Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

DẠY TIẾNG VIỆT LỚP 11 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.82 MB, 199 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________


Nguyễn Thị Thùy Trang



DẠY TIẾNG VIỆT LỚP 11
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP


Chuyên ngành : Lý luận và Phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ LY KHA




Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Ly Kha. Cô đã tận tình hướng dẫn
không chỉ về chuyên môn mà còn cả về hình thức, bố cục trình bày, cách diễn đạt; giới thiệu và gửi


tặng tài liệu nghiên cứu giúp tôi có nhiều cơ sở để hoàn thành luận văn. Xin cảm ơn TS. Trần
Thanh Bình đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu cho đề tài luận văn của tôi. Đồng thời, tôi xin
cảm
ơn Ban Giám hiệu, Các giáo viên trong tổ Ngữ Văn và Thầy Đỗ Trung Lai (giáo viên dạy
Toán) Trường trung học phổ thông Tân Châu (An Giang); Cô Phan Thị Cẩm Lan (Trường trung
học phổ thông Châu Văn Liêm - An Giang); Cô Trần Thị Mộng Thúy (Trường trung học phổ
thông Mỹ Thới - An Giang); Cô Lê Linh Chi (Trường trung học phổ thông Hùng Vương - Thành
phố Hồ Chí Minh) đã tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp cùng tôi trong việc th
ực nghiệm sư phạm.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ, người đã tận tình chỉ dẫn cho tôi nhiều tài liệu và
phương pháp nghiên cứu đề tài, đồng thời đọc và góp ý rất nhiều cho luận văn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt (TV) là môn học (phân môn) được dạy từ tiểu học đến trung học phổ
thông hiện nay. Về phương pháp, nếu như ở tiểu học, việc dạy theo quan điểm giao tiếp
đã được xác định, được thể hiện khá rõ và nhất quán từ chương trình đến sách giáo
khoa (SGK), sách giáo viên (SGV), tài liệu dạy học và phương pháp, hình thức tổ chức
dạy họ
c thì ở trung học cơ sở và trung học phổ thông việc dạy học TV vẫn còn nặng về
cấu trúc; quan điểm giao tiếp trong dạy học TV chưa được chú ý khai thác một cách
triệt để đúng với vai trò và thế mạnh của nó. Nhiều giáo viên (GV) chưa thật quan tâm
đến việc hướng học sinh (HS) học TV để giao tiếp và giao tiếp có hiệu quả; cũng có
những GV quan tâm đến việc dạy TV theo định hướng giao tiế
p nhưng gặp khó khăn
trong quá trình giảng dạy. GV THPT hầu như chỉ quan tâm đến dạy văn, chưa chú ý

đến dạy TV; suốt thời gian dài trước đây, dạy học tiếng theo quan điểm cấu trúc nên
khó tránh khỏi khó khăn khi nắm bắt và vận dụng quan điểm giao tiếp.
Từ thực tế giao tiếp với HS, cũng như qua các bài kiểm tra, bài viết của các em,
các thầy cô giáo đều có chung nhận xét: “kĩ năng trình bày, di
ễn đạt của HS phần nhiều
chưa tốt”; có em có ý tưởng nhưng “không biết trình bày”, “lúng túng khi diễn đạt, nói
(viết) vụng về, sơ sài” hoặc “lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu logic”, khiến người nghe
khó nắm bắt được vấn đề các em muốn trình bày,…
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong việc sử dụng TV của HS, trong
đó có cả việc nhà trường dạy học phân môn TV chưa đạ
t hiệu quả mong muốn. Nhận
xét chung về tình hình dạy học TV trong nhà trường hiện nay, Lê A cho rằng: “Tình
trạng nội dung lí thuyết và bài tập thực hành mang nặng tính chất ngôn ngữ, tính cấu
trúc là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả thấp của việc dạy học
TV hiện nay trong nhà trường phổ thông. Chúng ta dạy nhiều, HS học nhiều và có thể
biết nhiều song vẫn còn thiếu nhiều hiểu biết
đến nơi đến chốn về cách thức và nghệ


2

thuật sử dụng TV. Và kết quả tất yếu là năng lực TV của các em còn nhiều non yếu,
không đáp ứng được yêu cầu giao tiếp trong công việc học tập cũng như trong lĩnh vực
giao tiếp xã hội”. “Chọn hoạt động giao tiếp làm đối tượng dạy học chẳng những
không bỏ qua các tri thức Việt ngữ mà còn góp phần làm cho những tri thức ấy linh
hoạt, phong phú hơn và gần với th
ực tế cuộc sống hơn.” (“Dạy TV là dạy một hoạt
động và bằng hoạt động” – Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001).
Đây cũng là sự gợi ý cho những ai quan tâm đến việc dạy học TV, nghiên cứu về
phương pháp dạy học TV.

Nếu việc học của HS chỉ dừng lại ở những kiến thức về TV trong nhà trường thì
chưa đủ, kiến thức chỉ
hoàn chỉnh và vững chắc khi HS đã thực sự vận dụng vào hoạt
động giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Chỉ có đặt trong
hoạt động giao tiếp, thì giá trị của các phương tiện ngôn ngữ mới được xác định. Và
cũng chỉ có trong hoạt động giao tiếp, trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ với các yếu tố
giao tiếp nằm ngoài ngôn ngữ thì HS mới có điề
u kiện để hiểu chắc, hiểu sâu TV và
biết cách sử dụng phù hợp, hiệu quả.
Việc dạy học TV chỉ thật sự có ý nghĩa khi HS rèn luyện được kĩ năng và nâng cao
được khả năng giao tiếp. Bởi vậy, nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy học TV là
điều cần quan tâm và thực hiện. Để góp phần cải tiến phương pháp dạy học, nâng cao
hiệu quả
dạy học TV ở bậc trung học phổ thông, chúng tôi chọn đề tài: Dạy TV lớp 11
theo quan điểm giao tiếp.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng chức năng đề cao chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ. Họ cho rằng cần phải tập trung vào việc phát triển năng lực giao tiếp hơn là
chỉ dạy cho người học cách nắm vững các cấu trúc. Các họ
c giả đầu tiên chủ trương
quan điểm này là Widdowson H.G (1972), Wilkins D.A (1972), Candlin C.N (1976),
Brumfit C.J và Johnsonk (1979). Họ đã dựa vào công trình nghiên cứu của các nhà


3

ngôn ngữ học chức năng Anh (John Firth M.A.K. Halliday (1970)), công trình nghiên
cứu về xã hội học của các nhà nghiên cứu Mĩ (Hymes D. và Gumperz J.J (1972),
Labov W. (1972)) và các kết quả nghiên cứu ngữ dụng học của Austin J.L (1962) và
Searle J.R (1969), để đề ra cơ sở lí luận cho đường hướng dạy học tiếng theo quan

