1
B GIO DC V O TO
Trờng đại Học VINH
--------- *** ---------
Đinh Thị Liên
DẠY CÁC LỚP TỪ CÓ QUAN HỆ VỀ NGHĨA
CHO HỌC SINH LỚP 5 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Vinh - 2011
2
Lời cảm ơn
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS, TS. Chu Thị Thủy
An, cán bộ giảng dạy khoa Giáo dục – Trường Đại học Vinh. Cô đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu và hồn thành
luận văn này.
Tơi chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Trường Đại
học Vinh, Trường Đại học Sài Gịn đã trang bị cho tơi tri thức và kĩ
năng nghiên cứu khoa học.
Tôi gửi lời cảm ơn tới cán bộ quản lí, tập thể giáo viên,
bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh trường Tiểu học Phan Chu
Trinh, Trần Văn Ơn (quận Gò Vấp), Nguyễn Huệ (quận 1), Bình
Hưng Hịa 1 (quận Bình Tân), đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tơi
trong q trình điều tra và làm thử nghiệm cho đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân u
nhất, đã ln động viên, khích lệ và ủng hộ tơi trong q trình học tập và
nghiên cứu.
Trân trọng.
TP. HCM, ngày 25 tháng 12 năm 2011
Tác giả
Đinh Thị Liên
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .....................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.............................................................................11
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................11
5. Giả thuyết khoa học..............................................................................11
6. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................12
7. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................12
8. Một số đóng góp của luận văn..............................................................12
9. Cấu trúc nội dung của luận văn.............................................................13
Chương 1: Cơ sở lí luận.................................................................................14
1.1. Quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học.......................14
1.1.1. Bản chất của quan điểm giao tiếp..........................................................14
1.1.2. Mối quan hệ giữa quan điểm giao tiếp và quan điểm dạy học tích cực 19
1.1.3. Quan điểm giao tiếp trong dạy học phân môn LTVC ..........................23
1.1.4. Quan điểm giao tiếp trong dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa.....25
1.2. Các lớp từ có quan hệ về nghĩa trong tiếng Việt......................................32
4
1.2.1. Từ đồng nghĩa........................................................................................32
1.2.2.Từ trái nghĩa...........................................................................................36
1.2.3. Từ nhiều nghĩa.......................................................................................38
1.2.4. Từ đồng âm............................................................................................46
1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 5 với việc dạy học các lớp từ có quan hệ
về nghĩa ..........................................................................................................48
1.4. Tiểu kết chương 1.....................................................................................50
Chương 2: Cơ sở thực tiễn.............................................................................51
2.1.Vấn đề các lớp từ có quan hệ về nghĩa trong chương trình
Tiếng Việt lớp 5 ..............................................................................................51
2.1.1. Mục tiêu dạy học của các lớp từ có quan hệ về nghĩa...........................51
2.1.2. Nội dung và thời lượng dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa..........52
2.1.3. Các kiểu bài về các lớp từ có quan hệ về nghĩa....................................53
2.1.4. Hệ thống bài tập về các lớp từ có quan hệ về nghĩa..............................55
2.2.Thực trạng nhận thức và dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa
của giáo viên Tiểu học hiện nay......................................................................61
2.2.1. Về quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt..................................61
2.2.2.Về các lớp từ có quan hệ về nghĩa..........................................................62
2.2.3.Về việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào việc lựa
chọn nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học.....................64
5
2.3.Thực trạng về kiến thức và kĩ năng sử dụng các lớp từ
có quan hệ về nghĩa của học sinh trong giao tiếp............................................65
2.3.1.Kĩ năng nhận diện, nắm nghĩa từ ...........................................................65
2.3.2.Năng lực sử dụng từ của HS ..................................................................66
2.4. Nguyên nhân của thực trạng.....................................................................69
2.4.1.Về phía giáo viên....................................................................................69
2.4.2.Về phía học sinh.....................................................................................70
2.5. Tiểu kết chương 2.....................................................................................71
Chương 3: Xây dựng hệ thống bài tập dạy học các lớp từ có quan hệ
về nghĩa theo quan điểm giao tiếp...................................................................74
3.1. Mục tiêu của việc xây dựng hệ thống bài tập dạy sử dụng
các lớp từ có quan hệ về nghĩa .......................................................................74
3.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ
có quan hệ về nghĩa ........................................................................................75
3.2.1. Bảo đảm mục tiêu môn học...................................................................75
