từ góc độ ngôn ngữ Lê Trung Hoa đã đưa ra
định nghĩa: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng
của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ (không
có ranh giới rõ ràng) và các công trình xây dựng thiên nhiên về không gian
hai chiều” [15, tr.9]… Nguyễn Kiên Trường thì cho rằng: “Địa danh là tên chỉ
các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái
đất” [25, tr.16]. Trần Văn Dũng thì lại đưa ra định nghĩa: Địa danh là tên gọi
những đối tượng địa lý tự nhiên và địa lý do con người kiến tạo.
Trần Văn Sáng trong luận án tiến sĩ: “Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ
dân tộc thiểu số ở Tây Thừa Thiên Huế”, đã đưa ra quan niệm: “Địa danh
chính là những từ, cụm từ được sử dụng để gọi tên các đối tượng không gian
địa lý, các đặc trưng địa hình, địa vật nào đó. Địa danh có tác dụng khu biệt,
định vị chính những đối tượng, không gian địa lý, những đặc trưng địa hình,
địa vật được gọi tên đó với những đối tượng, không gian địa lý, những đặc
trưng địa hình địa vật khác trong môi trường xung quanh” [20, tr.19].
Tiếp thu những ý kiến của các học giả đi trước và hiểu biết từ thực tế,
chúng tôi xin đưa ra quan niệm về địa danh: Địa danh là những từ hoặc ngữ
cố định, được dùng để gọi tên cho các đối tượng địa lý, không gian địa lý, các
đặc trưng địa hình địa vật nào đó.
1.1.2. Chức năng của địa danh
Có thể thấy, xét từ góc độ ngôn ngữ học địa danh có các chức năng như sau:
* Chức năng định danh sự vật
Chức năng định danh của địa danh được thể hiện ở chỗ: Nếu thừa nhận
ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị thì địa danh cũng như từ, cụm từ, địa
10
danh cũng là các đơn vị định danh. Chúng làm thành một tiểu hệ thống riêng
biệt và nằm trong hệ thống các đơn vị định danh ấy. Dễ dàng nhận thấy, nếu
như mất đi những tên riêng, mất đi những địa danh là con người đã mất đi

những gì được gọi là dấu hiệu khu biệt giữa những thực thể cùng tồn tại trong
thế giới, và từ đó sẽ mất đi cả cái khung định vị, khung quy chiếu quan trọng
trong môi trường sống của mình. Như vậy, chức năng định danh sự vật là
chức năng quan trọng của tên riêng và địa danh.
* Chức năng cụ thể hóa, cá thể hóa đối tượng
Địa danh là tên gọi riêng của các đối tượng địa lý nên nó có chức năng
cụ thể hóa, cá thể hóa đối tượng. Khi nói về chức năng cụ thể hóa, cá thể hóa
đối tượng Superans Kaja đã nhận định: “Ý nghĩa là chức năng đầu tiên, cũng
là chức năng cơ bản nhất, quan trọng nhất của địa danh – đó là ấn định một vị
trí, một điểm trên bề mặt trái đất” [22, tr.1]. Và chức năng chính của địa danh
đó là “phân biệt các đối tượng địa lý. Chức năng đó thực hiện tốt như nhau,
kể cả ở địa danh mà ta biết rõ nguồn gốc, cũng như ở các địa danh mà ý nghĩa
của nguồn gốc từ đã bị xóa nhòa” [22, tr.82].
* Chức năng phản ánh
Địa danh là sản phẩm có ý thức của con người. Mỗi địa danh ra đời
trong một hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, cụ thể. Vì vậy, địa danh có
thể được xem là những tấm bia lịch sử, văn hóa bằng ngôn ngữ. Những sự
kiện lịch sử, những nét đặc trưng văn hóa từng vùng, miền và cả những ước
mơ, nguyện vọng của nhân dân đều được phản ánh rõ nét qua địa danh.
* Chức năng bảo tồn
Khi thu nhận vào mình những thành tố mới, mang tính chất thời sự đối
với mỗi thời kỳ “các địa danh dường như đã “đóng hộp” bảo quản chúng để
lưu giữ cho một thời gian lâu dài” [22, tr.86]. Và có lẽ, “mỗi tên gọi, dù ta
cảm thấy nó đơn giản và buồn chán đến đâu, cũng là một nhân chứng của một
11
sự kiện đã trôi qua, nó phản ánh nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán, công
việc làm ăn, thế giới quan của tổ tiên chúng ta” [22,tr.108]. Thật có lý khi cho
rằng: “các địa danh gắn bó với đời sống văn hóa bằng hàng trăm sợi chỉ vô
hình, vì thế mỗi địa danh đều có thể được coi như một di tích văn hóa của thời
đại mình” [22,tr.118].