điểm chức năng hay còn gọi là quan điểm giao tiếp. Từ giữa những năm 70 đường
hướng dạy học theo quan điểm này được phát triển r
ộng rãi ở Anh và Mĩ. Mục đích
chính của nó là làm cho năng lực giao tiếp trở thành mục tiêu chính của việc dạy và
học tiếng.
Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến việc dạy và học
ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa trên lý thuyết hoạt
động lời nói. Ông khẳng định: “Trên quan điểm coi hoạt
động lời nói trong giao tiếp
như mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động
giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho HS phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao
tiếp, quan sát hành vi lời nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao
tiếp trích dẫn để nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã
có ý thức về n
ăng lực giao tiếp, tổ chức cho HS sáng tạo các hành vi lời nói trong giao
tiếp, [...], tức là dạy cho HS ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi trường có tính thực
tiễn nhất của đời sống” (Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học TV ở trường
trung học, Tp. HCM, 1998). Đồng thời tác giả cũng coi trọng việc xây dựng các bài
tập tình huống để rèn luyện năng lực giao ti
ếp cho HS. Đây cũng là một trong những
cơ sở góp phần định hướng cho việc dạy và học TV đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo trình Phương pháp dạy học TV (tập 2, Nxb Giáo dục, 2001) do nhóm tác giả:
Nguyễn Trí - Lê A - Lê Phương Nga biên soạn có tất cả tám chương, trong đó các tác
giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học TV. Trong
chương này (chương một) các tác gi
ả nói khá rõ về : Giao tiếp và hoạt động giao tiếp.
Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học TV. Sự thể hiện của quan điểm


4


giao tiếp trong việc dạy học TV . Nội dung của chương này là một trong những cơ sở
khoa học cho đề tài nghiên cứu “Dạy TV 11 theo quan điểm giao tiếp” của chúng tôi.
Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? được Lê A bàn đến trong bài viết Dạy
TV là dạy một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001). Tác giả
chú ý đến vấn đề sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học TV cùng với một
số thao tác cơ bản khi dạy học (Thao tác phân tích - phát hiện; Thao tác phân tích -
chứng minh; Thao tác phân tích - phán đoán); Giới thiệu về phương tiện dạy học Grap
(sơ đồ mạng để trình bày những vấn đề cần truyền đạt). Sau khi trình bày về các vấn đề
trên, tác giả nhấn mạnh: “Tri thức về TV chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã
thực s
ự vận dụng vào hoạt động giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của
ngôn ngữ”. Có thể nói bài viết này là một gợi ý tốt cho việc tổ chức các hoạt động dạy
học, lựa chọn sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học TV theo quan điểm giao
tiếp.
Cũng trong tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001, Nguyễn Minh Thuyết trao đổi về Mấy
quan đ
iểm cơ bản trong việc biên soạn SGK TV (thử nghiệm) bậc tiểu học và bậc
trung học cơ sở. Bài viết này giới thiệu một số quan điểm cơ bản trong việc biên soạn
hai bộ sách trên: Quan điểm dạy giao tiếp; Quan điểm tích hợp; Quan điểm tích cực
hóa hoạt động học tập của HS. Mặc dù bài viết trên đã được công bố cách đây tám
năm, nhưng những quan điểm ấy vẫn còn có giá trị và có thể áp dụng vào việc biên
soạn SGK Ngữ Văn (phân môn TV), định hướng cho việc giảng dạy TV đúng với mục
tiêu của môn TV.
Vấn đề giao tiếp cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong giáo
trình TV (tập 3, Nxb Giáo dục, 2002) với các nội dung cụ thể như : Các chức năng của
ngôn ngữ - chức năng giao tiếp. Ho
ạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ
thống ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp: những sự biến đổi và chuyển hóa. Vai trò

của các quan hệ hệ thống trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan


5

điểm giao tiếp trong dạy - học TV. Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định:
“Quan điểm giao tiếp trong việc dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản
chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. […] Ngôn ngữ […] cần phải hoạt động
để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương
tiện, v
ừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp”.
Bàn về “độ phổ biến” của quan điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn
Thị Ly Kha cho rằng: “Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội
dung và phương pháp dạy học”. Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể
hiện ở
“Cách bố trí thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không
tập trung vào việc nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng rèn luyện khả
năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao tiếp”. Về phương pháp dạy học, quan
điểm giao tiếp được thể hiện ở điểm:“Các kiến thức và kĩ năng trong phân môn Luy
ện
từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn ở lớp
5 hoặc với các tình huống giao tiếp tự nhiên”. Kèm theo những nội dung trình bày là
những VD sinh động. Do trình bày dưới dạng hỏi - đáp, nên tài liệu này chỉ dừng ở giới
hạn cung cấp những gợi ý có tính chất định hướng cơ bản về nội dung, hình thức tổ
chứ
c dạy học môn TV ở lớp 5 theo quan điểm giao tiếp. Mặt khác, do tính chất đồng
tâm và tính phổ quát của vấn đề, những gợi ý có tính định hướng đó không chỉ dừng ở
giới hạn cho một lớp và một bậc học cụ thể mà còn có tác dụng định hướng cho việc
dạy học TV ở phổ thông nói chung theo quan điểm giao tiếp. (Hỏi - đáp về dạ
y học TV

5, Nxb Giáo dục, 2006).
Trong bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học TV trong
nhà trường phổ thông hiện nay (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/2006), Vũ Thị Thanh Hương
đã đề cập và phân tích khá sâu khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý kiến
khác nhau của các học giả (Chomsky, Campbell & Wales, Hymes, Murby, Canale &
Swain, Bachman) xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả bài viết so sánh
đối chiếu các nội dung kiế
n thức TV được trình bày trong các chương trình TV hiện