3.2.2. Đảm bảo mối quan hệ giữa các nhân tố trong hoạt động giao tiếp,
góp phần tích cực hóa hoạt động học tập môn TV của học sinh....................76
3.2.3. Phù hợp thực tiễn dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa ở
Tiểu học, phù hợp đặc điểm tư duy và trình độ ngơn ngữ của HSTH.............77
3.2.4. Đảm bảo tính hấp dẫn............................................................................79
3.3.Hệ thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa .................80
3.3.1. Giới thiệu khái quát hệ thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ có
6
quan hệ về nghĩa cho học sinh Tiểu học theo quan điểm giao tiếp.................80
3.3.2 Cách thức xây dựng bài tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ
về nghĩa theo quan điểm giao tiếp...................................................................84
3.3.3.Các bài tập cụ thể ..................................................................................84
Trò chơi
3.4. Qui trình tổ chức thực hành dạy các lớp từ có quan hệ
về nghĩa theo quan điểm giao tiếp..................................................................99
3.4.1. Mục tiêu của qui trình............................................................................99
3.4.2 Yêu cầu khi xây dựng qui trình............................................................100
3.4.3 Nội dung của qui trình..........................................................................100
3.5. Thử nghiệm sư phạm..............................................................................110
3.5.1. Mục đích thử nghiệm...........................................................................110
3.5.2. Địa điểm, đối tượng thử nghiệm..........................................................111
3.5.3. Thời gian thử nghiệm..........................................................................109
3.5.4. Tổ chức thử nghiệm.............................................................................109
3.5.5. Kết quả thử nghiệm.............................................................................112
3.5.6. Kết luận về thử nghiệm.......................................................................113
3.6. Tiểu kết chương 3...................................................................................113
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................115
1. Kết luận...............................................................................................115
2. Kiến nghị.............................................................................................116
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
7
BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
KÍ HIỆU VIẾT TẮT
GV
GD - ĐT
HS
HSTH
LTVC
SGK
TV
DIỄN GIẢI
Giáo viên
Giáo dục – Đào tạo
Học sinh
Học sinh tiểu học
Luyện từ và câu
Sách giáo khoa
Tiếng Việt
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là mơn học có vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục
Tiểu học. Đây là mơn học vừa có vai trị trang bị cho học sinh cơng cụ ngơn
ngữ, vừa có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng
Việt, những kĩ năng sử dụng tiếng Việt để học sinh tự hồn thiện nhân cách
của mình ở phương diện ngơn ngữ và văn hóa. Bởi thế dạy tiếng Việt có vai
trị cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi con
người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới ngồi việc cung
cấp kiến thức tiếng Việt và thái độ, tình yêu tiếng Việt cịn phải giúp học sinh
giao tiếp tốt trong mơi trường hoạt động lứa tuổi.
Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp có thể được hiểu như một
nguyên tắc hay một phương pháp dạy học nhưng đều có chung một mục đích:
làm cho học sinh có khả năng sử dụng thành thạo ngơn ngữ, có khả năng vận
dụng tốt các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết khi trực tiếp tham gia vào các hoạt
động giao tiếp của cộng đồng.
8
Luyện từ và câu (LTVC) là một phân môn mới. Mục tiêu của phân môn
này đặt ra là nhằm mở rộng, làm giàu vốn từ cho học sinh và hướng dẫn cho
học sinh sử dụng từ - câu một cách chính xác trong hồn cảnh giao tiếp cụ
thể. Trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, phân mơn LTVC rèn luyện cho
học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu để diễn đạt các nội dung giao tiếp khác
nhau. Bản thân tên gọi của phân môn này đã thể hiện rõ quan điểm giao tiếp
của chương trình: dạy học tiếng Việt là dạy thực hành sử dụng ngôn ngữ. Học
sinh được mở rộng vốn từ, hệ thống hóa vốn từ, nắm chắc nghĩa của từ, biết
dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu vào giao tiếp một cách có hiệu quả.
Khi giao tiếp, người nói đồng thời tiến hành huy động, lựa chọn từ ngữ, liên
kết chúng lại theo nguyên tắc ngữ pháp thành câu để diễn đạt tư tưởng, tình
cảm. Câu là đơn vị ngơn ngữ nhỏ nhất có chức năng giao tiếp. Câu được tạo
bởi các từ ngữ, ngược lại, từ ngữ tồn tại trong câu. Không có vốn từ phong
phú, khơng nắm vững nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ thì khơng thể đặt
câu đúng. Vì thế, việc sử dụng từ ngữ đúng, nắm rõ nghĩa của từ có ý nghĩa
quan trọng trong giao tiếp, giúp học sinh tự tin tham gia vào hoạt động giao
tiếp, qua đó bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt.
Các lớp từ có quan hệ về nghĩa là thuật ngữ chúng tôi dùng để chỉ mạch
kiến thức, kĩ năng về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa được dạy trong phân mơn Luyện từ và câu lớp 5. Có thể nói, các lớp từ
có quan hệ về nghĩa chiếm một vị trí đặc biệt trong tiếng Việt, mà xét theo
một ý nghĩa nhất định, đó mới chính là bộ phận tinh hoa cốt lõi, chứa đựng
bản sắc và linh hồn Việt. Tuy nhiên, mảng từ ngữ này, đặc biệt là các từ nhiều
nghĩa bao giờ cũng gây nhiều lúng túng, sai lầm cho học sinh và ngay cả giáo
viên.