Như vậy, trong bốn chức năng của địa danh thì chức năng định danh và
chức năng cụ thể hóa, cá thể hóa đối tượng được xem là chức năng bản chất, gắn
bó với thuộc tính ngôn ngữ của địa danh. Hai chức năng phản ánh và bảo tồn có
thể được xem là chức năng bổ sung, gắn với thuộc tính văn hóa của địa danh.
1.1.3. Phân loại địa danh
Vấn đề phân loại địa danh là một vấn đề hết sức phức tạp. Cho đến nay,
vẫn chưa có một cách phân loại nào tối ưu cho mọi công trình nghiên cứu. Tùy
vào hướng tiếp cận mỗi nhà nghiên cứu sẽ chia địa danh theo một cách riêng.
A. Dauzat trong “La topony mite Française” (1948) dựa vào tiêu chí
nguồn gốc ngôn ngữ đã chia địa danh thành 4 loại:
1) Địa danh có cơ sở tiền Ấn Âu
2) Địa danh có các từ nguyên Gô-loa La Mã
3) Địa danh từ tiền Latin về nước trong thủy danh học
4) Địa danh Gô-loa La Mã của vùng Auvergne và Velay
Ch. Rostaing trong “Les noms des lieux” lấy tiêu chí sự kết hợp giữa nguồn
gốc ngôn ngữ và đối tượng địa lý để phân loại địa danh thành 11 loại khác nhau.
A.V. Superans Kaja trong “Địa danh là gì” đã chia địa danh thành 8
loại bao gồm: Điểm dân cư (Oiconim); Địa điểm phi dân cư (micro toponim);
Tên gọi sông (ghidronim); Tên gọi núi (Oronim); Tên đường phố (hidronim);
Tên mạng lưới giao thông (dromonim); Tên quảng trường (agronim); Tên các
công trình bên trong đường phố (urbanonim).
12
Trong khi nghiên cứu, nhiều nhà địa danh học Việt Nam đã đưa ra cách
phân loại của mình.
Nguyễn Văn Âu trong “Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” đã
đưa ra cách phân loại địa danh, kiểu địa danh và các dạng địa danh. Theo ông,
có 2 loại địa danh là địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội. Từ 2 loại
này, ông lại chia thành 7 kiểu địa danh là thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng
xã, huyện thị, tỉnh thành phố, quốc gia. Từ 7 kiểu đó lại tiếp tục được chia
thành 11 dạng địa danh nhỏ hơn là sông, ngòi, hồ đầm, hải đảo, đồi núi, rừng

rú, truông trảng, làng xã, quận huyện, tỉnh, thành phố và quốc gia. Có thể
thấy, cách phân loại này không dựa vào đặc điểm địa lý xã hội. Vì vậy, kết
quả thiếu logic, không đưa ra một trật tự có tính chất khái quát để nghiên cứu
địa danh từ góc độ ngôn ngữ học.
Lê Trung Hoa trong công trình “Nguyên tắc và phương pháp nghiên
cứu địa danh”, đã dựa vào đối tượng và căn cứ vào tiêu chí tự nhiên và không
tự nhiên chia địa danh thành 2 nhóm là địa danh tự nhiên và địa danh không
tự nhiên. Trong nhóm địa danh không tự nhiên lại được chia thành 3 nhóm
nhỏ hơn là: địa danh chỉ các công trình xây dựng, địa danh chỉ các đơn vị
hành chính, địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng.
Phan Xuân Đạm tiếp thu ý kiến của các tác giả đi trước và khắc phục
những gì bất ổn, đã chia địa danh theo thành tố chung và phân thành các
trường từ vựng – ngữ nghĩa theo tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên. Ông đã
chia địa danh Nghệ An thành 2 loại lớn, 5 kiểu loại nhỏ và 91 dạng.
Dẫu biết tuy là khó khăn, nhưng việc phân loại địa danh theo ngữ
nguyên là hết sức cần thiết. Đối với đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của
địa danh tâm linh ở thành phố Huế”, chúng tôi xin trình bày cách phân loại
địa danh tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên. Như vậy, theo chúng tôi địa
13
danh tâm linh ở thành phố Huế thuộc loại địa danh không tự nhiên và xét về
mặt ngữ nguyên thì đây là những địa danh có ý nghĩa rõ ràng
1.2. Khái niệm từ và cụm từ
1.2.1. Khái niệm từ và đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt
* Khái niệm từ
Từ là một đơn vị cơ bản trong hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ. Từ là
đơn vị chủ yếu, có khả năng vận dụng độc lập, mang nghĩa từ vựng và nghĩa
ngữ pháp. Theo Nguyễn Thiện Giáp, hiện nay có khoảng 300 định nghĩa khác
nhau về từ. Cho đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa đưa ra một sự thống
nhất chung về khái niệm từ. Sau đây tôi xin đưa ra một số khái niệm từ được
giới nghiên cứu thường xuyên sử dụng.