6

hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo) với các nội dung của mô hình lí thuyết về “năng
lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao tiếp”, người viết tìm hiểu chương trình dạy
TV trong nhà trường phổ thông đầu thế kỉ 21 và nhận xét: “Có thể nói, trong tất cả các
tài liệu về chương trình mà chúng tôi được tiếp cận cho đến bây giờ, quan điểm giao
tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
mục tiêu giảng dạy TV ở tất cả các cấp trong nhà
trường phổ thông hiện nay”. Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chương trình TV ở các
cấp học để làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm bảo cung
cấp đủ kiến thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực giao tiếp?”. Tác
giả có trình bày kết quả khảo sát và kết thúc bài viết với vài lờ
i nhận xét ngắn gọn.
Một trong số những người nghiên cứu về dạy TV trung học phổ thông theo tình
huống giao tiếp – Lê Thị Bích Hồng – đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình
huống giao tiếp trong dạy TV: “Trong dạy học, để giúp HS tích cực chủ động, huy
động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới
hay giải quyế
t các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo,
chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình huống

giao tiếp” (Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp,
Giáo dục, số 175, kì 2 – 10/2007). Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa
tương đối đầy đủ về tình hu
ống giao tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng
như những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng; từ cơ sở
đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy
TV.
Giáo trình Ngữ nghĩa học (dùng cho GV và sinh viên ngành giáo dục tiểu học)
(Nguyễn Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân, Nxb Giáo dục, 2008) có đề
cập đến vấn đề dạy học
nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản theo quan điểm giao tiếp. Do mục đích và giới
hạn của giáo trình, những vấn đề về dạy nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản ở đây chỉ
dừng lại ở giới hạn dạy học cho HS tiểu học. Tuy nhiên, ngườ
i quan tâm vẫn có thể tìm
thấy ở đây những định hướng, những gợi ý cho việc dạy học các đơn vị mang nghĩa


7

theo quan điểm giao tiếp cho HS trung học.
Hoạt động giao tiếp với dạy học TV ở tiểu học (Nxb Đại học Sư Phạm, 2009) là
một giáo trình có ích cho những GV, những người nghiên cứu quan tâm đến việc dạy
TV trong nhà trường như thế nào để có hiệu quả. Phan Phương Dung và Đặng Kim
Nga đã nghiên cứu khá sâu và rõ ràng những vấn đề về hoạt động giao tiếp trong việc
dạy học TV ở tiểu h
ọc. Giáo trình gồm ba chương: Chương một đề cập đến vấn đề giao
tiếp và hoạt động giao tiếp; chương hai xoáy sâu vào từ và câu trong hoạt động giao
tiếp; chương ba – phần trọng tâm, có ý nghĩa thực tiễn – Dạy học TV theo quan điểm
giao tiếp. Giáo trình đã vạch ra hướng đi cụ thể cho hoạt động dạy học TV trong nhà
trường theo quan điểm giao tiếp: từ việ

c lựa chọn các tri thức TV, xác lập các quy tắc
sử dụng TV đến việc xác định các kĩ năng sử dụng TV cần rèn luyện cho HS. Và việc
lựa chọn, sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức nào trong dạy học TV,… giáo
trình đều nêu rõ. Tuy giáo trình chỉ giới hạn trong việc dạy học TV ở Tiểu học nhưng
đối với các GV dạy TV ở Trung học cơ sở hay ở Trung học phổ thông thì đề
u tìm thấy
ở giáo trình này những định hướng làm cơ sở cho việc dạy TV một cách có hiệu quả
theo quan điểm giao tiếp.
Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập TV dưới
ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: “Theo quan điểm dạy học TV hướng vào
hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập TV phải đảm bả
o phục vụ cho việc phát triển
khả năng giao tiếp cho HS. Dạy học TV sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương
pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng
dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao
tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp”.
(
)
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu đi sâu vào việc dạy học TV
theo quan điểm giao tiếp ở một khối lớp cụ thể nói riêng và toàn bộ bậc trung học phổ


8

thông nói chung, vẫn chưa có một công trình nào cung cấp cho ta một bức tranh toàn
cảnh về dạy học TV ở phổ thông theo quan điểm giao tiếp. Vì thế, việc triển khai đề
tài: Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, theo chúng tôi, là cấp thiết.
Mặc dù các giáo trình, các tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực tiến đến
vấn đề mà đề tài này quan tâm nhưng chính các công trình trên là những định hướng,
những gợi ý quý báu giúp người thực hiện

đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao
tiếp triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu về nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học TV theo quan điểm giao tiếp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi muốn góp
phần giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm của việc
đổi mới phương pháp dạy
học Ngữ Văn hiện nay: tổ chức dạy học TV trong chương trình trung học phổ thông
(đặc biệt là ở lớp 11) theo quan điểm giao tiếp.
Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu về dạy học phân môn TV ở trường phổ
thông trung học theo quan điểm giao tiếp, tác giả luận văn sẽ chú ý đến những ưu thế
và tính khả thi của h
ướng đi này trong việc vận dụng vào thực tế dạy học TV hiện nay.
Từ đó, luận văn sẽ đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy học theo quan
điểm giao tiếp và thử nghiệm vận dụng vào thực tế khi tiến hành dạy học một số bài
thuộc phân môn TV ở lớp 11 theo quan điểm giao tiếp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thự
c hiện đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi tập trung
nghiên cứu về quá trình hoạt động dạy và học TV theo hướng giao tiếp ở GV và HS.
Do điều kiện thời gian có hạn và trong khả năng cho phép, chúng tôi chỉ tiến hành khảo
sát đối tượng GV và HS khối 11 ở ba trường: trung học phổ thông Tân Châu (thị xã
Tân Châu - An Giang (AG)), trường trung học phổ thông Châu Văn Liêm (huyện Chợ


9

Mới - AG) và trường trung học phổ thông Mỹ Thới (thành phố Long Xuyên - AG).
Đề tài giới hạn ở phạm vi khảo sát về hoạt động dạy TV của GV và hoạt động học
của HS. Bao gồm các khía cạnh sau: (1) Mức độ truyền đạt nội dung lí thuyết, nội dung

thực hành TV của GV trên lớp và mức độ hiểu, vận dụng lí thuyết vào thực hành TV
của HS. (2) Khả năng HS vận dụng những kiế
n thức TV đã biết vào trong sinh hoạt
hàng ngày; khả năng sử dụng linh hoạt TV vào từng hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp
cụ thể.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đặt ra, người viết kết hợp, vận dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, cụ thể
như sau:
5.1. Phương pháp phân tích tổng hợp đượ
c sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn
đề và phát hiện, rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua việc tìm hiểu
các tư liệu, tạp chí, giáo trình, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực Giáo dục học,
Ngôn ngữ học, Tâm lí học, Lí luận và phương pháp dạy học Văn,… có liên quan trực
tiếp đến phạm vi đề tài.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát được sử
dụng để thu thập những tư liệu
thực tế về tình hình dạy và học TV đang diễn ra ở trường trung học phổ thông Tân
Châu và một số trường trung học phổ thông khác trên địa bàn tỉnh An Giang.
5.3. Phương pháp thực nghiệm, ở đề tài này, do mục đích, nhiệm vụ nghiên
cứu, việc thực nghiệm sẽ ở phạm vi tổ chức dạy thực nghiệm giáo án đề xu
ất trong sự
đối chứng với các giáo án thông thường để kiểm nghiệm khả năng ứng dụng và tính
hiệu quả của hướng dạy học phân môn TV theo quan điểm giao tiếp vào quá trình
giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.
5.4. Phương pháp thống kê được sử dụng để xử lí các số liệu thu thập trong quá
trình khảo sát, thực nghiệm, bổ trợ cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằ
m đạt tới



