Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

dạy học ngữ pháp thcs lớp 8 theo quan điểm giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.84 KB, 95 trang )

Bĩ GIAẽO DUC VAè AèO TAO
AI HOĩC HU
TRặèNG AI HOĩC Sặ PHAM
HOAèNG THậ BNG
DAY HOĩC NGặẻ PHAẽP LẽP 8
TRUNG HOĩC
C S THEO QUAN IỉM GIAO
TIP
Chuyờn ngnh: Lý lun v phng phỏp dy hc Vn Ting Vit
Mó s: 60 14 10
LUN VN THAC Sẫ GIAẽO DUC HOĩC
NGI HNG DN KHOA HC
TS. HONG THO NGUYấN
i
Huế, 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Quảng Trị, tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Bông
ii
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý
thầy cô, gia đình, cơ quan, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Hoàng
Thảo Nguyên, người đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo


đã tham gia giảng dạy lớp cao học “Lí luận và phương pháp dạy
học Văn - Tiếng Việt” khóa XX.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, cơ quan, bạn
bè, đồng nghiệp - những người đã luôn quan tâm, chia sẻ, động
viên tôi, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi tham gia học tập và hoàn
thành luận văn.
Quảng Trị, tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Bông
iii
iii
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA i
LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN iii
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG 4
DANH MỤC VIẾT TẮT 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
5. Phương pháp nghiên cứu 12
6. Cấu trúc của luận văn 13
NỘI DUNG 14
CHƯƠNG 1 14
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 14
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 14

1.1.1. Cơ sở Ngôn ngữ học của việc dạy học Ngữ pháp tiếng Việt ở lớp 8
THCS 14
1.1.1.1. Tính hệ thống của Ngôn ngữ 14
1.1.1.2. Cơ sở Ngữ pháp học của chương trình Ngữ pháp lớp 8 14
1.1.1.3. Lý thuyết giao tiếp với việc dạy học Ngữ pháp ở THCS 19
1.1.1.4. Các quan điểm dạy học tiếng Việt nói chung ngữ pháp nói riêng 24
1.1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 8 trong việc học Ngữ pháp tiếng
Việt 25
1.1.3. Phương pháp dạy học tiếng Việt với việc dạy học Ngữ pháp lớp 8 27
1
1.1.3.1. Nguyên tắc dạy học Ngữ pháp ở trường phổ thông 28
1.1.3.2. Cách thức tổ chức dạy học Ngữ pháp ở THCS 30
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 33
1.2.1. Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 - phần Ngữ pháp 33
1.2.2. Tình hình dạy học phần Ngữ pháp lớp 8 nhìn từ góc độ quan điểm
giao tiếp 34
CHƯƠNG 2 40
TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ PHÁP Ở LỚP 8 THCS THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP 40
2.1. Định hướng chung 41
2.1.1. Dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp cần tuân thủ nguyên tắc
giao tiếp trong dạy học tiếng Việt 42
2.1.2. Dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp cần tuân thủ nguyên tắc
phát triển ngôn ngữ gắn liền với phát triển tư duy 43
2.1.3. Dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp cần thực hiện phương
hướng tích hợp trong dạy học Ngữ văn: 44
2.2. Tổ chức dạy học ngữ pháp lớp 8 theo quan điểm giao tiếp 45
2.2.1. Tổ chức dạy học bài lý thuyết ngữ pháp 45
2.2.1.1 Yêu cầu của ngữ liệu (mẫu) 45
2.2.1.2 Hướng dẫn HS hình thành khái niệm ngữ pháp 47
2.2.2. Tổ chức dạy học bài thực hành ngữ pháp 50

2.2.2.1 Yêu cầu hệ thống bài tập ngữ pháp 50
2.2.2.2 Hệ thống bài tập dạy học ngữ pháp 53
2.2.2.3 Hướng dẫn HS rèn luyện kỹ năng ngữ pháp qua phần thực hành 62
2.2.3. Tổ chức dạy bài ôn tập ngữ pháp 63
2.2.3.1 Đặc điểm của bài ôn tập ngữ pháp 63
2.2.3.2 Tổ chức dạy ôn tập ngữ pháp 64
2.3. Kết luận chương 2 65
CHƯƠNG 3 66
2
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 66
3.1. Mục đích và yêu cầu của việc thực nghiệm 66
3.1.2. Đối tượng và địa bàn 66
3.1.3. Nội dung và các bước tiến hành triển khai thực nghiệm 67
3.1.4. Thời gian thực nghiệm 67
3.2. Quá trình thực nghiệm 68
3.2.1. Tổ chức dạy thực nghiệm 68
3.2.2. Kết quả thực nghiệm 68
3.3.1. Đánh giá sự khác biệt giữa lớp TN và lớp ĐC 70
3.3.2. Đánh giá kết quả HS 71
3.3.2.1 Đánh giá qua bài kiểm tra 71
3.3.2.2 Nhận xét chung kết quả thực nghiệm 72
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Kết quả khảo sát GV 36
Bảng 1.2. Kết quả khảo sát của HS 37
Bảng 3.1. Thống kê đối tượng và địa bàn thực nghiệm 66
Bảng 3.2. Kết quả điểm kiểm tra của HS khối 8 71

