Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ 1945 đến 1954 ở trường trung học phổ thông”(chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10 MB, 144 trang )

B GIO DC V O TO
I HC HU
TRNG I HC S PHM
H NGC CNG
NNG CAO NNG LặC Sặ DUNG
ệ DUèNG TRặC QUAN QUY ặẽC CHO
HOĩC SINH
TRONG DAY HOĩC LậCH Sặ VIT NAM
Tặè 1945 N 1954
TRặèNG TRUNG HOĩC PHỉ THNG
(CHặNG TRầNH CHUỉN)
Chuyờn ngnh: Lý lun v phng phỏp dy hc b
mụn Lch s
Mó s: 60 14 01 11
LUN VN THC S GIO DC HC
CN B HNG DN KHOA HC:
PGS.TS NG VN H
i
Huế, năm 2014
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Hồ Ngọc Cường
iii

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Đặng Văn Hồ đã trực tiếp giảng dạy, hướng


dẫn và tận tình chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện để
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy
giáo, Cô giáo trong khoa Lịch sử Trường Đại học Sư
phạm Huế đã tham gia giảng dạy, phòng Đào tạo sau
Đại học trường Đại học Sư phạm Huế đã tạo mọi điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện
đề tài nghiên cứu của mình.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường tập thể
giáo viên và học sinh trường THPT Phan Châu Trinh,
trường THPT Lê Lợi ở Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị;
Trường THPT Nguyễn Hữu Thận, huyện Triệu Phong;
Trường THPT Hướng Hóa, huyện Hướng Hóa- tỉnh Quảng
Trị và trường THPT Phan Đăng Lưu tỉnh Thừa Thiên Huế đã
giúp tôi thu thập tài liệu để thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người
thân, bạn bè đã động viên, giúp đỡ về vật chất cũng
như tinh thần trong suốt thời gian hoàn thành luận
văn này.
Huế, tháng 9 năm 2014
Hồ Ngọc Cường
iv
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỤC LỤC 1
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5

1.Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Mục đích nghiên cứu 9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 10
7. Giả thuyết khoa học của đề tài 10
8. Đóng góp của đề tài 10
9. Cấu trúc luận văn 10
PHẦN NỘI DUNG 11
Chương 1 11
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC SỬ
DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC CHO 11
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 11
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 11
1.1. Cơ sở lí luận của việc nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho
học sinh trong dạy học lịch sử 11
1.1.1. Quan niệm về năng lực 11
1.1.2. Đồ dùng trực quan quy ước là gì? 13
1.1.3. Các loại đồ dùng trực quan quy ước 14
1.1.3.1. Niên biểu 14
1.1.3.2. Đồ thị 14
1.1.3.3. Sơ đồ, biểu đồ 15
1.1.3.4. Bản đồ, lược đồ 15
1.1.4. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử. 15
1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông 17
1.2. Cơ sở thực tiễn 20
1.2.1. Mục đích điều tra khảo sát 20
1.2.2. Nội dung điều tra 20

1.2.3. Kết quả điều tra 21
1.3. Những nội dung lịch sử cơ bản học sinh cần phải lĩnh hội khi học khóa trình lịch sử
Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường THPT (Chương trình chuẩn) 22
1
1.3.1. Bài 17:Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946 23
1.3.2. Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946 -
1950) 23
1.3.3. Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(1951-1953) 23
1.3.4. Bài 20: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954) 23
1.4. Bảng tổng hợp về những năng lực cần có và nâng cao năng lực khi sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở
trường Trung học phổ thông(chương trình chuẩn) 24
1.4.1 Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2 – 9 – 1945 đến trước
ngày 19 - 12 - 1945 24
1.4.2 Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946 -
1950) 27
1.4.3 Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1951 –
1953) 31
1.4.4. Bài 20: Cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp kết thúc(1953 -1954) 36
Chương 2 42
PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC SỬ DỤNG 42
ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC CHO HỌC SINH 42
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 42
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 42
( CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) 42
2.1. Một số yêu cầu khi nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học
sinh trong dạy học lịch sử 42
2.1.1. Biện pháp thực hiện và hình thức tổ chức để nâng cao năng lực sử dụng đồ

dùng trực quan quy ước phải phù hợp với đối tượng và khả năng của học sinh 42
2.1.2. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước phải vận dụng linh hoạt,
đa dạng các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước 42
2.1.3. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước phải tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục để phát triển năng lực của học sinh 42
2.1.4. Phải kiểm tra thường xuyên năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước của
học sinh 43
2.2. Các biện pháp nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường Trung học phổ thông(chương
trình chuẩn) 43
2.2.1. Xác định thái độ đúng đắn và tạo hứng thú cho học sinh nhằm nâng cao năng
lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước 43
2.2.2. Bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh nắm vững các yêu cầu nâng cao năng lực sử
dụng đồ dùng trực quan quy ước 46
2.2.3. Nâng cao kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan quy ước 48
2.2.3.1 Nâng cao kĩ năng sử dụng bản đồ 48
2.2.3.2.Nâng cao kĩ năng sử dụng niên biểu 49
2.2.3.3. Kĩ năng sử dụng đồ thị, biểu đồ 51
2.2.3.4. Nâng cao kĩ năng sử dụng sơ đồ 52
2
2.2.3.5. Vận dụng thành tựu công nghệ thông tin (CNTT) để năng cao năng lực sử
dụng đồ dùng trực quan quy ước 53
2.2.4. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để rèn luyện các năng
lực quan sát và năng lực tưởng tượng cho học sinh 56
2.2.4.1. Năng lực quan sát 57
2.2.4.2 Năng lực tưởng tượng 58
2.2.5. Sử dụng sơ đồ, niên biểu mở, bản đồ câm để nâng cao năng lực tư duy và năng
lực thực hành cho học sinh 60
2.2.6. Sử dụng tài liệu thành văn kết hợp với câu hỏi nhận thức để nâng cao năng lực
sử dụng ĐDTQQƯ cho học sinh 63