10

những kết luận chính xác, khách quan.
5.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm được dùng để xem xét lại những thành
quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn
và cho khoa học.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu GV vận dụng tốt quan điểm giao tiếp vào dạy học TV 11 thì sẽ: (1) Kích thích
HS học TV tích cực, sáng tạo. (2) Giúp HS sử dụng TV có hiệu quả trong vi
ệc tạo lập
văn bản nói và viết. (3) Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học TV trong trường
Trung học phổ thông hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần Mở đầu, Kết luận và ba chương: (1) Cơ sở lí luận và thực tiễn
của đề tài. (2) Quan điểm giao tiếp với việc dạy TV lớp 11. (3) Thực nghiệm sư
phạm.
Ngoài phần nội dung chính, luận văn còn kèm theo 10 phụ lục (1/ Giáo án thực nghiệm
đối chứng. 2/ Thiết kế giáo án thực nghiệm. 3/ Thuyết minh giáo án thực nghiệm. 4/ Đề
kiểm tra và đáp án. 5/ Phiếu tham khảo ý kiến GV trung học phổ thông. 6/ Kết quả thu
nhận từ phiếu tham khảo ý kiến GV và HS trung học phổ thông. 7/ Bảng phân phối t –
student. 8/ Đề thi ngữ Văn 11 ở các trường trung học phổ thông. 9/ Bả
ng tổng hợp
điểm kiểm tra của HS. 10/ Bài tập vui, trò chơi TV 11).











11

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” tuy xuất hiện sau thuật ngữ “năng lực ngôn ngữ”
nhưng nhờ sự xuất hiện ấy mà “năng lực giao tiếp” đã làm thay đổi quan điểm dạy học
TV hiện nay, trở thành mục đích cuối cùng của việc dạy và học TV.
Khái niệm “năng lực giao tiế
p” được hiểu thông qua sự đối lập với khái niệm
“năng lực ngôn ngữ”. Năng lực ngôn ngữ là khả năng của con người tạo ra được những
câu đúng trên cơ sở nắm vững những kiến thức ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm, tu từ,... của
ngôn ngữ đó. Còn năng lực giao tiếp, đó là việc lựa chọn và hiện thực hóa những
chương trình của hành vi l
ời nói tùy thuộc vào khả năng định hướng trong hoàn cảnh
này hoặc khác, khả năng phân loại các tình huống sao cho phù hợp với chủ đề, nhiệm
vụ và mục đích giao tiếp ở người học trước khi giao tiếp, trong khi giao tiếp và trong
quá trình mô phỏng các tình huống giống và gần giống như giao tiếp thực. Nói cách
khác, năng lực giao tiếp chính là khả năng tham gia vào giao tiếp.
Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” và “năng lực ngôn ng
ữ” xuất hiện là nhờ có những
công trình nghiên cứu đồ sộ của các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng về sự phân biệt giữa
hai khái niệm “ngôn ngữ (language)” và “lời nói (speech)”. Trong đó, phải kể đến công
trình của nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Ferdinand De Saussure (
Cours de linguistique
génerale (Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương (1916))

. Còn khái niệm “năng lực”
ở nghĩa ban đầu chỉ là khả năng đối với một việc gì đó, sau đó được
Noam Chomsky
đưa vào dùng một cách chính thức trong lĩnh vực ngôn ngữ học (Những chân trời mới
trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức (2008),
dịch giả Hoàng Văn Vân
).


12

Có thể nói, việc chọn năng lực giao tiếp làm mục đích cuối cùng của việc dạy - học
ngôn ngữ dựa trên cơ sở ngôn ngữ học chức năng hay còn gọi là ngôn ngữ học giao
tiếp mà những luận điểm cơ bản của nó có thể được trình bày rút gọn như sau:
Giao tiếp với tư cách là một dạng hoạt động đặc biệt của con người nhằm củ
ng cố
mối quan hệ và được sử dụng để truyền đạt thông tin giữa người và người. Ở đây, có
hai mặt phản ánh qua lại, mặt ngôn ngữ và mặt xã hội vì bất cứ một phát ngôn nào
cũng được sản sinh trong một tình huống cụ thể có kèm theo một nền rất rộng các điều
kiện tạo ra tình huống ấy.
Ngôn ngữ được sử dụng có tính đến tình huống giao tiế
p và sự ảnh hưởng tới
những đặc điểm tâm lý cá thể trong việc sử dụng từ ngữ của người tham gia giao tiếp,
có nghĩa là có tính đến hiệu quả ứng dụng, điều đó loại trừ khả năng tồn tại những phát
ngôn riêng biệt được tạo nên ngoài ngữ cảnh giao tiếp.
Đơn vị giao tiếp là loại hành động lời nói nhất định hoặc hành vi lờ
i nói khẳng
định yêu cầu hỏi han, xin lỗi, cảm ơn,...
Việc hình thành ý định lời nói xảy ra trước khi sản sinh hành vi lời nói. Khi hình
thành ý định lời nói có tính đến sự hiểu biết ban đầu về mục đích, đối tượng giao tiếp,

địa điểm và thời gian của phát ngôn.
Nói tóm lại, theo những luận điểm trên đây thì dạy - học ngôn ngữ là đi theo con
đường từ nội dung đến hình thức ngôn ngữ để
biểu đạt. Ngôn ngữ là phương tiện để
thực hiện những phát ngôn cụ thể. Dạy hoạt động ngôn ngữ (tức là dạy năng lực giao
tiếp) chứ không phải dạy hệ thống ngôn ngữ thuần túy. Tuy nhiên, trong quá trình dạy -
học hai mặt năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp thống nhất biện chứng với nhau.
Dạy năng lực giao tiếp không thể tách rời các hiện t
ượng ngôn ngữ, ngược lại, những
kiến thức của hệ thống ngôn ngữ chỉ được xây dựng và củng cố trên cơ sở nắm được
các kĩ năng lời nói.
1.1.2. Cơ sở tâm lí - ngôn ngữ


13

Theo quan điểm tâm lý học hoạt động do nhà tâm lý học người Nga L. S. Vư-
gốtxki và trường phái của ông đề xướng thì hoạt động lời nói là một dạng hoạt động
đặc biệt của con người, mà hoạt động thì bao gồm nhiều hành động riêng lẻ và mỗi
hành động được tạo thành từ nhiều thao tác riêng biệt. Từ đó suy ra đơn vị dạy - học
ngôn ngữ phải là hành động lời nói.
Dạy hành
động lời nói cần phải xem xét trên quan điểm: Dạy ai?, Dạy cái gì?, Dạy
để làm gì?, Dạy như thế nào?. Đối với việc dạy hoạt động lời nói, sự thống nhất giữa
các mặt chức năng và hình thức của nó là điều có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hình
thức ngôn ngữ không thể có được nếu thiếu mặt chức năng. Nếu mục đích của việ
c dạy
- học là hoạt động lời nói thì hình thức và chức năng cần phải được hình thành đồng
thời, hơn thế, cơ sở để hình thành hoạt động lời nói phải là chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ.