9
Thực tế trong giờ học tiếng Việt, cụ thể là trong các tiết dạy các lớp từ
có quan hệ về nghĩa , giáo viên thường chú trọng đến hình thành các khái
niệm lí thuyết , thơng qua con đường nhận diện, phát hiện các hiện tượng
ngôn ngữ theo sách giáo khoa và sách giáo viên một cách cứng nhắc, mà chưa
gắn với các kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh, chưa tổ chức các giờ học
tiếng Việt thông qua khai thác vốn sống và kinh nghiệm sử dụng tiếng mẹ đẻ
của các em. Đây là một nguyên nhân dẫn đến khả năng sử dụng từ của các em
còn hạn chế, dùng từ sai, dùng từ không phù hợp với ngữ cảnh. Thêm vào đó,
việc dạy các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5 theo quan điểm
giao tiếp cũng chưa có tài liệu nào đi sâu làm rõ. Trong khi đó, để phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập, quan điểm giao tiếp rất được coi
trọng. Quan điểm giao tiếp chi phối tồn bộ q trình dạy học các mơn học,
phân mơn Luyện từ và câu nói chung và các lớp từ có quan hệ về nghĩa nói
riêng, từ việc xác định mục tiêu, nội dung dạy học tới việc lựa chọn hình thức,
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá…Tuy nhiên, việc vận dụng quan
điểm giao tiếp vào dạy các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5 cịn
gặp nhiều khó khăn: Về lí luận, chưa có các cơng trình nghiên cứu sự cụ thể
hố quan điểm này vào việc dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa theo đúng
yêu cầu thực tiễn. Về thực tiễn dạy và học, giáo viên vẫn chưa thực sự ý thức
được mục đích của dạy tiếng Việt là dạy cho học sinh kĩ năng để giao tiếp.
Vậy nên giáo viên chưa coi trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng từ cho học sinh,
việc lựa chọn hình thức và phương pháp cịn chưa phù hợp, mang hiệu quả
khơng cao.
Như vậy, thông qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực
của vấn đề, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi đã lựa chọn đề
tài: “Dạy các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5 theo quan
điểm giao tiếp”, với mong muốn đề tài này có thể đáp ứng được yêu cầu đổi
10
mới phương pháp dạy học, góp phần cải tiến nâng cao chất lượng dạy học
mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Luyện từ và câu nói riêng ở Tiểu học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1.Về dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
11
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng chức năng đề cao chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ. Họ cho rằng cần phải tập trung vào việc phát triển năng
lực giao tiếp hơn là chỉ dạy cho người học cách nắm vững các cấu trúc. Các
học giả nổi tiếng thế giới đã dựa vào cơng trình nghiên cứu của các nhà ngơn
ngữ học chức năng Anh, cơng trình nghiên cứu về xã hội học của các nhà
nghiên cứu Mĩ, và các kết quả nghiên cứu ngữ dụng học để đề ra cơ sở lí
luận cho đường hướng dạy học tiếng theo quan điểm chức năng, hay còn
gọi là quan điểm giao tiếp. Từ giữa những năm 70 đường hướng dạy học
theo quan điểm này được phát triển rộng rãi ở Anh và Mĩ. Mục đích
chính của nó là làm cho năng lực giao tiếp trở thành mục tiêu chính của
việc dạy và học tiếng. Các quốc gia này đã xác định mục tiêu quan trọng nhất
khi dạy tiếng mẹ đẻ đó là “sự thành thạo ngôn ngữ”, “biết sử dụng ngôn
ngữ”, “ khả năng dùng ngôn ngữ”, “làm chủ ngôn ngữ…” [46]. Chương trình
dạy Tiếng Pháp của bang Qui – bách (Ca – na – đa) qui định “ Việc giảng dạy
Tiếng Pháp phải dựa trên việc thực hành ngôn ngữ và trong các lớp Tiếng
Pháp, HS phải luôn luôn được đặt vào trong các tình huống giao tiếp”. Ở một
giai đoạn khác, chương trình lại nhấn mạnh: “cơ bản là phải đặt HS trong một
tình huống giao tiếp làm sản sinh lời nói hoặc sự thơng hiểu” [46] . Chương
trình dạy tiếng Đức- 1987 của nước Cộng hòa dân chủ Đức đã xác định:
“nguyên tắc chỉ đạo việc qui hoạch và tổ chức dạy học tiếng mẹ đẻ ở nhà
trường là triệt để phục vụ cho năng lực giao tiếp của họ” [31]. Chương trình
dạy tiếng Ma- lai- xi- a bao gồm: “ những kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc,
viết nhằm làm cho HS sử dụng lời nói vì những mục đích thực tiễn, sáng tạo”.