2.2.7. Sử dụng tranh ảnh lịch sử để nâng cao hiệu quả việc sử dụng đồ dùng trực quan
quy ước 65
2.2.8. Tiến hành dạy học theo nhóm là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước 69
2.2.9. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước bằng cách kiểm tra năng
lực thực hành và làm bài tập của học sinh 72
2.3. Thực nghiệm sư phạm 74
2.3.1. Mục đích yêu cầu 74
2.3.2. Phương pháp và kế hoạch thực nghiệm 74
2.3.2.1 Lựa chọn đối tượng thực nghiệm sư phạm 74
2.3.2.2. Nội dung thực nghiệm 74
2.3.2.3.Phương pháp thực nghiệm 75
2.3.3 . Kết quả thực nghiệm sư phạm 75
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
PHỤ LỤC
3
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐDTQ : Đồ dùng trực quan
ĐDTQQƯ : Đồ dùng trực quan quy ước
THPT : Trung học phổ thông
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
CNTT : Công nghệ thông tin
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
1.1 Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học - công nghệ, của nền kinh tế tri thức.
Giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc phát huy nguồn lực của con người, phát

triển tiềm năng của con người, là đòn bẩy mạnh mẽ nhất mà chúng ta cần có để tiến
vào tương lai đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Báo cáo của Ủy ban
Quốc tế về Giáo dục cho thế kỷ XXI với đầu đề " Học tập: kho báu nội tại " đã cung
cấp những tầm nhìn mới đối với giáo dục và nhấn mạnh rằng: Mỗi cá nhân phải
được trang bị để nắm các cơ hội học tập suốt đời, vừa để mở rộng kiến thức, kĩ năng
và thái độ, vừa để thích nghi với một thế giới đang thay đổi phức tạp và phụ thuộc
lẫn nhau. Giáo dục giúp mỗi người phát hiện ra và làm giàu năng lực nội sinh của
bản thân, để có thể tự khẳng định mình, tự thể hiện mình trong các hoạt động của
cộng đồng, của xã hội. Báo cáo đưa ra bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI: Học để
biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tồn tại [8,tr.3]. Đứng trước xu thế
hội nhập và giao lưu văn hoá toàn cầu, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực có trình độ,
phẩm chất và năng lực cao phù hợp với nền kinh tế tri thức trở thành yêu cầu cấp
thiết đối với mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
1.2 Đối với nước ta, đổi mới giáo dục trở thành yêu cầu sống còn của công cuộc
xây dựng đất nước trong thế giới hợp tác đa phương, cạnh tranh gay gắt về kinh tế, về
nhân lực có chất lượng và trí tuệ cao. Để không rơi vào tình trạng tụt hậu so với các
nước trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhiều mục tiêu và phương hướng
phát triển của mình. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam khoá VIII đã khẳng định " Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện về thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp toàn dân, nhất là thanh niên"[8,tr.3]. Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: " Để đáp ứng yêu cầu về
con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục
và đào tạo…Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực
tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến
thức, tránh nhồi nhét học vẹt, học chay"[8,tr.4]. Để thực hiện chiến lược phát triển giáo

dục ấy cần chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả dạy học nói chung và dạy học lịch sử
5
nói riêng. Đó là sự thể hiện việc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh (HS). Định hướng trên đã được pháp chế
hoá trong luật Giáo dục: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú cho học
sinh" [17,tr.30]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013) đề ra nội dung đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Một trong những nội dung của đổi mới căn bản và toàn diện
đó là đổi mới dạy học theo hướng: "Phát triển năng lực và phẩm chất người học,
hài hòa đức, trí, thể, mĩ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo
dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và
ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức
học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học" [23].
1.3. Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông đều có hệ thống phương pháp
giảng dạy phù hợp với bộ môn mình. Trong phương pháp dạy học lịch sử, nguyên
tắc trực quan là nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo học
tập cho học sinh.
Việc trình bày miệng của giáo viên (GV) dù có truyền cảm, gây ấn tượng và chi
tiết đến đâu, nếu không có sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan (ĐDTQ) cũng khó đem lại

cho học sinh hình ảnh cụ thể, sinh động và chính xác về hiện thực lịch sử. Đồ dùng trực
quan nói chung và đồ dùng trực quan quy ước(ĐDTQQƯ) nói riêng trong dạy học lịch
sử là phương tiện cụ thể hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử góp phần vào việc phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học lịch sử.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh
là trào lưu tích cực đã và đang diễn ra trong ngành giáo dục. Thực chất của trào
lưu này là hướng toàn bộ quá trình dạy học vào người học trên cơ sở vận dụng
6
linh hoạt các phương pháp dạy học sao cho khai thác được tối đa tiềm năng trí
tuệ, tính tích cực và sự sáng tạo của họ. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử là một nội dung quan
trọng để thực hiện định hướng đó.
Tuy nhiên qua thực tế cho thấy, giáo viên dạy lịch sử ở các trường Trung học
phổ thông (THPT) hiện nay gặp không ít khó khăn, hạn chế trong việc hướng dẫn tổ
chức quản lý đặc biệt là năng lực tổ chức việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử. Học sinh cũng đã biết
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong học tập nhưng hiệu quả chưa cao, các kĩ
năng sử dụng còn hạn chế, xem đồ dùng trực quan quy ước chỉ để minh họa cho nội
dung sách giáo khoa (SGK).
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao
năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường Trung học phổ thông”(chương trình chuẩn) để
làm đề tài Luận văn thạc sĩ giáo dục với mong nuốn góp một phần không nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy môn Lịch sử hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các hoạt động học tập nói chung, hoạt động thực hành nói riêng được đề cập
đến trong nhiều tài liệu giáo dục học. Trong đó các tác giả đều ghi nhận vai trò tích
cực của các hoạt động thực hành trong thực tiễn dạy học.
2.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
N.G.Đai-ri trong tác phẩm " Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” đã đề cập