Phương pháp dạy học TV vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lí học. Đó là các
quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. GV cần biế
t, sản phẩm lời nói
được sản sinh ra như thế nào, quá trình học được thiết lập từ những yếu tố nào, khái
niệm ngữ pháp được hình thành ở HS ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển
tư duy ra sao, kĩ năng nói, viết được hình thành như thế nào…? Những nghiên cứu
Tâm lí học cho phép chúng ta xác định mức độ vừa sức của tài liệu học tập.
Mặt khác, Tâm lí ngôn ngữ học đem lại cho phương pháp nh
ững số liệu về lời nói
như một hoạt động, ví dụ (VD) như việc xác định tình huống nói năng, các giai đoạn
sản sinh lời nói, tính hiệu quả, sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa cá thể với
nhiều người.
Quan hệ của phương pháp dạy học TV và Tâm lí học, đặc biệt là Tâm lí học lứa
tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lí ng
ười nói chung và tâm lí HS
trung học phổ thông nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho
các em.


14

Kiến thức thu nhận được từ con đường tự khám phá mới là kiến thức vững chắc
nhất, đáng tin cậy nhất. Người Mỹ có câu châm ngôn: “Nói cho tôi thì tôi sẽ quên. Cho
tôi xem thì tôi có thể sẽ nhớ. Cho tôi tham gia thì tôi sẽ hiểu.”. Người Việt Nam ta
cũng có một cách nói tương tự: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không
bằng một làm”. Cách đ
ây hơn 25 thế kỉ, Khổng Tử cũng nói: “Tôi nghe - tôi quên. Tôi
nhìn - tôi nhớ. Tôi làm - tôi hiểu”. Quan điểm học phương Tây đã mở rộng câu nói
của Khổng Tử thành luận điểm phương pháp học chủ động (the active learning credo):
Tôi nghe - tôi quên. Tôi nghe và nhìn - tôi nhớ chút ít. Tôi nghe, nhìn, hỏi hoặc thảo

luận - tôi bắt đầu hiểu. Tôi nghe, nhìn, h
ỏi, thảo luận và thực hành - tôi bắt đầu học
được kĩ năng và kiến thức. Tôi dạy cho người khác - tôi thành thạo”. Các chuyên gia
giáo dục của Mỹ còn nghiên cứu và đưa ra tỉ lệ mức độ tiếp thu trung bình của người
học từ các phương thức dạy học: Thuyết giảng: 0.5%; đọc: 10%; nghe nhìn: 20%; mô
tả, trình bày: 30%; Thảo luận nhóm: 50%; thực hành: 75%; Dạy cho người khác hoặc
ứng dụng ngay c
ủa việc học: 90%” (Tạp chí Giáo dục, số 229, 1/2010). Như vậy, hầu
hết các ý kiến và quan điểm nghiên cứu phương Đông và phương Tây đều khẳng định
tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động học tập ở người học.
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
Phương pháp dạy học Tiếng Việt (PPDHTV) là một bộ phận của khoa học giáo
dục nên nó phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói
chung, Lí luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho PPDHTV những hiểu biết về
các quy luật chung của việc dạy học môn học. Mục đích của PPDHTV cũng như các
khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của HS, chuẩn
bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới. Quan h
ệ của PPDHTV với
khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ phương pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và
làm cơ sở. PPDHTV sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của Giáo dục học. Nó hiện thực
hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục do Giáo dục học đề ra – phát triển trí tuệ, hình thành
thế giới quan khoa học, phát triển tư duy sáng tạo cho HS, giáo dục tư tưởng đạo đức,


15

phát triển óc thẩm mĩ giáo dục tổng hợp và giáo dục lao động. Trong PPDHTV có thể
tìm thấy các nguyên tắc cơ bản của Lí luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển
của dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên
tắc gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và

phân hóa trong dạy học...
PPDHTV vận dụng nhữ
ng nguyên tắc này theo đặc trưng riêng của mình. VD
nguyên tắc gắn liền lí thuyết và thực hành trong phương pháp dạy học TV đòi hỏi một
hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng với việc
thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời
nói đã quy định việc xây dựng chương trình TV mà tất cả các phân môn đều có mục
đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện nguyên tắc trực quan trong
giờ TV không chỉ là việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu, dùng chữ viết sẵn, phim ảnh mà
còn là “trực quan lời nói”, bao gồm từ việc quan sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa
vào bài khóa trong khi nghiên cứu về ngữ âm, từ vựng, chính tả, ngữ pháp. Tài liệu
trực quan cơ bản trong giờ học TV là TV vă
n hóa, TV trong những mẫu tốt nhất của
nó: văn học dân gian, tác phẩm văn học Việt Nam và thế giới.
Phương pháp dạy học TV chọn ở Giáo dục học các hình thức tổ chức dạy học như
bài học và các hình thức khác. Các phương pháp dạy học cơ bản – phương pháp dạy
học bằng lời, bài tập, dạy học nêu vấn đề... đều có mặt trong giờ TV.
1.1.4. Lí thuyết về
quan điểm giao tiếp
1.1.4.1. Giao tiếp và các hình thức giao tiếp
“Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... nhằm thiết lập
quan hệ, sự hiểu biết, cộng tác... giữa các thành viên trong xã hội… Hoạt động giao
tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát thông tin). Trong ngôn ngữ,
mỗi hành vi đều có thể được thực hiện bằng hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút
ngữ (đọc, viết)” (Sách GV TV 5, tập 1, trang 6).