Bảng 3.3. Kết quả tổng hợp điểm kiểm tra của HS lớp TN và lớp ĐC 71
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
GT : Giao tiếp
QĐGT : Quan điểm giao tiếp
TV : Tiếng Việt
THCS : Trung học cơ sở
SGK : Sách giáo khoa
ĐC : Đối chứng
TN : Thực nghiệm
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người sinh ra và bắt đầu phát triển từ khi có ngôn ngữ vì có
ngôn ngữ loài người mới phát triển vượt bậc so với các động vật khác. Trong
ngôn ngữ có ba bộ phậncơ bản: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Người ta có thể
có nhiều từ của một ngôn ngữ nhưng không thể giao tiếp nếu không chiếm lĩnh
được tri thức ngữ pháp của ngôn ngữ đó. Ngữ pháp là “hệ thống quy tắc kết hợp
từ, dùng từ đặt thành câu – đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện được chức năng
giao tiếp – đồng thời tạo ra khả năng hiểu biết những câu do người bản ngữ nói
ra trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định” [32, tr, 93].
Do vai trò không thể thiếu của ngữ pháp trong ngôn ngữ, ngữ pháp
được quan tâm nghiên cứu. Ngữ pháp học là một trong ba bộ phận cơ bản của
Ngôn ngữ học. Các nghiên cứu lý luận về ngữ pháp góp phần thúc đẩy ngữ
pháp học phát triển, hỗ trợ cho sự phát triển lời nói của mỗi người.
Trong nhà trường phổ thông, để đảm bảo cho mục tiêu hình thành và
rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh, chương trình và sách giáo khoa –
phần Tiếng Việt đã quan tâm xây dựng nội dung dạy học, nghiên cứu phương

pháp dạy học ngữ pháp phù hợp với mục tiêu dạy học – giáo dục chung, phù
hợp với đặc điểm bộ môn. Ở trường THCS, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học
sinh, chương trình ngữ pháp cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
nhất, thiết yếu nhất làm cơ sở cho học sinh phát triển ngôn ngữ.
Kiến thức ngữ pháp là loại kiến thức đặc thù, mang tính trừu tượng
khái quát cao, phương pháp dạy học truyền thụ kiến thức theo kiểu đi thẳng từ
lý thuyết khoa học đến thực hành đã trở nên kém hiệu quả. Hiện nay, để nâng
cao chất lượng dạy học tiếng Việt, ở trường phổ thông đã hình thành quan
điểm dạy học theo quan điểm giao tiếp. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
thực sự đã đem lại hứng thú, tính tích cực và hiệu quả cao trong dạy học tiếng
Việt, trong đó có kiến thức ngữ pháp. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm
giao tiếp trong dạy học tiếng Việt nói chung trong dạy học ngữ pháp nói riêng
6
chưa được giáo viên các cấp quan tâm đầy đủ, tình trạng dạy học ngữ pháp áp
đặt kiến thức, truyền thụ kiến thức một chiều trước đây còn phổ biến, chất
lượng sử dụng Tiếng Việt của học sinh còn nhiều hạn chế. Vì những lý do
trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài chọn Dạy học ngữ pháp THCS lớp 8
theo quan điểm giao tiếp, nhằm góp phần cụ thể hóa quan điểm dạy học
chung vào một mảng kiến thức cụ thể với mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến vấn đề dạy học ngữ pháp và dạy học ngữ pháp theo quan
điểm giao tiếp có các nhóm công trình nghiên cứu sau đây:
* Các công trình tâm lý học đề cập đến giao tiếp và kỹ năng giao tiếp
bằng ngôn ngữ
Áp dụng lý thuyết hội thoại của Ngôn ngữ học vào dạy học tiếng, từ
những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, hướng dạy học theo quan
điểm giao tiếp đã xuất hiện và hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi để dạy
tiếng ở nhiều nước trên thế giới, những thuật ngữ chuyên ngành như ngôn ngữ
học giao tiếp, năng lực giao tiếp, năng lực ngôn ngữ, hành động lời nói…đã