đến hoạt động thực hành thông qua các hoạt động ngoại khoá như nghiên cứu lịch
sử địa phương hay tham quan bảo tàng. Tuy không nêu ra những biện pháp, hình
thức thực hành cụ thể nhưng ông khẳng định vai trò của hoạt động này là nâng cao
hứng thú học tập, mở rộng sự hiểu biết về kiến thức lên một trình độ mới và có tác
dụng giáo dục học sinh sâu sắc [13,tr.89].
Các tác giả M.B.Kô-rô-Kô-va, Stu-đen-nhi-kin trong cuốn " Phương pháp
dạy học lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và hình vẽ" đã nhấn mạnh việc ôn tập, củng
cố thông qua hình thức giao những bài tập cho học sinh. Trong đó các tác giả đã
đưa ra các loại bài tập có tính chất thực hành như bảng biểu, sơ đồ hình vẽ trong
dạy học và cho rằng giáo viên khi hướng dẫn, giao bài tập cho học sinh cần lưu ý
tới khả năng của học sinh sao cho vẫn đảm bảo nội dung kiến thức, kĩ năng cơ
bản nhưng phải phân hoá được học sinh [22, tr15,16].
7
Trong cuốn "Công nghệ hiện đại trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông."
M.T.Stu- đen-nhi-kin đã nêu ra một trong những nhiệm vụ quan trọng của quá trình
dạy học lịch sử là hình thành các kĩ năng và phẩm chất cá nhân cho học sinh. Tác
giả đã đưa ra gợi ý để thực hiện mục tiêu đó là hình thức " Algorit hoá" các nội
dung dạy học lịch sử và giao cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo nhóm học tập.
Hình thức này vừa là sự củng cố kiến thức cũ vừa là sự chuẩn bị cho việc tiếp thu
bài mới. Khi thực hiện các loại bài tập, các phiếu học tập, các nhiệm vụ thực hành
như chuẩn bị bảng biểu, sơ đồ, bản đồ… các năng lực học tập của học sinh từng
bước được phát triển [22,tr16].
2.2.Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Không tách riêng thành các chuyên đề cụ thể, nhưng các tài liệu giáo dục
lịch sử của các tác giả trong nước đã đề cập đến vấn đề nâng cao năng lực thực hành
trong đó phần nào đề cập đến năng lực sử dụng đồ dùng trực quan.
Cuốn " Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử" (1995) của các
tác giả Nguyễn Thị Côi,-Trịnh Đình Tùng -Lại Đức Thụ-Trần Đức Minh [4], cuốn "
Phương pháp dạy-học lịch sử ở trường phổ thông" (1995) của Phan Ngọc Liên
-Trần Vĩnh Tường - Đặng Văn Hồ [11], giáo trình " Phương pháp dạy học lịch sử"

của tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên)- Nguyễn Thị Côi- Trịnh Đình Tùng biên
soạn đều khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện các năng lực thực hành
trong đó có năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử, bồi
dưỡng học sinh năng lực sưu tầm tư liệu lịch sử, xây dựng niên biểu, bản đồ…,năng
lực vận dụng kiến thức lịch sử để quan sát, phân tích những vấn đề của hiện tại.
Cuốn "Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học
cơ sở"(1995) của Phan Ngọc Liên -Trịnh Đình Tùng có đề cập tới phương pháp sử
dụng kênh hình trong sách giáo khoa và bản đồ lịch sử. Các tác giả đã nêu tên và
nêu ý nghĩa của các phương pháp sử dụng hình vẽ tranh ảnh chân dung nhân vật
lịch sử trong sách giáo khoa [13]. Đặc biệt một loạt công trình nghiên cứu như:
Luận án tiến sĩ "Nâng cao năng lực thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường trung học phổ thông" (vận dụng qua dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919-
1975), (2013) của tác giả Vũ Ánh Tuyết. Luận văn thạc sĩ " Thiết kế và sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử Việt Nam (1945-1954) ở trường THPT" (chương trình nâng cao) của tác giả Lê
Văn Tính (2007). Luận văn thạc sĩ " Xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại ở
trường THPT" (chương trình chuẩn) của tác giả Nguyễn Ngọc Hương, ( 2009).
8
Luận văn thạc sĩ "Rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cổ, trung đại ở trường THPT"
( chương trình nâng cao) của tác giả Nguyễn Thị Hoa Khôi, (2009).
Các công trình nghiên cứu và các tác giả trên đã trình bày các vấn đề có tính
chất lý luận và kĩ thuật để thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và trực
quan quy ước nói riêng. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu và đề cập đến
vấn đề nâng cao năng lực hoặc nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường Trung
học phổ thông (chương trình chuẩn).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quá trình thực hiện vấn đề nâng cao năng lực
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945
đến 1954 ở trường Trung học phổ thông” (chương trình chuẩn).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các năng lực sử dụng đồ dùng trực quan
quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường
Trung học phổ thông (chương trình chuẩn).
Luận văn không đi vào nghiên cứu năng lực học tập bộ môn Lịch sử nói
chung mà tập trung vào làm rõ những vấn đề lí luận, thực tiễn của năng lực sử dụng
đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945
đến 1954 ở trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn) và phạm vi thực
nghiệm sư phạm ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và
tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, đề tài khẳng định vai trò, ý nghĩa của
năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường Trung học
phổ thông. Xác định những nội dung của năng lực cần có và đề xuất một số biện pháp
chủ yếu để nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát, điều tra thực tiễn năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
- Nghiên cứu các tài liệu: Giáo dục học, Tâm lí học và Phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử.
9
- Nghiên cứu lý luận, chương trình, sách giáo khoa lịch sử lớp 12, xác định
những năng lực cần có để sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu để nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở
trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn).