16

Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay truyền đạt

thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động
giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau một thông tin trí tuệ hoặc cảm
xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự vật, hiện tượng nào đó.
Hoạt động giao tiếp có th
ể được thực hiện bằng nhiều cách thức, bằng những
phương tiện khác nhau, như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, điện ảnh, cử chỉ, ... Nhưng
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội loài người.
Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời (giao tiếp miệng) hoặc bằng văn tự
(giao tiếp viế
t). Trong hai dạng giao tiếp vừa nêu, giao tiếp miệng là cơ sở.
1.1.4.2. Chức năng của giao tiếp
Nói đến chức năng của giao tiếp là nói đến vai trò mà giao tiếp phải đảm nhiệm
trong đời sống cộng đồng. Các chức năng cơ bản của giao tiếp là chức năng thông tin,
chức năng tạo lập quan hệ, chức năng giải trí, chức năng tự biểu hiện và chức năng
hành động.
Chức năng thông tin (Chức năng thông báo), thông tin là chức năng thường gặp
nhất của giao tiếp. Nó có thể được thực hiện qua nhiều phương tiện. Trong chức năng
này, giao tiếp giúp những người tham gia hoạt động (giao tiếp) trao đổi cho nhau
những tin tức dưới dạng nhận thức, những tư tưởng có được từ hiện thực. Những thông
tin này thường có tính chất trí tuệ và những nội dung thu nh
ận được đều có thể đánh
giá theo tiêu chuẩn đúng - sai logic. Các cuốn giáo trình, bài giảng của GV, bài thi của
HS, hệ thống biển báo, đèn hiệu giao thông, là những VD về chức năng thông tin của
giao tiếp.
Chức năng tạo lập quan hệ, giao tiếp còn có chức năng tạo lập quan hệ. Nhiều
khi ta trò chuyện với nhau không phải vì muốn thông báo với người khác một nội dung
trí tuệ, một hiểu biết, một nhậ
n thức, mà vì muốn thiết lập một mối quan hệ mới hoặc
duy trì một mối quan hệ đã được thiết lập từ trước.



17

Một lời chào, một lời thăm hỏi, một lời chúc mừng,… đều có giá trị tạo lập và duy
trì quan hệ, ngay cả trong trường hợp chưa có sự quen biết trước. Chức năng tạo lập
quan hệ bao hàm cả tác dụng phá vỡ quan hệ. Còn trò chuyện được có nghĩa là có thể
tiếp tục duy trì quan hệ thân hữu giữa những người tham gia giao tiếp. Nhưng cũng có
khi giao tiếp lại góp phần phá vỡ m
ối quan hệ vốn có giữa họ. Sự phá vỡ này có thể do
những người trong cuộc cố tình tạo ra, nhưng cũng có nhiều mối quan hệ bị phá vỡ một
cách vô tình, do ta lỡ lời.
Tạo lập quan hệ là chức năng giao tiếp cộng tác giữa người với người. Có thể
nhiều người không biết đến, nhưng ngôn ngữ vẫn đảm nhiệm chức năng này một cách
đương nhiên. Chứ
c năng tạo lập quan hệ của giao tiếp ngôn ngữ rất cần cho sự tồn tại
của xã hội.
Chức năng tự biểu hiện, trong giao tiếp ngôn ngữ, con người tự bộc lộ chính bản
thân mình. Người nói hay người viết không chỉ truyền đạt nhận thức, tư tưởng mà còn
bộc lộ cả tình cảm, thái độ, sở thích, trạng thái tâm sinh lí,… Ngay khi truyền đạt các
thông tin lí tính thì con người cũng không th
ể “khách quan”, “vô can” một cách tuyệt
đối được. Có những trường hợp, con người bộc lộ bản thân mình trong giao tiếp một
cách vô ý thức. Song, cũng có những trường hợp sự tự bộc lộ đã được tiến hành có ý
thức (chẳng hạn rất nhiều thi sĩ đã từng làm thơ để bộc bạch ý chí và xúc cảm của bản
thân mình).
Chức năng giải trí, con người cần làm việc, cần lao
động để sống, để duy trì và
phát triển sự sống, nhưng cũng cần nghỉ ngơi, giải trí. Tìm đến nhau để tán gẫu, để trò
chuyện, hoặc tìm đến các tác phẩm văn chương – nghệ thuật của ngôn từ – tìm đến
sách báo,… chính là một hình thức giải trí. Tất nhiên những hoạt động đó còn mang lại

cho con người nhiều ích lợi khác nữa. Những câu chuyện trong lúc tán gẫu, những bài
thơ vui hay những câu chuyện c
ười mà ta sưu tầm được,… (nếu không lạm dụng) sẽ
làm cho tinh thần ta thư giãn, thoải mái, nhờ đó mà có thể giải tỏa được stress.


18

Chức năng hành động. Hành động là chức năng thông qua giao tiếp mà người ta
thúc đẩy nhau hành động. Không phải người nghe mới hành động mà người nói cũng
phải hành động dưới sự thúc đẩy của lời nói trong giao tiếp. Sự thúc đẩy này không
phải khi nào cũng được thực hiện một cách chủ động từ nhân vật giao tiếp, mà có thể
xuất hiện một cách tự nhiên trong tình huống giao tiếp cụ thể. Mặt khác, chứ
c năng
hành động của giao tiếp còn thể hiện ở chỗ, qua cuộc giao tiếp, các nhân vật có thể
thay đổi về nhận thức, tình cảm. Những thay đổi này, ở những mức độ khác nhau, sẽ
tác động đến hành động của họ.
Cả năm chức năng trên của giao tiếp đều là những điều chúng ta phải lưu ý trong
trường hợp cụ thể, nếu muốn cho cuộ
c giao tiếp đạt hiệu quả. Các chức năng này cũng
là căn cứ để xem xét đánh giá các ngôn bản, tức là các sản phẩm của ngôn ngữ nói
hoặc viết hình thành trong giao tiếp.
1.1.4.3. Ngôn bản và các nhân tố của hoạt động giao tiếp
Chuỗi các yếu tố ngôn ngữ mà người giao tiếp tạo nên để truyền đạt nội dung giao
tiếp được gọi là ngôn bản.
Ngôn bản có hai mặt hình thức và nội dung. Nội dung của ngôn b
ản được chia
thành hai phần: thành phần sự vật (những hiểu biết, những nhận thức mà người nói đưa
vào trong ngôn bản nhằm thông tin cho người nghe biết) và thành phần liên cá nhân
(thái độ, tình cảm sự đánh giá sự vật hiện tượng được nói tới (tức về thành phần sự vật)

và những ý muốn về hành động mà người nói muốn thực hiện hay muốn người nghe
thực hiện).
Hình thức củ
a ngôn bản là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ và cả các phương tiện phụ
trợ phi ngôn ngữ (như điệu bộ, nét mặt, cử chỉ…kèm với lời) được người nói dùng để
diễn đạt nội dung. Không nên xem nhẹ vai trò của hình thức ngôn bản đối với hiệu quả
giao tiếp của nó. Do hình thức khác nhau mà những ngôn bản cùng nội dung có thể có
hiệu quả tác động không giống nhau đối với người ti
ếp nhận.