trở nên quen thuộc với nhiều người.
Trong cuốn tài liệu Tâm lý học đại cương, của PGS.TS Trần Trọng
Thủy và PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn khẳng định rằng: “Giao tiếp chính là
một trong những cơ sở xã hội của hiện tượng tâm lý người” [42, tr 18]. Nhìn
từ góc độ Giáo dục học, tác giả Nguyễn Hữu Châu trong Những vấn đề cơ
bản về chương trình và quá trình dạy học cũng đã đề cập đến vấn đề ảnh
hưởng của giao tiếp đến chất lượng giảng dạy của người GV trong quá trình
dạy học. Trong đó tác giả mô tả quá trình giao tiếp những rào cản trong giao
tiếp mà đặc biệt là sự hạn chế về vấn đề kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) của học
sinh, đối với Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, nghiên
cứu các hiện tượng và quy luật tâm lý có tính chất chuyên biệt dưới ảnh
hưởng của tác động lứa tuổi, tác động sư phạm để tìm ra nguyên nhân, động
7
lực của sự phát triển tâm lý qua các thời kỳ khác nhau trong tâm sinh lý của
học sinh phổ thông.
Nguyễn Huy Sinh -Trần Trọng Thủy trong nhập môn khoa học giao tiếp,
Nguyễn Bá Minh trong Nhập môn khoa học giao tiếp, Giao tiếp sư phạm của
Nguyễn Văn Lê hay Nguyễn Văn Lũy – Trần Thị Tuyết Hoa trong giáo trình
Giao tiếp với trẻ em, đều cho rằng ngôn ngữ giao tiếp là con đường quan trọng
nhất giúp ta khẳng định được mình, khẳng định được vị thế trong mối tương
giao với mọi người. Ngôn ngữ có tác động rất lớn đến tâm lý, tình cảm của con
người thông qua nội dung ngữ điệu và cách sử dụng ngôn ngữ của chủ thể.
* Các công trình ngôn ngữ học nghiên cứu về hoạt động giao tiếp
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng chức năng đề cao chức năng
giao tiếp của ngôn ngữ. Họ cho rằng cần tập trung vào việc phát triển năng
lực giao tiếp hơn là chỉ dạy cho người học cách nắm vững các cấu trúc. Ngôn
ngữ vừa là phương tiện giao tiếp quan trọng, vừa là công cụ để con người
nhận thức tư duy. Trong nhà trường, việc giáo dục ngôn ngữ là hết sức cần
thiết. Tiếng Việt trở thành môn học có vị trí đặc biệt: nó không chỉ cung cấp
những kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếng mẹ đẻ để phát triển khả năng giao

tiếp cho HS, mà còn trang bị cho các em một công cụ thiết yếu để học tốt các
môn khoa học khác. Tiếng Việt còn là phương tiện để lưu trữ và bảo tồn bản
sắc văn hoá của dân tộc.
Các tác giả Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Quan
điểm giao tiếp trong việc dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản
chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng.…Ngôn ngữ …cần phải hoạt
động để thực hiện chức năng giao tiếp, trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ
vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp”. Tiếng
Việt thực hành của Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng cho rằng hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn diễn ra hai quá trình nhận và phát, tức là quá
trình sản sinh và hội tụ.
8
Các công trình nghiên cứu về Ngữ dụng học của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn
Văn Dân, Nguyễn Thiện Giáp đều cho rằng việc xem xét cách sử dụng ngôn ngữ
trong GT ở những hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt được mục tiêu của mình.
* Các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học tiếng Việt đề
cập đến giao tiếp và việc dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ở
trường phổ thông
Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở cách bố trí
thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không tập trung
vào việc nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng việc rèn luyện khả
năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao tiếp. Về phương pháp dạy
học, quan điểm giao tiếp được thể hiện kiến thức và kĩ năng trong luyện từ và
câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn với yêu cầu về các tình huống
giao tiếp tự nhiên. Dạy học tiếng Việt sử dụng phương pháp giao tiếp như là
phương pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất, phương pháp giao tiếp là
phương pháp hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các
nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham
gia vào hoạt động giao tiếp.
Trương Dĩnh trong Phát triển ngôn ngữ cho học sinh phổ thông đã đề

cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa trên lý thuyết hoạt động lời nói, Ông
khẳng định: “Trên quan điểm coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như mục
đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động
giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho HS phân tích mẫu hành vi lời nói
trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu
các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản
ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý thức về năng lực giao tiếp, tổ chức cho HS
sáng tạo các hành vi lời nói trong giao tiếp, tức là dạy cho HS ứng xử sáng tạo
trong giao tiếp ở môi trường có tính thực tiễn nhất của đời sống”[19. tr 19].
Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học TV ở trường trung học cơ
sở, của PGS.Trương Dĩnh [19] cũng coi trọng việc xây dựng các bài tập tình
9
huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS, đây cũng là một trong những cơ
sở góp phần định hướng cho việc dạy và học Tiếng Việt đạt hiệu quả cao hơn.
Tác giả Lê A trong Dạy tiếng Việt là dạy hoạt động và bằng hoạt động
sau khi khảo sát các tài liệu và thực trạng dạy học tiếng Việt đã nhận đinh:
“Tình trạng nội dung lý thuyết và bài tập thực hành mang nặng tính chất ngôn
ngữ, tính cấu trúc như trên là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
việc dạy học tiếng Việt hiện nay trong nhà trường phổ thông. Chúng ta dạy
nhiều, học sinh học nhiều và có thể biết nhiều song vẫn còn thiếu nhiều hiểu
biết đến nói đến chốn về cách thức và nghệ thuật sử dụng tiếng Việt. Và kết
quả tất yếu là năng lực tiếng Việt của các em còn non yếu, không đáp ứng
được yêu cầu giao tiếp trong công việc học tập cũng như trong giao tiếp của
xã hội” [3, tr 62].
Tác giả Nguyễn Quang Ninh trong Một số vấn đề dạy ngôn bản nói và
viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp đã khái quát quá trình về giao tiếp và quá
trình giao tiếp trong mối quan hệ với ngôn bản và lấy đó làm định hướng tổ
chức dạy học ngữ pháp theo lý thuyết hội hoại. Công trình mở ra một hướng
tìm hiểu bổ ích cho việc dạy học ở nhà trường phổ thông.
Lê A, Nguyễn Hải Đạm, Hoàng Mai Thao, Lê Xuân Soan trong cuốn