Chương trình dạy Tiếng Anh qui định: “Cần làm cho HS hiểu được tầm quan
trọng của tiếng Anh chuẩn. Tạo điều kiện để HS xem xét lời nói của mình và
cách mình giao tiếp với người khác….Khuyến khích HS tự tin để thích ứng
12
điều mình nói với người nghe và với tình huống khác nhau….”.( Dẫn theo
Nguyễn Trí, [46.tr.17]).
Ở trong nước, từ hơn mười năm nay, phương pháp dạy tiếng Việt theo
hướng giao tiếp đã được đặt ra, và được đông đảo GV, các nhà Phương pháp
dạy học tiếng Việt ủng hộ.
Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến
việc dạy và học ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản
ngữ dựa trên lí thuyết thoạt động lời nói. Ơng khẳng định: “Trên quan điểm
coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy ngơn ngữ, đặc
biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trị để tổ chức
cho HS phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói
giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng
cao ý thức, qui tắc về giao tiếp bản ngữ [9]. Đồng thời tác giả cũng coi trọng
việc xây dựng các bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS.
Đây cũng là một trong những cơ sở góp phần định hướng cho việc dạy và học
TV đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo trình Phương pháp dạy học TV [45] có tất cả tám chương, trong đó
các tác giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học
TV. Trong chương này (chương một) các tác giả nói khá rõ về: Giao tiếp và
hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học TV.
Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? được Lê A bàn đến trong bài
viết: Dạy TV là dạy một hoạt động và bằng hoạt động [1]. Tác giả chú ý
đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học TV cùng với
một số thao tác cơ bản khi dạy học (Thao tác phân tích-phát hiện; Thao tác
phân tích - chứng minh; Thao tác phân tích – phán đốn); Giới thiệu về
phương tiện dạy học Grap (sơ đồ mạng để trình bày những vấn đề cần truyền
13
đạt). Sau khi trình bày về các vấn đề trên, tác giả nhấn mạnh: “Tri thức về TV
chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào hoạt động
giao tiếp”, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngơn ngữ”. Có thể nói bài
viết này là một gợi ý tốt cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, lựa chọn sử
dụng các phương pháp, phương tiện dạy học TV theo quan điểm giao tiếp.
Từ những năm 1994 – 1995, hàng loạt các cuộc hội thảo đánh giá
chương trình Tiểu học đang được thực hiện (Chương trình cải cách giáo dục,
Chương trình thử nghiệm của công nghệ giáo dục….) và sự xuất hiện của
giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt, một số tập chuyên luận như: Văn
miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả ở Tiểu học ( Nguyễn Trí), Dạy
ngữ pháp ở Tiểu học (Lê Phương Nga), Dạy từ ngữ ở Tiểu học (Phan
Thiều, Lê Hữu Tỉnh)…. Những thành tựu đó đã đặt cơ sở lí thuyết và tổng kết
kinh nghiệm cho các hoạt động nghiên cứu, biên soạn SGK, đổi mới PPDH
tiếng Việt. Chương trình tiếng Việt mới ra đời đã khẳng định, dạy tiếng Việt ở
Tiểu học nhằm mục tiêu dạy kĩ năng tiếng Việt và rèn luyện năng lực sử
dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong mơi trường hoạt động của lứa
tuổi.
Bùi Minh Tốn và Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Quan điểm giao tiếp trong
việc dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và
phù hợp với đối tượng. Ngôn ngữ cần phải hoạt động để thực hiện chức năng
giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra
các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp” [41]. Bàn về “độ phổ biến” của quan
điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Thị Ly Kha [38] cho rằng:
“Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và
phương pháp dạy học”. Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể
hiện ở “Cách bố trí thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều
không tập trung vào việc nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng
14
rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao tiếp”. Về
phương pháp dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở điểm:“Các kiến
thức và kĩ năng trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều
bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn ở lớp 5 hoặc với các tình huống giao tiếp
tự nhiên”. Kèm theo những nội dung trình bày là những ví dụ sinh động. Do
trình bày dưới dạng hỏi - đáp, nên tài liệu này chỉ dừng ở giới hạn cung cấp
những gợi ý có tính chất định hướng cơ bản về nội dung, hình thức tổ chức
dạy học môn TV ở lớp 5 theo quan điểm giao tiếp.
Trong bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và
học TV trong nhà trường phổ thông hiện nay [16], Vũ Thị Thanh Hương đã
đề cập và phân tích khá sâu khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý
kiến khác nhau của các học giả (Chomsky, Campbell &Wales, Himes, Murby,
Canale& Swain, Bachman) xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả
bài viết so sánh đối chiếu các nội dung kiến thức TV được trình bày trong các
chương trình TV hiện hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo) với các nội dung
của mơ hình lí thuyết về“năng lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao
tiếp”, người viết tìm hiểu chương trình dạy TV trong nhà trường phổ thơng đầu
thế kỉ 21 và nhận xét:“Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà
chúng tơi được tiếp cận cho đến bây giờ, quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ mục tiêu giảng dạy TV ở tất cả các cấp trong nhà trường
phổ thông hiện nay”. Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chương trình TV ở các
cấp học để làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm
bảo cung cấp đủ kiến thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực
giao tiếp?”.