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi các năng lực
cần bổ sung cho học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch
sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn).
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử và giáo dục lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Điều tra xã hội học để phát hiện thực trạng vấn đề nghiên cứu
+ Nghiên cứu các tài liệu Tâm lý học, Giáo dục học, nhất là lí luận dạy học
bộ môn liên quan đến vấn đề năng lực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông cùng các tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài.
7. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu các biện pháp sư phạm mà Luận văn đề xuất được thực hiện tốt sẽ góp
phần nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh, tạo điều
kiện để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở trường THPT.
8. Đóng góp của đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, Luận văn sẽ:
- Xác định các yếu tố, thành phần cấu thành năng lực sử dụng đồ dùng trực
quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Đề xuất các biện pháp sư phạm để nâng cao năng lực năng lực sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945-1954
ở trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn).
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
Chương 2: Phương pháp nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường Trung

học phổ thông (chương trình chuẩn).
10
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC SỬ
DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận của việc nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan
quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử
1.1.1. Quan niệm về năng lực
Trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo các tài liệu tâm lí học trong và ngoài nước,
các nhà tâm lí học đã đưa ra được quan niệm của mình về năng lực cũng như làm rõ
những vấn đề có liên quan đến năng lực. Điển hình như cuốn “Giáo trình tâm lí
học” (1988, NxbGD) do Phạm Minh Hạc chủ biên cho rằng: năng lực của từng cá
nhân gắn liền với hoạt động của chính người đó và cả sản phẩm của chính hoạt
động ấy. Năng lực bao giờ cũng gắn liền với hoạt động ở một lĩnh vực nào đó. Năng
lực ở mỗi người khác nhau sẽ khác nhau do cấu trúc khác nhau. Năng lực, tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo có kết hợp chặt chẽ với nhau hỗ trợ cho nhau. Các tác giả cũng
khẳng định năng lực của HS được hình thành và phát triển trong quá trình giáo dục
và bằng quá trình giáo dục. Trong giáo dục, những năng lực cơ bản nhất sẽ được
hình thành và làm nền tảng cho sự phát triển mọi năng lực trong tương lai [6].
Cuốn “Các thuộc tính tâm lí điển hình của nhân cách” (2008) cho rằng năng
lực là một trong những vấn đề phức tạp của tâm lí học. Ở góc độ tâm lí học đại
cương, nó là một thuộc tính tâm lí cá nhân, còn trong tâm lí học sư phạm năng lực
được xem là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục, hình thành nhân cách HS. Sau
khi đưa ra quan niệm về năng lực, cuốn sách này cũng đề cập đến những vấn đề
khác của năng lực như điều kiện để hình thành và phát triển năng lực; 3 mức độ
biểu hiện của năng lực là năng lực, tài năng và thiên tài. Trong đó năng lực là mức
độ nhất định biểu thị sự hoàn thành cao của một hoạt động nào đó mà nhiều người

có thể đạt được. Ở mức độ tài năng thể hiện kết quả xuất sắc của hành động có tính
chất phức tạp và mang rõ tính sáng tạo của chủ thể. Còn thiên tài là mức độ cao
nhất, là khả năng thực hiện có kết quả đặc biệt xuất sắc trong mọi tình huống, mọi
hoàn cảnh [3, tr.221-222]. Dựa trên các tiêu chí đã được đề xuất trong tâm lí học,
các tác giả xem xét và đánh giá năng lực của HS trong một lĩnh vực cụ thể qua: tốc
độ tiến bộ của HS trong việc lĩnh hội tri thức và phương thức hoạt động tương ứng;
11
chất lượng của hoạt động; xu hướng, sự kiên trì và sức lực của HS dành cho công
việc đó [3, tr.228].
Với cách nhìn nhận như trên, khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều cách
khác nhau:
“1. Là khả năng, điều kiện chủ quan, tự nhiên sẵn có để thực hiện một công
việc nào đó; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [16];
Là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và
thiên hướng của một con người được phát triển thông qua thực hành giáo
dục"[22,tr.25].
Là “những đặc điểm tâm lí của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có
kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có quan hệ với kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết
quả hoạt động ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động. Một số năng lực
có thể đo được bằng trắc nghiệm” [20];
“Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả hoặc là sự phản ứng thích
đáng trong các tình huống phức tạp nào đó”[22,tr.25];
“Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những
yêu cầu của một hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động đó hoạt động có kết
quả”[22,tr.25].
Theo chương trình giáo dục Quécbec (Chương trình GDTH Quécbec- Bộ giáo
dục Canada -2004): “Năng lực có thể định nghĩa như là một khả năng hành động hiệu
quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực. Những khả năng này được sử dụng

một cách phù hợp, bao gồm tất cả những gì học được từ phía nhà trường cũng như
những kinh nghiệm của HS; những kĩ năng, thái độ và sự hứng thú; ngoài ra còn
những nguồn bên ngoài chẳng hạn như bạn cùng lớp, thày cô giáo, các chuyên gia
hoặc các nguồn thông tin khác”[22,tr.25].
Đề cập đến vấn đề năng lực, các nhà tâm lí học cũng lưu ý đến những thuật
ngữ có liên quan chặt chẽ với năng lực, đó là khả năng, kĩ năng bởi chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nói đến khả năng là nói đến những kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo, khí chất, ý chí của con người cho phép họ thực hiện được một hành động
nào đó. Năng lực phát triển trên nền tảng của khả năng. Khả năng phản ánh sự
thành công của hành động, còn năng lực phản ánh thiên hướng phát triển về chất
của hành động. Năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở của tư chất vốn là
12
“một tổ hợp bao gồm những đặc điểm chức năng tâm - sinh lí mà cả thể đạt được
trong một giai đoạn phát triển nhất định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và
hoạt động của cá nhân [3, tr.219]. Nói một cách khác, tư chất là tiền đề, là cơ sở vật
chất của năng lực nhưng nó không quy định trước sự phát triển của năng lực. Hành
động là điều kiện để những tư chất đó phát triển thành năng lực. Còn kĩ năng là
“khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp ) để giải quyết
một nhiệm vụ mới” [7, tr.118]. Kĩ năng thể hiện sự hiểu biết (tri thức) của chủ thể
về đối tượng của hành động (bao gồm cả những yếu tố đã biết và yếu tố phải tìm),
trên cơ sở đó xác lập được mối liên hệ giữa đối tượng với các kiến thức, các tình
huống tương ứng và hình thành phương thức hành động.
Năng lực có mối quan hệ mật thiết với tri thức và kĩ năng, kĩ xảo. Kĩ năng là
phương thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực hành đã được củng cố. Kĩ xảo là
những hành động đã trở nên tự động hóa nhờ luyện tập. Tri thức và kĩ năng, kĩ xảo
trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện cần thiết (nhưng không phải là tất cả) để hình
thành năng lực trong lĩnh vực ấy. Năng lực góp phần làm cho quá trình tiếp thu tri
thức và kĩ năng, kĩ xảo diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Từ những quan niệm và cách phân tích như trên, có thể hiểu một cách đơn
giản: năng lực là một tổ hợp các thuộc tính tâm lí của cá nhân, là những điều kiện