Phương pháp dạy học tiếng Việt cho rằng: “mục đích của dạy học chỉ đạt
được thông qua việc hoàn thành nội dung chương trình môn học, ngoài ra
cách thức tổ chức dạy học, việc chọn các phương pháp dạy học cũng đều chi
phối đến nội dung dạy học. Bởi vậy, điều quan tâm nghiên cứu đầu tiên của
phương pháp dạy học tiếng Việt là nội dung được giảng dạy và học tập, các
yếu tố cấu thành nội dung chương trình, mức độ và cách sắp xếp chúng như
thế nào” [14, tr 5]. Nhiệm vụ chung nhất của phương pháp dạy học tiếng Việt
là trên cơ sở quy luật nhận thức và yêu cầu xã hội, trên cơ sở của khoa học
tiếng Việt với trình độ học sinh, có tính khoa học nhằm trang bị cho học sinh
tri thức, kỹ năng ngôn ngữ, góp phần hoàn thiện nhân cách và phát triển tư
duy cho học sinh.
10
Điểm qua một số công trình trong lịch sử nghiên cứu của đề tài, chúng
tôi nhận thấy việc dạy học ngữ pháp tiếng Việt theo hướng giao tiếp ở nhà
trường phổ thông hiện nay có một tầm quan trọng rất lớn trong việc hình
thành nhân cách và khả năng tư duy của học sinh. Vận dụng quan điểm giao
tiếp vào dạy ngữ pháp đã mở ra một hướng dạy học tích cực và có hiệu
quả.Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ pháp tiếng Việt đã thu hút
được sự quan tâm của rất nhiều ngành, nhiều nhà nghiên cứu với các công
trình khoa học về lý luận lẫn thực tiễn dạy học, giao tiếp hiện đang tồn tại như
một khuynh hướng, một quan điểm dạy học có ưu thế vượt trội. Đã có công
trình nghiên cứu về dạy học ngữ pháp và dạy Tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về dạy học ngữ pháp lớp 8
theo quan điểm giao tiếp. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài Dạy học
ngữ pháp lớp 8 THCS theo quan điểm giao tiếp, nhằm góp phần nâng cao
chất lượng dạy học Tiếng Việt ở trường THCS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy học ngữ pháp theo
quan điểm giao tiếp, luận văn đề xuất một số biện pháp để dạy học ngữ pháp

trong nội dung chương trình THCS góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
môn học Ngữ văn ở trường phổ thông .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích chung nêu trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
* Hệ thống hóa, tài liệu lý luận về hoạt động dạy học ngữ pháp lớp 8
theo quan điểm giao tiếp nhằm xác định cơ sở lý thuyết của đề tài.
* Khảo sát thực trạng dạy học ngữ pháp lớp 8 theo quan điểm giao tiếp
nhằm xác định cơ sở thực tiễn của đề tài.
* Đề xuất các giải pháp dạy học ngữ pháp lớp 8 nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học.
11
* Tổ chức thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi của các
giải pháp được đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học nổi bật là chương
trình SGK Ngữ văn lớp 8 THCS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Luận văn tập trung nghiên cứu việc dạy học ngữ pháp lớp 8 theo quan
điểm giao tiếp trong chương trình và sách giáo khoa phân môn Tiếng Việt
trong môn Ngữ văn ở trường THCS.
* Do điều kiện khách quan, chúng tôi chọn học sinh lớp 8 ở một số
trường THCS tỉnh Quảng Trị làm đại diện cho học sinh THCS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích - tổng hợp nhằm xác định cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn của đề tài.

5.2. Phương pháp điều tra - thống kê
Phương pháp điều tra - thống kê được sử dụng nhằm khảo sát thực
trạng dạy học theo quan điểm giao tiếp trong chương trình Ngữ văn THCS và
thực hiện đo lường kết quả của hoạt động thực nghiệm, nhờ đó có được
những kết quả đúng đắn, đáng tin cậy.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp thực nghiệm sư phạm giúp kiểm tra, đánh giá tính đúng
đắn và khả thi của những đề xuất của đề tài hướng đến mục đích dạy học ngữ
pháp theo quan điểm giao tiếp cho học sinh THCS.
12
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Tổ chức dạy học ngữ pháp ở lớp 8 THCS theo quan điểm
giao tiếp
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
13
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Cơ sở Ngôn ngữ học của việc dạy học Ngữ pháp tiếng Việt ở lớp 8
THCS
1.1.1.1. Tính hệ thống của Ngôn ngữ
Theo cách hiểu thông thường hệ thống là một tổ hợp những yếu tố có
những mối liên hệ nhất định với nhau. Theo từ điển Hán Việt của Bửu Kế:
“Hệ có nghĩa là ràng buộc, thống có nghĩa là manh mối. Hệ thống, có nghĩa là
những sự vật có liên quan với nhau và hướng về nền tảng nhất định” [23, tr
25]. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến cho rằng: “Hệ