Một trong số những người nghiên cứu về dạy TV trung học phổ thơng
theo tình huống giao tiếp [17] - Lê Thị Bích Hồng - đã khẳng định sự cần
thiết phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy TV: “Trong dạy học, để
15
giúp HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của
mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải quiết các tình huống mới,
tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập,sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận
thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình huống giao tiếp”. Trong bài
viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối đầy đủ về tình huống giao
tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng như những yêu cầu cần thiết
của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng; từ cơ sở đó, tác giả mơ tả khái
qt qui trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy TV.
2.2.Về dạy các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh tiểu học
Từ đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong hệ thống ngơn ngữ, từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ nên việc dạy học từ cho HS Tiểu học nói riêng
và cho HS phổ thơng nói chung đều rất được chú trọng. Đã có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu về phương pháp dạy học từ ngữ ở Tiểu học. Một số cuốn
sách đề cập đến mảng nghiên cứu này như: Phương pháp dạy học Tiếng
Việt của các tác giả Lê A- Nguyễn Quang Ninh- Bùi Minh Toán- NXB Giáo
dục- 1997, Phương pháp dạy học Tiếng Việt (tập 1)(Giáo trình đào tạo giáo
viên Tiểu học hệ CĐSP và SP 12+2) [2], Giáo trình Phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học(tập 1, tập 2), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học (tập hợp các kết quả nghiên cứu được công bố trên các báo, tạp chí)
của tác giả Lê Phương Nga, cuốn Dạy học từ ngữ ở Tiểu học của tác tả Lê
Hữu Tỉnh [37].….Các cuốn sách đều đề cập đến nội dung dạy lí thuyết về từ
và thực hành từ ngữ.
Cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt [2] trình bày rõ phương pháp
dạy lí thuyết và thực hành từ ngữ, trong đó tác giả Lê A nhấn mạnh “Thực
hành luyện tập, các em có điều kiện vận dụng từ ngữ vào hoạt động lời nói của
mình, nâng cao trình độ tiếng mẹ đẻ…. Các cuốn “ Phương pháp dạy học
16
Tiếng Việt” nói chung đều nêu cấu tạo, cách thức thực hiện từng loại bài “lí
thuyết từ ngữ” và “thực hành từ ngữ”, các tác giả đều nhấn mạnh việc dạy “lí
thuyết về từ” bên cạnh việc giúp các em nắm được một số khái niệm cơ bản
mà quan trọng là các em có thể có thể sử dụng như một cơng cụ, do đó cần
chú trọng ngun tắc giao tiếp.
Trong cuốn “Dạy học từ ngữ ở Tiểu học” [37], khi đề cập đến dạy “lí
thuyết về từ”, tác giả Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh cho rằng: các khái niệm được
rút ra từ những bài thực hành về từ, học sinh khơng những nhận diện được mà
cịn phải sử dụng được các khái niệm này trong thực tiễn ngôn ngữ, giúp học
sinh sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp.Tác giả cũng nhấn
mạnh:“các tri thức về Tiếng Việt phải có tác dụng hình thành, phát triển năng
lực thực tiễn hoạt động ngôn ngữ cho học sinh”.
Hoạt động giao tiếp với dạy học TV ở tiểu học [11] là một giáo trình
có ích cho những GV, những người nghiên cứu quan tâm đến việc dạy TV
trong nhà trường như thế nào để có hiệu quả. Các tác giả Phan Phương Dung
và Đặng Kim Nga đã nghiên cứu khá sâu và rõ ràng những vấn đề về hoạt
động giao tiếp trong việc dạy học TV ở tiểu học. Giáo trình gồm ba chương:
Chương một đề cập đến vấn đề giao tiếp và hoạt động giao tiếp; chương hai
xoáy sâu vào từ và câu trong hoạt động giao tiếp; chương ba - phần trọng tâm,
có ý nghĩa thực tiễn - Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Giáo trình đã
vạch ra hướng đi cụ thể cho hoạt động dạy học TV trong nhà trường theo quan
điểm giao tiếp: từ việc lựa chọn các tri thức TV, xác lập các qui tắc sử dụng TV
đến việc xác định các kĩ năng sử dụng TV cần rèn luyện cho HS. Và việc lựa
chọn, sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức nào trong dạy học TV…
Tác giả Chu Thị Thủy An trong cuốn Dạy học Luyện từ và câu ở tiểu
học [4] đã nêu rõ “ dạy tiếng Việt trong nhà trường phải như dạy một công cụ
17
giao tiếp và phương pháp tốt nhất là dạy trong giao tiếp”. Tài liệu cũng cho
rằng, muốn tổ chức tốt việc thực hành giao tiếp cho học sinh, phải “chú trọng
xây dựng hệ thống bài tập LTVC. Tất cả các nội dung dạy học về từ và câu đều
phải được thiết kế thành hệ thống bài tập, là hệ thống các nhiệm vụ mà học
sinh phải thực hiện trong quá trình học tập”.
Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài
tập TV dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: “Theo quan điểm
dạy học TV hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập TV phải đảm
bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho HS. Dạy học TV sử dụng
phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất.
Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được
học vào thực hiện các nhiệm vụ của q trình giao tiếp, có chú ý đến đặc
điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp” [19].
Bên cạnh đó, có rất nhiều bài báo bàn về một số vấn đề dạy lí thuyết từ:
“Một số nội dung dạy học cấu tạo từ theo định hướng giao tiếp” [30],
“Quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học [6] …..Các tác
giả đều cho rằng : việc trang bị tri thức về ngôn ngữ không nhằm mục đích tự
thân mà là phương tiện nhận diện đơn vị ngôn ngữ, nắm chức năng của chúng
để từ đó sử dụng trong lời nói.
Các cơng trình nghiên cứu, các tài liệu được dẫn ở trên và các tài liệu
chưa được nhắc tới trong luận văn do khuôn khổ đã đề cập khá nhiều đến vấn
đề dạy từ ngữ cho học sinh tiểu học, các bài viết cũng chỉ ra ưu điểm của việc
dạy học theo quan điểm giao tiếp và vạch ra các định hướng chính cho giáo
viên trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, phần nhiều số bài viết chưa có sự cụ
thể hố vào dạy học ở từng phân môn, hơn thế, các tài liệu nghiên cứu nói
trên khơng bàn về việc dạy các lớp từ có quan hệ về nghĩa theo nguyên tắc
18
giao tiếp một cách riêng biệt. Vì vậy, vấn đề luận văn đưa ra là một vấn đề
mới, cần được nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
-Nghiên cứu nhằm xác lập cơ sở lí luận và thực tiễn để xây dựng hệ
thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa theo quan điểm giao
tiếp.
- Đưa ra biện pháp dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa theo
quan điểm giao tiếp thông qua việc xây dựng hệ thống bài tập giao tiếp.
- Góp phần giải quiết những khó khăn vướng mắc về việc tổ chức dạy
học các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho HS lớp 5 ở các trường Tiểu học trên
địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học mạch kiến thức về “các lớp từ có quan hệ về nghĩa”
ở lớp 5.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống bài tập dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh
lớp 5 theo quan điểm giao tiếp.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát thực trạng và thử nghiệm trên học sinh lớp 5
của các trường tiểu học thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống bài tập dạy sử dụng “các lớp từ có quan hệ
về nghĩa ” cho học sinh lớp 5 đảm bảo nguyên tắc giao tiếp, đặc biệt khai thác
được sự thú vị và những lợi ích của các lớp từ đó trong sử dụng ngơn ngữ,
trên cơ sở tính tốn đầy đủ đến việc phân hóa trình độ của học sinh thì sẽ
19
tăng cường hứng thú học tập của các em, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học nội
dung này ở Tiểu học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa
- Xây dựng hệ thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa
theo hướng phân hóa.
-Thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm tính khả thi của hệ thống bài
tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa đã xây dựng.
7. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái qt
hóa những tài liệu lí luận để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực trạng:
6. 2.1.Phương pháp quan sát : nhằm tìm hiểu thực trạng dạy học các lớp
từ có quan hệ về nghĩa, đồng thời cũng là cơ sở khẳng định, kiểm định các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đã đề xuất.
6. 2.3. Phương pháp điều tra: nhằm thu thập thông tin đánh giá thực
trạng dạy học các lớp từ có quan hệ về nghĩa.
6.2.4.Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tổng kết kinh nghiệm của các
nhà khoa học giáo dục về các vấn đề liên quan đến đề tài.
6.2.5.Phương pháp thống kê toán học : nhằm phân tích xử lí tất cả các
mẫu phiếu điều tra, dùng để đánh giá tính cấp thiết và mức độ khả thi của các
biện pháp đề xuất.
8. Một số đóng góp của luận văn
20
- Làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc dạy các lớp từ
có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5 theo nguyên tắc giao tiếp.
- Đưa ra hệ thống bài tập dạy sử dụng các lớp từ có quan hệ về nghĩa
theo hướng phân hóa, qui trình dạy thực hành sử dụng từ cho học sinh lớp 5
đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc giao tiếp và theo các nhóm, dạng cụ thể có
tính khoa học, sư phạm, khả thi.
9. Cấu trúc nội dung của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Cơ sở thực tiễn
Chương 3: Xây dựng hệ thống bài tập dạy học các lớp từ có quan hệ về
nghĩa theo quan điểm giao tiếp
21
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
1.1.1. Bản chất của quan điểm giao tiếp
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Theo “Từ điển Tâm lí học” của Nguyễn Khắc Viện thì: Giao tiếp là q
trình truyền đi, phát đi một thơng tin từ một người hay một nhóm cho một
người hay một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương tác).