Theo F. de Saussure thì: “… từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư
tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ,
mặc dù khái niệm này khó định nghĩa” [21, tr.21].
F.F Fortunator đã định nghĩa: “từ là bất cứ âm nào của lời nói, trong ngôn
ngữ từ có một ý nghĩa ngữ pháp khác với ý nghĩa của những âm cùng là từ khác”.
E. Sapir lại đưa ra định nghĩa: “Từ là một đoạn nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn
toàn độc lập và bản thân nó có thể làm thành một câu tối giản” [12, tr.23].
V. M Zhirmunsskiy lại cho rằng: “Từ là một đơn vị nhỏ nhất của ngôn
ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [12, tr.23].
Đến với vấn đề từ, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng có nhiều ý kiến
khác nhau, và việc phân biệt đâu là từ, cụm từ cũng còn mập mờ, không rõ ràng.
Đỗ Hữu Châu đã nhận định: “Từ tiếng Việt là những phân đoạn ngữ âm
cố định phản ánh một cách trực tiếp theo quan hệ 1/1 số lượng hình vị và
phương thức cấu tạo”.
14
Võ Đức Nghiệu thì định nghĩa từ tiếng Việt như sau: “Từ là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi
tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu”.
Trong khi đó, Nguyễn Thiện Giáp lại nêu quan niệm: “từ của tiếng Việt
là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp
nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định lớn nhất trong tiếng Việt
và nhỏ nhất để cấu tạo câu” [12, tr.16].
Nguyễn Kim Thản định nghĩa: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ”
Để nhận diện và phân tích cấu tạo của địa danh trong luận văn, chúng
tôi xin được dựa vào định nghĩa của PGT. TS. Hoàng Tất Thắng trong “Cơ sở
ngôn ngữ học” đã viết: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, có tính thống
nhất về hình thức và độc lập về ý nghĩa” [27, tr.126].
Chính tính hoàn chỉnh về ý nghĩa và khả năng tách biệt của từ là cơ sở
để phân biệt từ và các bộ phận tạo thành của từ (thán từ, phụ tố, thành tố của
từ ghép…) và phân biệt với các tổ hợp vốn do các từ tạo thành (cụm từ).

* Đặc điểm cấu tạo từ trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, hình vị là đơn vị cấu tạo từ. Hình vị là hình thức ngữ
âm có nghĩa nhỏ nhất được dùng để tạo ra các từ theo phương thức cấu tạo từ
của tiếng Việt.
Phương thức cấu tạo từ là: cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị
để tạo ra các từ. Trong tiếng Việt có các phương thức như: phương thức từ
hóa hình vị, phương thức láy hình vị, phương thức ghép hình vị.
+ Từ hóa hình vị: là phương thức tác động vào bản thân một hình vị,
làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ. Biến hình vị thành
từ mà không thêm, bớt gì vào hình thức của chúng.
Ví dụ: hình vị Đi → từ đi
15
+ Láy hình vị: là phương thức tác động vào một hình vị cơ sở làm xuất
hiện một hình vị láy giống nó một bộ phận hay toàn bộ về âm thanh. Cả hình
vị cơ sở và hình vị láy sẽ tạo thành một từ.
Từ = A + A’ Ví dụ: Lơ thơ = lơ + thơ
+ Ghép hình vị: là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị
có nghĩa, kết hợp chúng với nhau để tạo ra một từ (mang đặc điểm ngữ pháp
và ý nghĩa giống như một từ).
Từ = A + B Ví dụ: Áo quần = áo + quần
1.2.2. Khái niệm cụm từ và cấu tạo cụm từ trong tiếng Việt
* Khái niệm cụm từ
Khi các từ kết hợp với nhau theo quan hệ khác nhau sẽ tạo ra các đơn
vị cú pháp. Đơn vị cú pháp nhỏ nhất chính là cụm từ. Cụm từ là những tổ hợp
gồm từ hai từ trở lên, trong đó có ít nhất một thực từ.
- Đặc điểm chủ yếu của cụm từ
+ Có thể tái hiện trong lời nói như từ
+ Về mặt ngữ nghĩa, cụm từ cũng biểu hiện các hiện tượng của thực tế
khách quan
+ Về mặt ngữ pháp, cụm từ có thể làm thành phần câu