thống là một tổng thể những yếu tố có liên quan qua lại và quy định lẫn nhau,
tạo thành một thể thống nhất phức tạp” [17, tr 25].
Ngôn ngữ là một hệ thống vì nó thỏa mãn được những yêu cầu, đáp
ứng được những tiêu chí cần thiết của khái niệm hệ thống nói chung. Các đơn
vị ngôn ngữ phân biệt với nhau về chức phận trong hệ thống, vị trí trong hệ
thống và cũng phân biệt với nhau về cấu tạo của mình. Theo trình tự sắp xếp
có thể kể ra các đơn vị ngôn ngữ là: câu, từ, hình vị, âm vị. Trong đó, câu có
chức năng cơ bản là thông báo, từ có chức năng định danh, hình vị và âm vị là
những đơn vị đảm nhiệm chức năng cấu tạo.
Các đơn vị của ngôn ngữ quan hệ với nhau rất phức tạp và theo nhiều
kiểu. Đặc biệt, càng đi sâu vào hoạt động giao tiếp thì các loại đơn vị, các yếu
tố khác nhau, tạo thành nhiều tiểu hệ thống, nhiều bộ phận khác nhau có tác
động qua lại lẫn nhau
1.1.1.2. Cơ sở Ngữ pháp học của chương trình Ngữ pháp lớp 8
Tiếng Việt gồm có ba bộ phận cơ bản đó là: Ngữ âm học Tiếng Việt,
Từ vựng học Tiếng Việt và Ngữ pháp học Tiếng Việt. Do đối tượng nghiên
14
cứu của đề tài là chương trình ngữ pháp lớp 8, vì vậy chúng tôi xin đi sâu vào
cơ sở Ngữ pháp học tiếng Việt của đề tài. “Ngữ pháp học là bộ môn khoa học
chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ hoạt động, sự hành chức theo những theo
những quy tắc nhất định để biến đổi các đơn vị ngôn ngữ thành các đơn vị
giao tiếp” [17, tr 242]. Những kiến thức ngữ pháp tiếng Việt rất phong phú và
đa dạng, chúng tôi xin tập trung xác định cơ sở lý luận của chương trình ngữ
pháp lớp 8 THCS.
a) Từ loại tiếng Việt
Từ loại là một phạm trù ngữ pháp. Đó là những lớp từ có cùng bản chất
ngữ pháp, tức có chung những đặc điểm ngữ pháp giống nhau trong một ngôn
ngữ nhất định
*Tiêu chuẩn phân định từ loại
Người ta thường căn cứ vào 3 tiêu chuẩn sau:

+ Ý nghĩa khái quát: Đây là ý nghĩa chung của hàng loạt từ, của từng
lớp từ nhất định.
+ Khả năng kết hợp: Những từ có cùng khả năng kết hợp giống nhau, tức
được phân bố cùng vị trí như nhau thì có thể xếp chung trên trục liên tưởng.
+ Chức vụ cú pháp: Đây là khả năng tham gia cấu tạo câu, khả năng
hoạt động của từ trong câu với tư cách một thành phần chức năng.
* Hệ thống từ loại tiếng Việt bao gồm:
Danh từ và các tiểu loại danh từ; Động từ và các tiểu loại động từ; Tính
từ và các tiểu loại tính từ; Phụ từ và các tiểu loại phụ từ; Quan hệ từ và các
tiểu loại; Đại từ; Số từ; Trợ từ; Thán từ;Tình thái từ.
b) Cụm từ tiếng Việt
* Khái niệm cụm từ
Tổ hợp từ tự do là những tổ hợp từ không cho sẵn, quan hệ ngữ pháp
giữa các từ trong nó có tính chất thể hiện, dễ nhận biết trong ý thức người sử
dụng, quan hệ giữa các từ trong nó lỏng lẻo, không có tính chất bền vững, cố
định. Tổ hợp từ không có kết từ đứng trước còn gọi là cụm từ. “Cụm từ là
15
những kiến trúc gồm hai từ trở lên kết hợp “tự do” với nhau theo những quan
hệ ngữ pháp thể hiện nhất định và không chứa kết từ ở đầu” [6, tr 6].
Căn cứ vào mối quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong cụm từ,
người ta phân định thành:
Cụm đẳng lập: Các thành tố trong cụm từ bình đẳng về ngữ pháp.
Cụm chính phụ: Thành tố trung tâm quyết định bản chất ngữ pháp của
toàn bộ kết cấu, các thành tố còn lại phụ thuộc vào nó.
Cụm chủ vị: Mối quan hệ giữa hai thành tố trong cụm từ là quan hệ chủ vị
* Các loại cụm chính phụ và đặc điểm cấu tạo của chúng
Cụm danh từ: danh từ là thành tố chính.
Cụm động từ: động từ là thành tố chính.
Cụm tính từ: tính từ là thành tố chính.
c) Câu tiếng Việt