Trần Thị Minh Đức trong “Tâm lí học đại cương” cho rằng: Giao tiếp là quá
trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức, thơng
qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua
lại lẫn nhau. Từ điển “Thuật ngữ ngôn ngữ học” nêu rõ: Giao tiếp là “sự
thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Có thể hiểu
giao tiếp là hoạt động giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau
một thơng tin trí tuệ hoặc cảm xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về
sự vật, hiện tượng nào đó.
Khái niê ̣m giao tiếp tương đố i rõ ràng và đầ y đủ là khái niê ̣m giao tiếp
trong “Sách giáo viên Tiếng Việt 5”:
“Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc... nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, cộng tác...
giữa các thành viên trong xã hội… Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải
mã (nhận thông tin), ký mã (phát thông tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có
thể được thực hiện bằng hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút ngữ (đọc,
viết)” .[55.tr.6]
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi tác giả tuỳ
theo phương diện nghiên cứu của mình đã rút ra một định nghĩa giao tiếp theo
22
cách riêng và làm nổi bật khía cạnh nào đó. Từ những khái niê ̣m trên, có thể
khái quát hóa la ̣i và hiể u khái niê ̣m giao tiếp tổ ng thể như sau: giao tiếp là sự
tiếp xúc giữa người với người nhằm trao đổi thông tin, tư tưởng tình cảm…
Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người.
1.1.1.2. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, bằng
những phương tiện khác nhau, như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, điện ảnh, cử
chỉ,...Nhưng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của
xã hội lồi người.
Giao tiếp bằng ngơn ngữ là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người
bằng cách sử dụng những tín hiệu ngơn ngữ, tín hiệu đặc biệt dùng chỉ chính
bản thân sự vật, hiện tượng. Thơng qua giao tiếp bằng ngơn ngữ, con người có
thể lưu trữ, truyền đạt, lĩnh hội và phát triển kinh nghiệm xã hội – lịch sử.
Giao tiếp là nhu cầu thường xuyên không thể thiếu của con người. Hoạt
đông giao tiếp diễn ra khi có ít nhất hai người tiếp xúc, trao đổi với nhau một
nội dung nào đó. Sản phẩm của hoạt động giao tiếp là ngôn bản. Ngôn bản là
chuỗi ngôn từ được sắp xếp theo một qui tắc nhất định để thể hiện nội dung
được trao đổi trong giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp diễn ra theo hai quá trình: quá trình sản sinh (kí mã)
và tiếp nhận (giải mã).
Hai q trình của hoạt động giao tiếp được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Người phát
( nói/viết)
tạo lập
Ngơn bản
lĩnh hội
Người nhận
(nghe/đọc)
23
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, khi ở ta ở địa vị người nhận (người
nghe /đọc) ta phải hiểu những từ mà người phát (người nói/viết) sử dụng
trong ngơn bản. Vì vậy, các kĩ năng mà HSTH cần được rèn luyện với tư cách
là người nhận, đó là kĩ năng nghe(nghe-hiểu) và kĩ năng (đọc- hiểu). Khi ở vị
trí người phát(người nói/viết) ta cần phải biết huy động từ, lựa chọn và kết
hợp từ để diễn tả ý, để tạo ra phát ngôn, ngôn bản. Các kĩ năng mà HSTH cần
được rèn luyện với tư cách là người phát, đó là kĩ năng lựa chọn từ, thay thế
từ, kết hợp từ để tạo ra các ngơn bản dạng nói, viết.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một cấu trúc động bao gồm 4 giai
đoạn: định hướng, lập chương trình, hiện thực hoá và kiểm tra. Chúng được
thực hiện kế tiếp nhau một cách liên tục. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngơn
ngữ có nhiều nhân tố tham gia và ảnh hưởng đến các phương diện của hoạt động
giao tiếp. Những nhân tố này vừa góp phần thực hiện hoạt động, vừa ảnh hưởng
chi phối đến hoạt động. Đó là các nhân tố:
a. Nhân vật giao tiếp: là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Trong giao tiếp, các nhân vật giao tiếp luân phiên đảm nhiệm vai trò người
phát (nói/viết) hoặc người nhận (nghe/đọc).
Giữa các nhân vật giao tiếp có thể có các quan hệ cùng vai (như quan hệ
bạn học, đồng nghiệp với nhau…), hoặc quan hệ khác vai (quan hệ cha mẹ với
con; thầy cô giáo và HS…). Muốn cuộc giao tiếp đạt kết quả như mong muốn,
người phát cần phải xác định đúng quan hệ vai giữa mình với người nhận để
lựa chọn hình thức giao tiếp thích hợp nhất.