thuận lợi phù hợp với yêu cầu của mỗi hành động, cho phép hành động đó được
diễn ra nhanh và có hiệu quả cao trong những tình huống khác nhau”[22,tr.28]
1.1.2. Đồ dùng trực quan quy ước là gì?
“ Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, kí hiệu hình học đơn giản
được sử dụng trong dạy học lịch sử loại đồ dùng này là đồ dùng mà giữa người
thiết kế đồ dùng, người sử dụng và người học có một số quy ước ngầm nào đó (về
màu sắc, kí hiệu hình học và tỉ lệ xích )” [19, tr.12]. Đồ dùng trực quan quy ước
là một tài liệu có giá trị, tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng khi phản ánh
mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử theo đặc trưng khuynh hướng phát
triển của hiện tượng kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống con người.
Đồ dùng trực quan quy ước luôn được thể hiện trong không gian thời gian, địa
điểm cùng một số yếu tố địa lý nhất định. Thông qua quan sát đồ dùng trực quan quy
ước, đọc ký hiệu, nội dung lịch sử được biểu hiện; việc sử dụng đồ dùng trực quan
quy ước trong dạy học lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm thêm kiến
thức địa lí. Trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông, đồ dùng trực quan
13
quy ước thường được dùng chủ yếu. Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa lịch
sử mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm cho học sinh. Qua đó phát huy năng lực
tư duy và khả năng thực hành cho học sinh.
1.1.3. Các loại đồ dùng trực quan quy ước
Trong dạy học lịch sử nhằm phát huy tinh tích cực trong học tập lịch sử cho
học sinh giáo viên thường sử dụng các loại ĐDTQQƯ sau:
1.1.3.1. Niên biểu
Trong dạy lịch sử, khi củng cố kiến thức cho học sinh một cách hệ thống,
giáo viên nên sử dụng niên biểu. Vì niên biểu sẽ cung cấp kiến thức một cách hệ
thống theo thứ tự thời gian, trình bày mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản tạo nên sự
xâu chuỗi một cách lôgic các sự kiện lịch sử.
Trên cơ sở đặc thù của bộ môn và nội dung cụ thể của từng bài học lịch sử có
thể chia niên biểu ra mấy loại như sau:

- Niên biểu tổng hợp: sử dụng loại niên biểu này chỉ phù hợp với những sự
kiện xảy ra trong một thời gian dài. Loại niên biểu này giúp học sinh không những
ghi nhớ những sự kiện lớn, mà còn nắm các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ
các sự kiện quan trọng. Với việc sử dụng niên biểu khi tiến hành dạy các bài ôn tập,
tổng kết nhằm hệ thống hóa kiến thức một cách thứ tự, lôgic giúp học sinh nắm
chắc kiến thức một lần nữa.
- Niên biểu chuyên đề: Đây là một loại niên biểu nhằm đi sâu trình bày nội dung
một vấn đề quan trọng nổi bật nào đó của một thời kỳ nhất định giúp học sinh nhận thức
được bản chất của sự kiện một cách toàn diện, đầy đủ. Ví dụ khi giảng về “quá trình hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài từ 1919 đến 1925”, giáo viên lập niên biểu này sẽ
giúp học sinh nắm rõ hơn thời gian và những hoạt động của người ở nước ngoài, đồng thời
nhận thức sâu hơn những chuyển biến về tư tưởng và đường lối cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc ở thời kỳ này.
- Niên biểu so sánh: dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện, giai đoạn lịch sử
nhằm làm nổi bật bản chất, rút ra kết luận khái quát có tính chất nguyên lý, hoặc so
sánh để thấy được sự khác nhau của từng giai đoạn lịch sử về tính chất, hình thức,
lực lượng tham gia
1.1.3.2. Đồ thị
Dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch sử, trên
cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng
một mũi tên dùng để minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện tượng
lịch sử, hoặc được biểu diễn trên mục trục hoành.
14
1.1.3.3. Sơ đồ, biểu đồ
Sơ đồ nhằm để cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những hình học đơn giản,
diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị và mối quan hệ giữa các sự
kiện lịch sử.
Tóm lại, đồ dùng trực quan quy ước là những kí hiệu hình học đơn giản
được giáo viên vẽ nhanh lên bảng đen hoặc vẽ trên giấy, hoặc được thiết kế bằng
các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Vì vậy khi sử dụng vấn đề này không chỉ đòi hỏi