Các bình diện nghiên cứu câu:
Bình diện nghĩa học
Bình diện kết học
Bình diện dụng học
c1) Định nghĩa về câu
Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học như: Nguyễn Thị Lương trong “Câu
tiếng Việt”; Đinh Trọng Lạc trong “Sổ tay tiếng Việt”; Nguyễn Thị Ly Kha
với “Dùng từ viết câu và soạn thảo văn bản” … đều có những định nghĩa về
câu, tuy nhiên việc định nghĩa câu không dừng lại ở đó, đến nay việc định
nghĩa về câu đã rất nhiều. Chúng tôi tán thành định nghĩa của Diệp Quang
Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, “Câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo
ngữ pháp (bên trong hoặc bên ngoài) tự lập và ngữ liệu kết thúc, mang một ý
nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có thể
kèm theo thái độ, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm.
Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ” [6, tr 107].
16
c2) Về mặt cấu tạo
Câu và từ là hai bình diện khác nhau về nhiều vấn đề nhưng vấn đề mấu
chốt đó chính là câu được tạo ra trong hoạt động giao tiếp chứ không phải là đơn
vị sẵn có như từ. Câu là đơn vị của ngôn ngữ. Nhưng nó không phải là đơn vị có
sẵn như âm vị, hình vị, các từ hoặc các cụm từ cố định, nó là sản phẩm được tạo
ra khi người ta nói hoặc viết. Câu là đơn vị nhỏ nhất có chức năng giao tiếp. Vì
thế, tín hiệu ngôn ngữ nói chung và câu – sản phẩm được tạo ra từ tín hiệu ngôn
ngữ cũng được xem xét từ ba bình diện là kết học, nghĩa học và dụng học.
Tương ứng với kết học là bình diện ngữ pháp, với nghĩa học là bình diện ngữ
nghĩa và với dụng học là bình diện ngữ dụng học.
Khi tạo ra một câu, người nói xuất phát từ nhu cầu thực tế của việc giao
tiếp, huy động các từ ngữ cụ thể để phân tích mô hình đó nhằm thực hiện một
nhiệm vụ cụ thể, một mô hình cấu trúc cụ thể. Câu trong ngôn bản có thể
không đầy đủ các thành phần của một mô hình cấu trúc “chuẩn”. Tuy nhiên,

dựa vào tình huống giao tiếp, dựa vào văn cảnh, người nghe có thể lĩnh hội
được những nội dung mà người nói muốn chuyển tải. Câu trong hoạt động
giao tiếp có thể được hiện thực hóa trong các biến thể khác nhau về trật tự từ.
Xuất phát từ mô hình cấu trúc ngữ pháp, hơn nữa có thể cùng thể hiện một ý
nghĩa sự vật nhưng trong những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, phục vụ cho
nhiệm vụ khác nhau.
c3)Về mặt nội dung ý nghĩa
Dưới ánh sáng của lí thuyết về hoạt động giao tiếp trong dạy và học
tiếng Việt, phần ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu trong chương trình THCS đều
hướng về những vấn đề của câu trong hoạt động giao tiếp. Chính trong hoạt
động giao tiếp, câu được hiện thực hóa trong các phát ngôn. Chính trong hoạt
động giao tiếp, câu mới có sự biến hóa đa dạng về thành phần cấu tạo, về trật
tự sắp xếp. Về mặt ngữ nghĩa, chính trong hoạt động giao tiếp, gắn chặt với
hoàn cảnh giao tiếp, câu mới nảy sinh các ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc bên cạnh
nghĩa tường minh. Rõ ràng là với tư cách là một môn học về phương diện
17
giao tiếp và nhằm vào mục tiêu nâng cao trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ,
phần ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu trong chương trình Ngữ văn THCS hướng
vào rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành về câu trong hoàn cảnh giao
tiếp, về ngữ nghĩa của câu…
c4) Về mặt phân loại
* Phân loại theo cấu tạo:
Câu có 1 liên kết C-V (câu đơn) gồm có: “Câu đơn là câu chỉ có một
nòng cốt câu và không chứa hơn một kết cấu chủ vị” [25, tr 36]. Câu đơn gồm
các loại: câu đơn hai thành phần, câu đơn tỉnh lược và câu đặc biệt.
Câu có hơn 1 liên kết C-V( câu phức): “Câu phức là câu có hơn một
kết cấu chủ - vị, trong đó chỉ có kết cấu chủ - vị làm nòng cốt câu. Các kết cấu
chủ- vị còn lại giữ vai trò thành phần nào trong câu. Câu phức thành phần
gồm có: câu phức thành phần vị ngữ, câu phức thành phần chủ ngữ, câu phức
thành phần định ngữ, câu phức thành phần bổ ngữ, câu phức thành phần trạng