19

Các nhân tố của hoạt động giao tiếp, trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ có
nhiều nhân tố tham gia và ảnh hưởng đến các phương diện của hoạt động giao tiếp.
Những nhân tố này vừa góp phần thực hiện hoạt động, vừa ảnh hưởng chi phối đến
hoạt động. Đó là các nhân tố:
Nhân vật giao tiếp: là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp. Trong giao
ti
ếp, các nhân vật giao tiếp luân phiên đảm nhiệm vai trò người phát (nói/viết) hoặc
người nhận (nghe/đọc).
Giữa các nhân vật giao tiếp có thể có các quan hệ cùng vai (như quan hệ bạn học,
đồng nghiệp với nhau…), hoặc quan hệ khác vai (quan hệ cha mẹ với con; thầy cô giáo
và HS…). Muốn cuộc giao tiếp đạt kết quả như mong muốn, người phát cần phải xác
định đúng quan hệ vai giữa mình với người nhận để lựa ch
ọn hình thức giao tiếp thích
hợp nhất.
Đặc điểm của các nhân vật giao tiếp về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về giới tính và
trình độ hiểu biết, về vốn sống, về địa vị xã hội… đều luôn luôn ảnh hưởng và để lại
dấu ấn trong hoạt động giao tiếp, nhất là trong các ngôn bản. Nhân tố nhân vật giao

tiếp trả lời cho các câu hỏi: ai nói (ai viết)?, nói vớ
i ai? ( viết cho ai?).
Hiện thực được nói tới: Đây là nhân tố nội dung giao tiếp. Nó bao gồm những sự
kiện, hiện tượng, sự vật trong thực tế khách quan và cả những tình cảm, tâm trạng của
con người. Hiện thực được nói tới tạo thành đề tài và nội dung của hoạt động giao tiếp.
Nhân tố này cũng luôn luôn ảnh hưởng đến những hình thức và đặc điểm của hoạ
t
động giao tiếp, của ngôn ngữ và trả lời các câu hỏi: nói (viết) cái gì / vấn đề gì?
Chẳng hạn, nếu nói về một vấn đề khoa học thì ngôn ngữ, cách diễn đạt, cách cấu
tạo ngôn bản có nhiều điểm khác với việc nói về tình cảm, cảm xúc của con người.
Hoàn cảnh giao tiếp: Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh diễn ra cuộc giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
cũng như những hoạt động khác của con người –
luôn luôn diễn ra trong những hoàn cảnh nhất định. Đó là hoàn cảnh không gian, thời
gian với những đặc điểm của môi trường mà hoạt động giao tiếp diễn ra (hoàn cảnh


20

giao tiếp hẹp). Đó còn là hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hoá…của dân tộc, của
đất nước (hoàn cảnh giao tiếp rộng). Các nhân tố trong hoàn cảnh giao tiếp luôn luôn
chi phối các phương diện của hoạt động giao tiếp: từ việc lựa chọn nội dung đến cách
thức thể hiện, và cả những nghi thức trong giao tiếp. Nhân tố hoàn cảnh trả lời cho câu
hỏi: nói (viết) trong hoàn cảnh nào?
Mục
đích giao tiếp: Giao tiếp có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau, có thể nhằm
mục đích làm quen, bày tỏ nỗi vui mừng, lo sợ, thông báo cho người nghe một tư
tưởng, một nhận thức, đưa ra một lời mời, hay một yêu cầu đòi hỏi người nghe phải
thực hiện, đặt ra một câu hỏi về một vấn đề mà mình chưa rõ để người nghe giải
đáp,…Với cu

ộc giao tiếp có nhiều mục đích thì có mục đích chính và mục đích phụ.
Khi đạt được mục đích đã đặt ra thì hoạt động giao tiếp cũng đạt được hiệu quả. Nhân
tố mục đích giao tiếp trả lời các câu hỏi: nói (viết) để làm gì?
Phương tiện và cách thức giao tiếp: Phương tiện giao tiếp ở đây là ngôn ngữ, là
TV đối với đại đa số
người Việt Nam. Song TV gồm nhiều phong cách ngôn ngữ khác
nhau, và có sự phân biệt ở mức độ nhất định giữa các tiếng địa phương, các ngôn ngữ
nghề nghiệp, chuyên môn. Do đó, tuỳ từng phạm vi, từng lĩnh vực hoạt động của con
người, những nhân vật giao tiếp cần lựa chọn những yếu tố ngôn ngữ thích hợp. Hơn
nữa, hoạt động giao tiếp còn có thể được th
ực hiện theo những cách thức khác nhau:
nói miệng hay dùng văn bản viết, trong văn bản viết thì dùng dạng văn xuôi hay văn
vần, trình bày trực tiếp nội dung cần giao tiếp hay trình bày thông qua hình ảnh, sự so
sánh, ví von… Tất cả điều đó đều ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp, đến việc hình
thành ngôn bản và cả đến việc lĩnh hội ngôn bản. Nhân tố này trả lời câu hỏi: nói (viết)
nh
ư thế nào?
Tóm lại: hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn luôn có sự chi phối của nhiều
nhân tố. Chúng tác động đến sự hình thành và lĩnh hội ngôn bản, đồng thời để lại dấu
ấn trong ngôn bản – Những nhân vật tham gia giao tiếp cần ý thức rõ điều đó để sử
dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả và đạt được mục đích.


21

1.1.4.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp
Căn cứ hình thức và phương tiện biểu đạt, có thể chia ngôn ngữ (lời nói) thành hai
dạng: khẩu ngữ (ngôn ngữ nói) và bút ngữ (ngôn ngữ viết). Hai dạng này có sự khác
nhau đáng kể về phương tiện biểu đạt, cách lựa chọn từ ngữ, hoàn cảnh sử dụng, ...
Khẩu ngữ