Đặc điểm của các nhân vật giao tiếp về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về giới
tính và trình độ hiểu biết, về vốn sống, về địa vị xã hội… đều luôn luôn ảnh
hưởng và để lại dấu ấn trong hoạt động giao tiếp, nhất là trong các ngôn bản.
Nhân tố nhân vật giao tiếp trả lời cho các câu hỏi: ai nói (ai viết)?, nói với ai?
24
( viết cho ai?).
b.Hiện thực được nói tới: Đây là nhân tố nội dung giao tiếp. Nó bao gồm
những sự kiện, hiện tượng, sự vật trong thực tế khách quan và cả những tình
cảm, tâm trạng của con người. Hiện thực được nói tới tạo thành đề tài và nội
dung của hoạt động giao tiếp. Nhân tố này cũng luôn ln ảnh hưởng đến
những hình thức và đặc điểm của hoạt động giao tiếp, của ngôn ngữ và trả lời
các câu hỏi: nói (viết) cái gì / vấn đề gì? Chẳng hạn, nếu nói về một vấn đề
khoa học thì ngôn ngữ, cách diễn đạt, cách cấu tạo ngôn bản có nhiều điểm
khác với việc nói về tình cảm, cảm xúc của con người.
c.Hoàn cảnh giao tiếp: Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh diễn ra cuộc
giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ cũng như những hoạt động
khác của con người - luôn luôn diễn ra trong những hồn cảnh nhất định. Đó
là hồn cảnh khơng gian, thời gian với những đặc điểm của môi trường mà
hoạt động giao tiếp diễn ra (hồn cảnh giao tiếp hẹp). Đó cịn là hồn cảnh lịch
sử, kinh tế, xã hội, văn hố…của dân tộc, của đất nước (hồn cảnh giao tiếp
rộng). Các nhân tố trong hồn cảnh giao tiếp ln ln chi phối các phương
diện của hoạt động giao tiếp: từ việc lựa chọn nội dung đến cách thức thể hiện,
và cả những nghi thức trong giao tiếp. Nhân tố hoàn cảnh trả lời cho câu hỏi:
nói (viết) trong hồn cảnh nào?
d.Mục đích giao tiếp: Giao tiếp có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau,
có thể nhằm mục đích làm quen, bày tỏ nỗi vui mừng, lo sợ, thông báo cho
người nghe một tư tưởng, một nhận thức, đưa ra một lời mời, hay một yêu
cầu đòi hỏi người nghe phải thực hiện, đặt ra một câu hỏi về một vấn đề
mà mình chưa rõ để người nghe giải đáp,…Với cuộc giao tiếp có nhiều
mục đích thì có mục đích chính và mục đích phụ. Khi đạt được mục đích đã
đặt ra thì hoạt động giao tiếp cũng đạt được hiệu quả. Nhân tố mục đích giao
25
tiếp trả lời các câu hỏi: nói (viết) để làm gì?
e.Phương tiện và cách thức giao tiếp: Phương tiện giao tiếp ở đây là
ngôn ngữ, là TV đối với đại đa số người Việt Nam. Song TV gồm nhiều phong
cách ngơn ngữ khác nhau, và có sự phân biệt ở mức độ nhất định giữa các
tiếng địa phương, các ngôn ngữ nghề nghiệp, chun mơn. Do đó, tuỳ từng
phạm vi, từng lĩnh vực hoạt động của con người, những nhân vật giao tiếp cần
lựa chọn những yếu tố ngôn ngữ thích hợp. Hơn nữa, hoạt động giao tiếp cịn
có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau: nói miệng hay dùng
văn bản viết, trong văn bản viết thì dùng dạng văn xi hay văn vần, trình bày
trực tiếp nội dung cần giao tiếp hay trình bày thong qua hình ảnh, sự so sánh,
ví von… Tất cả điều đó đều ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp, đến việc hình
thành ngơn bản và cả đến việc lĩnh hội ngơn bản. Nhân tố này trả lời câu hỏi:
nói(viết) như thế nào?
Hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ cần phải có đầy đủ 5 nhân tố trên để
hiệu quả giao tiếp đạt được là cao nhất.
Tóm lại: hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ ln ln có sự chi phối
của nhiều nhân tố. Chúng tác động đến sự hình thành và lĩnh hội ngôn bản,
đồng thời để lại dấu ấn trong ngôn bản. Những nhân vật tham gia giao tiếp
cần ý thức rõ điều đó để sử dụng ngơn ngữ vào hoạt động giao tiếp một cách
có hiệu quả và đạt được mục đích.
1.1.2. Mối quan hệ giữa quan điểm giao tiếp và quan điểm dạy học tích cực
1.1.2.1. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
Việc dạy tiếng Việt phải nhằm vào hai chức năng của ngôn ngữ (tư duy
và giao tiếp); phải chú trọng vào bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết); phải
hướng tới sự giao tiếp và sử dụng phương pháp giao tiếp.