ngữ cách thức”[25, tr 39, 40].
Câu ghép: “là câu có hơn một kết cấu chủ-vị, trong đó mỗi kết cấu chủ-
vị làm thành một vế câu tách rời nhau, không có kết cấu chủ- vị nào bao hàm
kết cấu chủ - vị nào. Câu ghép gồm có: câu ghép chính phụ, câu ghép đẳng
lập, câu ghép qua lại, câu ghép chuỗi” [6, tr 43].
* Phân loại theo mục đích nói: “Câu trần thuật là câu để miêu tả, nhận
xét, đánh giá sự vật với những đặc trưng của nó. Câu trần thuật, khi nói có ngữ
liệu kể, khi viết có dấu chấm ở cuối câu” [6, tr, 43]. “Câu nghi vấn là câu nêu
điều chưa biết hoặc còn hoài nghi để được trả lời, giải thích. Câu nghi vấn, khi
nói có ngữ liệu hỏi để nâng cao giọng ở phần cuối câu, khi viết dùng dấu chấm
hỏi”[6, tr 44]. “Câu cầu khiến câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, khuyên bảo…Câu
cầu khiến, khi nói có ngữ điệu cầu khiến, khi viết có thể dùng dấu chấm
cảm”[6, tr 44]. “Câu cảm thán cần dùng khi cần bộc lộ cảm xúc, câu cảm thán
khi nói có ngữ điệu cảm, khi viết người ta dùng dấu chấm cảm” [6, tr 44].
18
1.1.1.3. Lý thuyết giao tiếp với việc dạy học Ngữ pháp ở THCS
a) Khái niệm giao tiếp
“Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự
tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với
nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại
lẫn nhau” [29, tr 3]. Quá trình mà người nói phát ra chuỗi lời nói bằng các tín
hiệu ngôn ngữ. Có thể gọi đây là quá trình phát, hay quá trình tạo lập, sản sinh
ra ngôn bản. Quá trình này do người nói thực hiện bằng phương tiện ngôn
ngữ với sản phẩm tạo ra là các ngôn bản. Hay, quá trình mà người nghe tiếp
nhận các tín hiệu ngôn ngữ, các ngôn bản và lĩnh hội chúng. Đó là quá trình
tiếp nhận hay lĩnh hội ngôn bản, do chính người nghe thực hiện. [43, tr 91]
Hoạt động giao tiếp diễn ra theo hai quá trình: quá trình sản sinh (ký
mã) và tiếp nhận (giải mã). Hai quá trình của hoạt động giao tiếp được biểu
hiện bằng sơ đồ sau:
Người nói

(Ngườiviết)
Tạo
Lập
Ngôn bản
Lĩnh
Hội
Người nghe
(người đọc)
b) Phân loại giao tiếp
* Căn cứ vào phương tiện giao tiếp, có ba loại giao tiếp sau:
Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao
tiếp đặc trưng của con người bằng cách sử dụng những tín hiệu chung là từ
ngữ.
Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: giao tiếp bằng cử chỉ, nét mặt, điệu
bộ…sự kết hợp giữa các động tác khác nhau có thể thể hiện sắc thái khác nhau.
Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
* Căn cứ vào khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và
nhận tín hiệu của nhau.
19
Giao tiếp gián tiếp: giao tiếp qua thư từ, phương tiện kỹ thuật…
*Căn cứ vào quy cách gián tiếp, người ta thường chia thành hai loại:
Giao tiếp chính thức: giao tiếp diễn ra theo quy định, thể chế, chức
trách, các chủ thể phải tuân thủ một số yêu cầu xác định. Ví dụ: giao tiếp giữa
giáo viên và học sinh, giữa các nguyên thủ quốc gia…
Giao tiếp không chính thức: giao tiếp không bị ràng buộc bởi các nghi
thức mà dựa vào tính tự nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú,
cảm xúc…của các chủ thể. Ví dụ: giao tiếp giữa các cá nhân trên một chuyến
xe, cùng xem đá bóng.
Các loại quan hệ trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho

mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng đa dạng, phong phú.
c) Các nhân tố giao tiếp
Muốn hoàn thành tốt một cuộc giao tiếp nào đó, người nói, người viết,
không thể không xử lý các mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với các yếu
tố ngoài ngôn ngữ như: giao tiếp với ai? giao tiếp nhằm mục đích gì? giao
tiếp trong hoàn cảnh nào?xử lý tốt mối quan hệ đó, người nói, người viết mới
tạo ra được những lời nói đạt hiệu quả cao.
* Nhân vật giao tiếp: Là những người tham gia trực tiếp vào quá trình
giao tiếp. Quá trình giao tiếp có thể thực hiện bởi hai người hoặc nhiều người.
Nhân vật giao tiếp đóng vai trò quan trọng, đó là nhân tố để lại dấu ấn đậm nét
nhất trong việc lựa chọn nội dung và cách thức trình bày một văn bản. Để có một
bài dạy hay, dễ hiểu thì đòi hỏi ở người giáo viên phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh
lý của học sinh lớp mình, qua đó có thể tổ chức giảng dạy ngôn ngữ theo quan
điểm giao tiếp cho phù hợp với từng đối tượng, từng lứa tuổi của HS.
* Nội dung giao tiếp: Nội dung giao tiếp ở đây là hiện thực được nói
đến trong cuộc giao tiếp. Để có thể thực hiện hoạt động giao tiếp thì những
người tham gia giao tiếp phải nắm rõ về nội dung giao tiếp, cùng hướng về
một nội dung giao tiếp nhất định.
20
*Hoàn cảnh giao tiếp: là hoàn cảnh mà hoạt động giao tiếp diễn ra. Đó
là những hoàn cảnh hẹp với không gian cụ thể thời gian cụ thể cùng những
đặc trưng đòi hỏi người ta phải sử xự theo những cách thức phù hợp. Đó còn
là hoàn cảnh GT rộng bao gồm những hiểu biết về thế giới, vật lý, tâm lý,
sinh lý, văn hóa, tôn giáo, lịch sử và các ngành khoa học, kỹ thuật…ở thời
điểm, ở không gian trong đó diễn ra cuộc giao tiếp.
*Mục đích giao tiếp: Mục đích cơ bản của cuộc giao tiếp là nhằm
truyền đạt thông tin, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của mình. Qua đó,
còn phải tác động đến người tiếp nhận một tình cảm nào đó, mục đích giao
tiếp là kết quả cuối cùng mà cuộc giao tiếp mong muốn đạt được.
* Phương tiện giao tiếp: Phương tiện giao tiếp ở đây là ngôn ngữ. Đối với