Trong ngôn ngữ, có hai lọai cụm từ là cụm từ tự do và cụm từ cố định.
Trong đó, cụm từ tự do là các đơn vị ngữ pháp, cụm từ cố định là những đơn
vị từ vựng (thành ngữ, quán ngữ).
Tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, âm tiết tính giá trị, ý
nghĩa của từ nằm bên ngoài từ thể hiện qua quan hệ ngữ pháp nên việc xác
định từ và cụm từ là khó khăn lớn. Để thuận lợi cho việc nhận diện, chúng tôi
theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu. Trong đó, xác định cụm từ tự do là những
nhóm gồm hai thực từ trở lên, kết hợp tạm thời theo quy luật ngữ pháp để
diễn đạt một khái niệm nào đó. Cụm từ cố định là những đơn vị sẵn có như
16
những từ trong ngôn ngữ. Chúng có tính hoàn chỉnh về nội dung và hình thức
được dùng để cấu tạo câu. Cụm từ cố định mang tính biểu trưng, tính dân tộc,
tính biểu thái, tính hình tượng và tính cụ thể.
* Đặc điểm cấu tạo cụm từ trong tiếng Việt
Ở đây chúng tôi xem cụm từ cố định như những đơn vị từ nên việc xem
xét cấu tạo chỉ xin bàn luận về cụm từ tự do. Mô hình cấu trúc của cụm từ là:
Phần phụ trước + phần trung tâm + phần phụ sau
Trong khi nghiên cứu, các tác giả đã phân biệt ba loại cụm từ: Cụm từ
liên hợp, cụm từ chính phụ và cụm từ chủ vị.
1.3. Các khái niệm tâm linh, địa danh tâm linh
1.3.1. Khái niệm tâm linh
Khi được bàn về khái niệm tâm linh, đã có nhiều người đưa ra những
quan điểm khác nhau.
Theo Osho, một bậc thầy tâm linh thế kỷ 20 thì: “Tâm linh là không bị
đồng nhất với những gì bạn thấy, cái gì có thể là một đối với bạn- sao cho
chung cuộc bạn chỉ còn là chủ thể. Tính chủ quan thuần khiết là tâm linh…
Với tôi tâm linh là sống một cách toàn bộ, mãnh liệt, đốt cháy ngọn đuốc của
bạn từ hai đầu”.
Theo quan niệm của Phật giáo thì tâm linh nghĩa là:
“Chỉ cho cái gì cao cả nhất, sâu sắc nhất trong tâm người”

Theo Từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên
thì tâm linh là: “Khả năng biết trước được một biến cố nào đó sẽ xảy ra với
mình, theo quan niệm duy tâm (ít dùng), tâm hồn, tinh thần”.
Liên quan đến tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là Spiritualisn (duy
linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn giáo,
triết học về sự tồn tại sau cái chết. Thông linh luận giả định về một số hiện
tượng liên quan đến sự can thiệt của người chết.
17
Từ e dè, nghi ngại, “tâm linh” trở thành một từ thường xuyên được sử
dụng, tuy nó có nội dung rất phiếm định và mơ hồ. Dù có ý thức rõ ràng hay
không, chúng ta đều hiểu “tâm” như nguồn gốc phát sinh, như người đạo diễn
ẩn diện, như nguyên lý động lực học của tư duy, tình cảm, ý chí, ham muốn…
tóm lại của mọi hoạt động hay đời sống tinh thần. “Linh” hay linh thiêng có
tác dụng hay hiệu lực “vật chất” lên đời sống của con người hay tồn tại của
vật thể. Tâm linh là cái tâm phiếm hình nhưng lại có hiệu lực linh.
1.3.2. Khái niệm địa danh tâm linh
Như trên đã trình bày về khái niệm tâm linh, từ khái niệm đó, chúng ta
có thể rút ra được thế nào là địa danh tâm linh.
Địa danh tâm linh là những địa danh luôn mang trong mình sức hấp dẫn
bởi giá trị về mặt tâm linh nhất định. Đời sống tâm linh chứa đựng những nét
đẹp văn hóa của cả dân tộc, hay in dấu những sự kiện lịch sử nổi bật và đặc biệt
là những ước nguyện của con người. Chính vì vậy, địa danh tâm linh là nơi con
người thể hiện nét đẹp văn hóa cũng là chốn để họ thực hiện các hoạt động
phục vụ cho nhu cầu của đời sống tâm linh.
Từ những nhận định trên, có thể khái quát: địa danh tâm linh là những
địa danh gắn với đời sống tâm linh( tôn giáo, tín ngưỡng ) của con người. Đó
cũng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa tâm linh.
Địa danh tâm linh kết hợp được nhiều yếu tố trong mình, có cả đặc
trưng của địa danh văn hóa, địa danh lịch sử, địa danh danh thắng. Nhưng dễ
dàng nhận thấy, nổi bật nhất chính là phục vụ các nhu cầu về tâm linh.

1.4. Mối quan hệ giữa tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo
1.4.1. Khái niệm tín ngưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên “tín ngưỡng là lòng tin
theo một Tôn giáo nào đó”.
Tín ngưỡng Tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng.

×