Đặc điểm của khẩu ngữ:
Khẩu ng
ữ (ngôn ngữ nói hoặc lời miệng) là ngôn ngữ của âm thanh. Nó là một
phương tiện trao đổi thông tin trong xã hội, có khả năng truyền cảm rất lớn. Trong giao
tiếp bằng khẩu ngữ, ngữ điệu có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhịp điệu lời nói nhanh
hay chậm, độ cao hay thấp của giọng nói, sự ngắt đoạn, đều có ảnh hưởng tới hiệu quả
giao tiếp. Cùng vớ
i ngữ điệu, các phương tiện phụ trợ phi ngôn ngữ như ánh mắt, vẻ
mặt, cử chỉ, điệu bộ có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả biểu đạt của lời.
Khẩu ngữ đòi hỏi sự ứng xử linh hoạt về lời nói; so với bút ngữ, khẩu ngữ sử dụng
câu ngắn hơn, có cấu tạo đơ
n giản hơn. Thậm chí, trong giao tiếp miệng, có những câu
không trọn vẹn về cấu tạo và nội dung, nhưng nhờ hoàn cảnh giao tiếp mà người nghe
vẫn hiểu được những điều người nói muốn truyền đạt tới mình một cách chính xác.
Các dạng khẩu ngữ:
Khẩu ngữ có hai dạng: lời đối thoại và lời độc thoại.
Lời đối thoại: Lời đối thoạ
i xuất hiện trong giao tiếp hội thoại (hoạt động giao tiếp
bằng lời miệng giữa các nhân vật giao tiếp, nhằm trao đổi thông tin hoặc trao đổi tư
tưởng tình cảm,... theo một mục đích xác định).
Cấu trúc hội thoại: Hội thoại gồm các đơn vị: cuộc thoại, đoạn thoại và cặp thoại.
Các quy tắc hội thoại: Để cuộc thoại có kết quả, các nhân v
ật tham gia hội thoại
cần tuân thủ một số quy tắc hội thoại: Quy tắc thương lượng hội thoại, quy tắc luân
phiên lượt lời, quy tắc tôn trọng thể diện, quy tắc khiêm tốn, quy tắc cộng tác.
Như vậy, lời đối thoại bao giờ cũng nằm trong một mạch của nhiều lời nói thuộc
nhiều người nối tiếp nhau hoặc đối đáp nhau. Vì vậy, nộ
i dung lời đối thoại phải nhập



22

vào mạch câu chuyện hoặc chủ đề hội thoại thì nó mới có ý nghĩa. Các lời đối thoại
thường ngắn gọn, giúp người tiếp nhận dễ theo dõi, có sức phản xạ nhanh, có thể đáp
lời đúng mạch giao tiếp. Lời đối thoại cần phù hợp với vị trí xã hội của người nói hoặc
thích hợp với mối quan hệ xã hội giữa người nói với những ngườ
i tham gia hội thoại.
Lời độc thoại (đơn thoại): là lời của một người nói cho những người khác nghe, có
khi là lời nói với chính bản thân. Thực ra ranh giới của lời độc thoại và lời trong đối
thoại chỉ mang tính ước định. Lời độc thoại thường xuất hiện trong một số hoàn cảnh
cụ thể: người báo cáo, đọc diễn văn trong các cuộc họp, hội thảo, GV gi
ảng bài, một
người mãi suy nghĩ nói to ý nghĩ của mình ... Ở đây, chúng ta bàn tới ngôn ngữ trong
giao tiếp, tức là chỉ bàn tới ngôn ngữ độc thoại mà người nói nói cho người khác nghe,
mà không bàn tới lời tự nói với bản thân.
So với lời đối thoại, lời độc thoại đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo và sự tập trung chú ý
cao hơn, người độc thoại thường chủ động hơn trong việc l
ựa chọn nội dung và cách
thức nói, vì có điều kiện thu thập tài liệu, xây dựng đề cương, suy ngẫm kĩ về từng vấn
đề sẽ trình bày, lựa chọn những phương tiện biểu đạt thích hợp nhất.
Bút ngữ
Đặc điểm của bút ngữ:
Bút ngữ (ngôn ngữ viết hoặc lời viết) là hình thức lời nói được sử dụng thường
xuyên và có hiệu quả trong giao tiế
p xã hội. Trong ngôn bản bút ngữ, cấu trúc câu
thường đầy đủ và phức tạp hơn, các từ ngữ sách vở xuất hiện với tần suất cao hơn so
với khẩu ngữ; bài viết thường có dung lượng lớn hơn so với một bài nói miệng cùng đề
tài. Với ngôn bản viết, dấu câu, sự xuống dòng, ngắt đoạn, các kiểu chữ khác nhau là
những phương tiện biểu đạt đặt tr
ưng và hiệu quả.

Đặc trưng ngôn ngữ ở những loại văn bản viết khác nhau:
Trong ngôn ngữ viết, việc dùng từ, tạo câu, cách liên kết câu ở văn bản nghệ thuật
và văn bản phi nghệ thuật, ở văn bản thơ và văn bản văn xuôi có những khác biệt nhất


23

định mà người viết, người đọc phải hiểu và sử dụng nó một cách thích hợp trong những
tình huống nói năng cụ thể, gắn với đích và nội dung nói năng cụ thể.
Trong khi ở văn xuôi, việc viết câu phải tuân theo những yêu cầu nghiêm nhặt, từ
cấu tạo câu và các bộ phận trong câu tới cách sử dụng dấu câu, thì ở thơ, tác giả lại có
thể kết hợp từ, sử
dụng dấu câu, với những dụng ý nghệ thuật riêng, rất đặc trưng cho
thể loại văn bản này.
Những điều vừa phân tích cho thấy đặc trưng ngôn ngữ, phương tiện biểu đạt, tình
huống giao tiếp,...chi phối khá mạnh tới nội dung và phương pháp giao tiếp được lựa
chọn, sử dụng để đạt một cách tốt nhất mục đích giao tiếp đã
định.
1.1.4.5. Quá trình sản sinh và quá trình tiếp nhận lời nói trong hoạt
động giao tiếp
Quá trình sản sinh lời nói
Về bản chất, nói năng cũng là một hoạt động: hoạt động lời nói. Các hành vi nói
năng có biểu hiện rất đa dạng nhưng lại có một cấu trúc chung. Cấu trúc này bao gồm
bốn giai đoạn kế tiếp nhau: định hướng, lập chương trình, hiện thực hóa chương trình
và kiểm tra k
ết quả.
Định hướng giao tiếp trong quá trình tạo lời chính là xác định các nhân tố giao tiếp:
nội dung, cách thức, nhân vật, hoàn cảnh, mục đích giao tiếp. Trong các nhân tố kể
trên, sự lựa chọn nội dung và cách thức giao tiếp chịu chi phối của những nhân tố giao
tiếp còn lại.

Lập chương trình biểu đạt trong quá trình tạo lời chính là hoạt động tìm ý bằng
cách quan sát, tái hiện những điều đã quan sát hoặc t
ưởng tượng những điều có thể sẽ
xảy ra, theo các nhân tố được xác định khi định hướng. Lập chương trình còn là lựa
chọn và sắp xếp các ý đã tìm được theo một trình tự hợp lý để có sản phẩm là một dàn
bài cho bài nói, bài viết trong tương lai.
Hiện thực hóa chương trình trong quá trình tạo lời là quá trình chuyển những nội
dung đã được lựa chọn và sắp xếp trong dàn bài thành phát ngôn, ngôn bản. Tùy từng

×