người Việt trong những hoạt động giao tiếp thông thường thì ngôn ngữ được sử
dụng là tiếng Việt. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ thì trình độ ngôn ngữ cũng như
vốn hiểu biết về tiếng Việt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giao tiếp.
Tóm lại, hoat động giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn luôn có sự chi phối
của nhiều yếu tố, chúng tác động đến sự hình thành và lĩnh hội ngôn bản,
đồng thời để lại dấu ấn trong ngôn bản.
d) Phân biệt dạng nói và dạng viết trong giao tiếp
Căn cứ vào hình thức và phương tiện biểu đạt, có thể chia ngôn ngữ
(lời nói) thành hai dạng: khẩu ngữ (ngôn ngữ nói) và bút ngữ (ngôn ngữ viết).
Hai dạng này có sự khác nhau đáng kể về phương tiện biểu đạt, cách lựa chọn
ngôn từ, hoàn cảnh sử dụng….
* Khẩu ngữ (ngôn ngữ nói hoặc lời miệng): là ngôn ngữ được hướng
vào người khác, được biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan
phân tích thính giác. Ngôn ngữ nói là hình thức ngôn ngữ cơ sở nhất trong
lịch sử loài người. Trong giao tiếp bằng khẩu ngữ, ngữ điệu có vai trò quan
trọng. Cùng với ngữ điệu, các phương tiện phụ trợ phi ngôn ngữ như ánh mắt,
cử chỉ, điệu bộ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả biểu đạt của lời nói.
21
Khẩu ngữ đòi hỏi sự ứng xử linh hoạt về lời nói, so với bút ngữ thì
khẩu ngữ sử dụng câu ngắn hơn, có cấu tạo đơn giản hơn. Ngôn ngữ nói có
hai dạng: Lời nói độc thoại và lời nói hội thoại.
* Lời nói đối thoại: Lời nói đối thoại xuất hiện trong giao tiếp hội thoại
(hoạt động giao tiếp bằng miệng giữa các nhân vật giao tiếp, nhằm trao đổi
thông tin hoặc trao đổi tư tưởng, tình cảm theo một mục đích xác định).
*Cấu trúc hội thoại: Hội thoại gồm các đơn vị: cuộc hội thoại, đàm
thoại và cặp thoại.
*Các quy tắc hội thoại: Để cuộc thoại có kết quả, các nhân vật tham
gia hội thoại cần tuân thủ một số nguyên tắc hội thoại: Quy tắc thương lượng
hội thoại, quy tắc luân phiên lượt lời, quy tắc tôn trọng thể diện, quy tắc
khiêm tốn, quy tắc cộng tác.Vì vậy, nội dung lời đối thoại phải nhập vào

mạch câu chuyện hoặc chủ đề hội thoại thì nó mới có ý nghĩa.
*Lời độc thoại: Là ngôn ngữ mà trong đó mà một người nói và một
người khác nghe. Đó là loại ngôn ngữ liên tục một chiều, không có sự trao đổi
ngược trở lại. Lời nói độc thoại, đòi hỏi một số yêu cầu nghiêm ngặt hơn so
với lời nói đối thoại. So với lời nói đối thoại thì nói độc thoại đòi hỏi sự chuẩn
bị chu đáo và sự tập trung chú ý cao hơn, người độc thoại thường chủ động
hơn trong việc lựa chọn nội dung và cách thức nói.
* Bút ngữ (ngôn ngữ viết hoặc lời viết): Là thứ ngôn ngữ hướng vào
người khác, được biểu hiện bằng các ký hiệu chữ viết và được tiếp thu bằng
cơ quan phân tích thị giác. Với ngôn ngữ viết thì dấu câu, sự xuống dòng,
ngắt đoạn, các kiểu chữ khác nhau là những phương tiện biểu đạt đặc trưng và
có hiệu quả.
Yêu cầu của ngôn ngữ viết: là phải viết một cách tỷ mỹ, chính xác, phải
tuân theo đầy đủ những quy tắc ngữ pháp, chính tả và lôgic. Trong ngôn ngữ
viết, việc dùng từ, tạo câu, cách liên kết câu ở văn bản nghệ thuật hay phi
nghệ thuật, phải có những khác biệt nhất định mà người viết, người đọc phải
22

×