giáo viên về mặt chuyên môn mà còn đòi hỏi giáo viên có chút ít năng khiếu hội
họa và cả nghệ thuật dạy học trong việc xử lý ngôn ngữ, viên phấn và bảng đen.
1.1.3.4. Bản đồ, lược đồ
Bản đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan quy ước quan trọng, cần thiết nhằm
giúp học sinh xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định.
Đồng thời, bản đồ lịch sử còn giúp HS suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử, về
mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trật tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp
các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học.
Trong trường hợp không yêu cầu tính chính xác cao và nội dung cũng cần giản
lược thì người ta dùng lược đồ. Độ chính xác của lược đồ thấp là do nhiệm vụ đặt trước
quy định chứ không phải do tỉ lệ và đặc điểm nguồn gốc tài liệu bản đồ.
Về hình thức, bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện thiên nhiên
mà cần có những kí hiệu biên giới, các quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, các
vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố quan trọng (các cuộc khởi nghĩa cách
mạng, chiến dịch…). Các minh họa trên bản đồ phải đẹp, chính xác, rõ ràng.
Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia thành hai loại chính: Bản đồ tổng hợp
và bản đồ chuyên đề:
- Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một
nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định.
- Bản đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng lẻ hay một mặt của quá
trình lịch sử như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong
một giai đoạn lịch sử…
1.1.4. Nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy
học lịch sử
“Nâng cao” là một khái niệm để chỉ ý định của con người khi muốn cải
thiện hay cải tiến một cái gì đó. Trong tiếng Anh, “nâng cao” được hiểu theo nghĩa
của từ “improve” là trau dồi tư tưởng hay mở mang kiến thức và tiếng Nga
15
“cповыcить” là nâng cao trình độ nghiệp vụ hay rèn luyện tay nghề. Trong tiếng
Việt được hiểu nghĩa theo hai tình huống chủ yếu sau: 1. khi người ta muốn đưa

một vật nào đó lên cao hơn về mặt khoảng cách được tính theo đơn vị đo lường cụ
thể; 2. biến đổi đối tượng theo chiều hướng tăng lên về chất.
Ở mức độ nào đó từ “nâng cao” gần đồng nghĩa với từ “phát triển”. Tuy
nhiên “phát triển” nói tới mức độ liên tục thay đổi của đối tượng, còn “nâng cao”
thường được hiểu ở nghĩa hẹp hơn trong sự so sánh với mức độ hiện có của đối
tượng. Nâng cao thường gắn liền với sự tiến bộ của đối tượng.
Năng lực là một cấu trúc tâm lí rất phức tạp và có những đặc trưng riêng phù
hợp với mỗi lĩnh vực của họat động xã hội. Trong một cấu trúc có sự kết hợp rất
chặt chẽ của nhóm các năng lực chung và năng lực riêng như trên đã trình bày. Cấu
trúc của năng lực sử dụng ĐDTQQƯ sẽ có mô hình chung là sự kết hợp của nhóm
năng lực chung, chủ yếu là năng lực nhận thức, năng lực giao tiếp, năng lực hành
động với các năng lực thành phần phù hợp như năng lực vẽ bản đồ, biểu đồ, sơ đồ
lịch sử; năng lực trình bày một vấn đề lịch sử; năng lực khai thác và vận dụng kiến
thức lịch sử vào thực tiễn;
Năng lực ở mỗi HS không giống nhau sẽ quyết định kết quả học tập của HS
cũng khác nhau. Trong dạy học, GV không chỉ phải biết cách “đánh thức” các tư
chất của hệ thần kinh HS, kích thích sự phát triển của năng lực mà còn phải biết
cách lựa chọn những hình thức tổ chức dạy học phù hợp để tất cả những HS trong
lớp cùng có thể tham gia, nhưng vẫn phân loại được HS, lựa chọn phương pháp
thích hợp nhất với năng lực của từng HS.
Từ các quan niệm trên, chúng tôi cho rằng nâng cao năng lực sử dụng
ĐDTQQƯ trong dạy học là tăng cường, phát triển khả năng vận dụng các loại hình
của ĐDTQQƯ trong dạy - học bộ môn, góp phần to lớn trong việc nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú và phát huy tính tích cực của học
sinh”[22,tr.30-31].
Trong dạy học, người ta thường sử dụng từ “nâng cao” để nói về yêu cầu
của nhiệm vụ học tập mà HS phải đạt được cao hơn so với mức độ hiện có của các
em. “Nâng cao” tồn tại song song với quá trình dạy học như một mục tiêu chí
nhằm không ngừng phát triển HS. Khi đặt ra yêu cầu nâng cao đòi hỏi phải có sự
xác định rõ mức độ đã có của đối tượng và những tiêu chí cụ thể sau khi đã có

những tác động tích cực từ phía chủ thể. Mức độ nâng cao tỉ lệ thuận với những tiêu
chí đặt ra khi cải biến đối tượng.
16
Trong dạy học, hướng phát triển HS liên tục đòi hỏi người GV không ngừng
nâng cao trình độ kiến thức và khả năng học tập của HS. Nâng cao năng lực sử
dụng ĐDTQQƯ trong học tập lịch sử cũng không nằm ngoài mục tiêu phát triển
HS. Thực chất, đây là những biện pháp tác động theo ý định chủ quan mang tính sư
phạm rõ ràng nhằm kích thích sự phát triển hay mức độ thuần thục, sự nhanh nhạy
của HS trong các tình huống học tập khác nhau.
1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao năng lực sử
dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học
lịch sử ở trường trung học phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông được xác định rõ tại điều 27, Luật giáo dục
là: giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng
cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, mục tiêu của giáo dục THPT nhằm: giúp HS
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học
vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động [17]. Nguyên
lí giáo dục “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn” luôn định hướng và
chỉ đạo các hoạt động dạy học nói chung. Ngày nay các nước trên thế giới đã điều
chỉnh chiến lược phát triển giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Hướng đào tạo của các nước là phát huy tối đa tiềm năng của người học, rèn luyện
óc tư duy, sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và thích nghi của họ với mọi hoàn
cảnh sống. Nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ cho HS cũng phù hợp với định
hướng phát triển của giáo dục trong thời đại mới.
Vấn đề nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ có vai trò hết sức to lớn, góp

phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu dạy học bộ môn đặt ra.
- Về kiến thức, mục đích của ĐDTQQƯ là làm nổi bật hay củng cố, phát
triển kiến thức cơ bản. Những kiến thức được lựa chọn cho các hoạt động sử dụng
ĐDTQQƯ bao giờ cũng là những kiến thức cơ bản nhất của bài, của chương hay
của cả khóa trình. Tùy theo đặc điểm của kiến thức và mục đích học tập mà GV hay
HS lựa chọn ĐDTQQƯ phù hợp nhất.
17
Ví dụ, khi dạy bài 20: “Cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp kết
thúc(1953 -1954)” giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu của bài học:
Kiến thức: Giúp học sinh hiểu được:
+ Âm mưu thâm độc của Pháp – Mĩ thể hiện trong kế hoạch Na- va.
+ Hiểu được vào thời gian cuối của cuộc kháng chiến, lực lượng ta về mọi
mặt đã trưởng thành, có đủ sức mở cuộc tiến công chiến lược Đông- Xuân 1953-
1954, trên khắp chiến trường Đông Dương và giành thắng lợi.
+ Hiểu rõ thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa quyết chiến chiến lược của chiến dịch
Điện Biên Phủ.
+ Nắm được nét chính của quá trình đấu tranh trên mặt trận ngoại giao của ta ở
Giơ- ne -vơ. Ghi nhớ những điểm chính và ý nghĩa của Hiệp định Giơ- ne - vơ.
+ Nắm vững ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954).
Trên cơ sở nội dung sách giáo khoa như vậy, giáo viên xác định kiến thức
cơ bản, trọng tâm để thiết kế ĐDTQQƯ cho phù hợp. Ở (Mục I, bài 20), “Âm mưu
mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương- kế hoạch Na- va” ta sẽ có một số sơ đồ, lược
đồ và bảng tóm tắt sau: “Bảng tóm tắt hoàn cảnh lịch sử, nội dung và biện pháp
của kế hoạch Na-va” (phụ lục 30), “Sơ đồ về phương hướng chiến lược và cuộc
tiến công Đông – Xuân 1953- 1954 của ta” (phụ lục 31) và 1 lược đồ “Lược đồ
hình thái chiến trường Đông – Xuân 1953 – 1954” (Xem phụ lục số 29).
Nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ không chỉ giúp HS nắm vững
những kiến thức lịch sử cơ bản hơn cả về chiều rộng và bề sâu, mà còn trang bị
cho HS những hiểu biết về phương pháp học tập bộ môn, nâng tầm hiểu biết của

HS lên mức độ cao hơn. Ví dụ, nhờ có Nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ
nên khi học về diễn biến Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, HS biết và có
nhu cầu sử dụng Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950. Đứng trước lược
đồ, HS nhanh chóng xác định được các bước, cách thức khai thác lược đồ làm
nổi bật nội dung kênh thông tin mà lược đồ chứa đựng như xác định những vị trí
quan trọng có liên quan trực tiếp tới chiến dịch: Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm,
Lạng Sơn, Hà Nội, Thái Nguyên hay các kí hiệu có tính chất quy ước: đường số
4; hướng tấn công của địch của ta, Nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ sẽ
giúp HS biết cách khai thác các thông tin cần thiết, biến những kí hiệu quy ước
thành ngôn ngữ nói hay viết. Nhờ đó, các em có thể nhanh chóng nắm được diễn
biến của chiến dịch. Năng lực khai thác lược đồ còn thể hiện qua khả năng phân
18
tích, đánh giá mối liên hệ giữa các thông tin thể hiện qua cách nhìn nhận khái
quát toàn bộ chiến dịch trên lược đồ. Chẳng hạn như, HS đánh giá được lí do vì
sao Đảng lại chọn đánh cứ điểm Đông Khê hay Đường số 4 được giải phóng có ý
nghĩa như thế nào đối với cuộc kháng chiến chống Pháp về phía ta, Qua đó, HS
thấy được đường lối chỉ đạo của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nâng cao năng
lực sử dụng ĐDTQQƯ trong học tập vừa có tác dụng đối với nhận thức lịch sử,
vừa có tác dụng giáo dục HS và củng cố những hiểu biết của HS về phương pháp
học tập bộ môn.
Bên cạnh đó, nhờ những tố chất có sẵn của năng lực mà HS dễ dàng biết và
nắm vững kiến thức về phương pháp sử dụng ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử. Như
vậy, nâng cao năng lực sử dụng ĐDTQQƯ vừa có tác dụng tích cực trong việc nắm
vững kiến thức lịch sử, vừa có tác dụng đối với quá trình nắm vững, hiểu sâu
phương pháp thực hành bộ môn.
- Về kĩ năng, Năng lực sử dụng ĐDTQQƯ còn giúp HS có những hiểu biết
về cách lựa chọn ĐDTQQƯ phù hợp với nội dung kiến thức. Ví dụ, học về diễn
biến một chiến dịch cụ thể nên sử dụng bản đồ, lược đồ lịch sử hoặc biết được khi
nào thì sử dụng niên biểu, sơ đồ
Năng lực sử dụng ĐDTQQƯ bao gồm cả những hiểu biết về phương pháp thiết

kế và năng lực sử dụng. Chẳng hạn, khi vẽ lược đồ lịch sử, HS phải nắm được nguyên
tắc bản đồ: cách chia tỉ lệ, kí hiệu bản đồ, các quy ước thể hiện nội dung bản đồ, màu
sắc, Những hiểu biết sẽ định hướng hoạt động vẽ bản đồ. Nắm vững nguyên tắc bản
đồ, HS sẽ không bị lúng túng trong các bước thực hiện. Nắm được các kí hiệu bản đồ thì
hiệu quả sử dụng nó mới đạt hiệu quả cao.
- Về thái độ, Năng lực sử dụng ĐDTQQƯ làm cho HS không thấy chán nản
hay ngại ngần khi tiếp thu những sự kiện lịch sử khô khan, khó nhớ. Ngược lại nó
tạo hứng thú, niềm say mê cũng như nhu cầu được tham gia vào trả lời các câu hỏi
nhận thức mà giáo viên đưa ra và ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ. Tâm lí
học quan niệm ý chí là một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí của
nhân cách. Trong ý chí có những phẩm chất quan trọng, cơ bản của nhân cách như
tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính bền bỉ và tính tự chủ [14,tr.166-
168]. Ý chí được hình thành, rèn luyện cùng với những phẩm chất của nó ngày càng
trở nên tích cực hơn thông qua quá trình thực hiện các hành động thực tiễn. Những
thuộc tính trên rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân cách HS. Nó điều
chỉnh thái độ, hành vi học tập của các em. ĐDTQQƯ có tác dụng rèn luyện ý thức
19
học tập và góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho HS.
Xuất hiện như một nhu cầu tất yếu của việc học tập, ĐDTQQƯ là một công cụ
cần thiết không thể thiếu được đối với mỗi HS trong dạy học lịch sử. Nâng cao năng
lực sử dụng ĐDTQQƯ là một biện pháp tích cực giúp HS dễ dàng trong hoạt động
học tập, góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách và rèn luyện khả năng sáng tạo.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để có được những nhận xét khách quan và khoa học về thực trạng sử dụng
các biện pháp để nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học
sinh trong dạy học lịch sử, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát đối với giáo viên
và học sinh ở các trường THPT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
1.2.1. Mục đích điều tra khảo sát
- Điều tra về phương pháp dạy học nhằm nâng cao năng lực sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam 1945 – 1954

(Chương trình chuẩn).
- Đối tượng điều tra: giáo viên và học sinh các trường THPT.
- Phương pháp điều tra: để tiến hành điều tra, chúng tôi sẽ trực tiếp đến các
trường THPT để tìm hiểu, quan sát, dự giờ, tiếp xúc trao đổi với giáo viên và học
sinh xử lý các số liệu để có những cơ sở để kết luận vấn đề này.
1.2.2. Nội dung điều tra
Đối với giáo viên: Chúng tôi đưa sẽ ra một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan
(TNKQ) để khảo sát tìm hiểu xem trong quá trình giảng dạy giáo viên đã chú ý đến
những phương pháp dạy học nào có ưu thế để phát huy năng lực của học sinh. Trong
quá trình dạy học giáo viên có sử dụng đồ dùng trực quan quy ước hay không? Sử
dụng như thế nào? Tác dụng của việc sử dụng các đồ dùng đó để phát huy tính tích
cực, năng lực tư duy của học sinh như thế nào? Lắng nghe những đề xuất và giải pháp
đổi mới phương pháp dạy học.
Về phía học sinh: chúng tôi sẽ đưa ra hai phiếu điều tra, một phiếu điều tra
về trình độ nhận thức của học sinh qua một bài kiểm tra kiến thức ở một bài cụ thể
trong chương trình lịch sử Việt Nam (1945 – 1954); một phiếu điều tra về tình hình
khi dạy học lịch sử, giáo viên có chú trọng đến các biện pháp để nâng cao năng lực
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử Việt Nam 1945 – 1954
hay không (xem phần phụ lục 39,40).
20
1.2.3. Kết quả điều tra
Đối với giáo viên: Qua thực tế điều tra cũng như trao đổi với một số giáo
viên về việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước cho học sinh trong học tập lịch sử
là một điều lâu nay giáo viên hướng tới, từng bước khắc phục khó khăn để nâng cao
năng lực sử dụng đồ dùng trực quan quy ước.
Trong quá trình dạy học nếu giáo viên có sự chuẩn bị tốt, thiết kế, hướng dẫn
học sinh quan sát, tìm tòi, nghiên cứu xử lý thông tin, thông qua hệ thống câu hỏi
nhận thức, áp dụng linh hoạt và kết hợp nhiều biện pháp thì sẽ phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo nâng cao chất lượng dạy học. Qua tìm hiểu giáo viên ở
một số trường THPT ở Quảng Trị, chúng tôi đều nhận thấy rằng đa số giáo viên

đều ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước nhằm tích cực hóa học tập lịch sử của học sinh.
Tuy nhiên do những điều kiện cụ thể (phương tiện, vật chất dạy học còn
thiếu thốn, địa bàn cư trú còn hạ chế về trình độ ), nhiều giáo viên còn lúng túng
trong việc thiết kế, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước và tổ chức dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh không có đồ dùng trực quan quy ước,
hoặc nếu có thì vẫn còn lúng túng trong sử dụng. Sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước chưa được thường xuyên, chỉ khi có thao giảng, dự giờ. Cách sử dụng chủ yếu
là quan sát, theo dõi để làm rõ nội dung kiến thức, chưa gây hứng thú cho học sinh,
chưa góp phần lãm rõ bản chất sự kiện. Phương pháp sử dụng còn hạn chế vì vậy
hiệu quả chưa cao.
Đối với học sinh: Qua thăm dò và trao đổi đối với học sinh ở các trường
THPT, các em đã phản ánh tình hình thực thực tế giảng dạy của giáo viên. Các em
rất hứng thú khi được học những tiết lịch sử có sử dụng thiết bị dạy học nói chung
và đồ dùng trực quan quy ước nói riêng và đặc biệt là những tiết học mà giáo viên
có sự đầu tư, áp dụng nhiều biện pháp hay, mới thì các em được làm chủ tiết học
của mình. Qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên kiểm tra kết quả nhận thức của
học sinh để đánh giá mức độ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, tích cực, tự giác
trong quá trình học tập.
Qua công tác điều tra và xử lý số liệu chúng tôi rút ra một số kết luận khái
quát sau:
Một là, việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học
lịch sử nói chung và lịch sử Việt Nam (1945 - 1954) nói riêng ở trường THPT đã
được nhiều giáo viên nhận thức đúng tầm quan trọng của nó, song thực hiện yêu
21

×