MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn .iii
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề 8
2.1. Ở nước ngoài: 8
2.2. Ở trong nước: 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
3.1. Đối tượng nghiên cứu 9
3.2. Phạm vi nghiên cứu 10
4. Mục đích nghiên cứu 10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
6. Phương pháp nghiên cứu 10
6.1. Phương pháp luận 10
6.2. Phương pháp cụ thể 11
7. Giả thuyết khoa học 11
8. Đóng góp của đề tài 11
9. Cấu trúc của luận văn 12
Chương 1 13
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG 13
TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN THEO HƯỚNG PHÁT HUY 13
TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 13
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 13
1.1. Cơ sở lý luận 13
1.1.1. Quan niệm về tài liệu lịch sử, tài liệu lịch sử thành văn trong dạy
học lịch sử 13
1.1.1.1. Tài liệu lịch sử 13
1.1.1.2. Tài liệu lịch sử thành văn 14
1.1.2. Phân loại tài liệu lịch sử thành văn 15
1.1.2.1. Giáo sư Trương Hữu Quýnh trong “Nhập môn sử học” đã
phân thành các loại tài liệu thành văn sau: 15
1.1.2.2. Một số tác giả khác lại chia tài liệu thành văn thành 2 loại:. .15
1
1.1.2.3. Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm” do
Nguyễn Thị Côi chủ biên, tài liệu thành văn được phân chia như sau:
16
1.1.3. Quan niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử 17
1.1.3.1. Quan niệm về “tính tích cực” 17
1.1.3.2. Phương pháp tích cực 18
1.1.4. Bộ môn lịch sử và việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
20
1.1.5. Ý nghĩa của việc sử tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1965
đến 1975 21
1.2. Cơ sở thực tiễn 27
1.2.1. Mục đích điều tra: 27
1.2.2. Nội dung điều tra 28
1.2.3. Phương pháp điều tra 29
1.2.4. Kết quả điều tra 29
Chương 2 31
HỆ THỐNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN 31
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM 31
TỪ 1965 ĐẾN1975 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 31
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) 31
2.1. Nội dung lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 31
2.2. Những nguyên tắc cơ bản để lựa chọn tài liệu lịch sử thành văn để dạy học
lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh 42
2.3. Hệ thống tài liệu lịch sử thành văn cần khai thác, sử dụng trong dạy học lịch
sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 ở trường Trung học phổ thông 48
Chương 3 57
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN 57
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1965 ĐẾN 1975 57
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) 57
3.1. Nguyên tắc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh trong dạy học lịch sử 57
3.1.1. Phải phù hợp với nội dung cơ bản của bài học 58
3.1.2. Phải đảm bảo tính khoa học, tính Đảng 59
3.1.3. Phải đảm bảo phát huy tính tích cực của học sinh 61
2
3.1.4. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn phải nhằm mục đích giáo dục tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, thẩm mĩ, năng lực tư duy và hoạt
động thực tiễn của học sinh 64
3.1.5. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn phải nhằm mục đích rèn luyện
kỹ năng thực hành bộ môn 67
3.2. Các trường hợp và biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến
1975 67
3.2.1. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để cụ thể hóa các hiện tượng, sự
kiện lịch sử 68
3.2.2. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để tạo biểu tượng về sự kiện,
nhân vật lịch sử 69
3.2.3. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để giải thích sự kiện lịch sử,
khái niệm, thuật ngữ 73
3.2.4. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để tường thuật, miêu tả 73
3.2.5. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để nêu vấn đề 75
3.2.6. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để khái quát, kết luận 77
3.2.7. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để xây dựng các bài tập nhận
thức 78
3.2.8. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với sơ đồ tư duy 80
3.2.9. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan82
3.2.9.1. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp tranh ảnh 82
3.2.9.2. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với bản đồ (lược
đồ) lịch sử 85
3.2.9.3. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp sơ đồ, biểu đồ, niên
biểu 88
3.3. Thực nghiệm sư phạm 92
3.3.1. Mục đích, yêu cầu 93
3.3.2. Phương pháp và kế hoạch thực nghiệm sư phạm 93
3.3.2.1. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm sư phạm 93
3.3.2.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm 93
3.3.2.3. Phương pháp thực nghiệm 93
3.3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm 94
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
BĐTD : Bản đồ tư duy
CNTD : Chủ nghĩa thực dân
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐHSP : Đại học Sư phạm
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
DHLS Dạy học lịch sử
LSDT : Lịch sử dân tộc
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
THCS : Trung học sơ sở
THPT : Trung học phổ thông
VN : Việt Nam
4
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 2.1.Quân ta giải phóng Buôn Mê Thuột (Nguồn: [48]) 46
Lược đồ 3.1. Chiến dịch Hồ Chí Minh (Nguồn: [40] ) 63
Ảnh 3.1. Võ Nguyên Giáp (Nguồn: [43]) 71
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tư duy (Nguồn: [42]) 82
Ảnh 3.2. Xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập để dạy về sự kiện 83
chiến dịch Hồ Chí Minh (Nguồn: [44]) 83
Lược đồ: 3.2. Trận Vạn Tường – Quảng Ngãi (8-1965) 87
(Nguồn: [47]) 87
Lược đồ 3.1. Chiến dịch Hồ Chí Minh Error: Reference source not found
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tư duy Error: Reference source not found
DANH MỤC NIÊN BIỂU
Niên Biểu Các “Nấc” Thời Gian Mĩ Leo Thang Bắn Phá Miền Bắc 89
Và Kết Cục Của Nó 89
Niên biểu: Thành tích chiến đấu của quân dân miền Bắc đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ 89
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng: bất cứ một quốc gia,
dân tộc nào, nếu có chiến lược đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo đúng đắn và phù
hợp thì sẽ đạt được sự phát triển nhanh chóng, toàn diện và bền vững. Sở dĩ như vậy
bởi Giáo dục - Đào tạo liên quan trực tiếp đến con người - nhân tố quyết định hàng
đầu đối với sự tồn vong, hưng thịnh của một đất nước.
Ở nước ta hiện nay, giáo dục và đào tạo đang được Đảng và Nhà nước đặt ở vị
trí là “Quốc sách hàng đầu”. Đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực
thực sự chất lượng, hữu ích cho đất nước để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
vừa là việc thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, vừa là một chiến lược mũi nhọn
của quốc gia.
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh những
kiến thức cơ bản về lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc, phát triển tư duy cho thế hệ
trẻ mà còn góp phần giáo dục cho các em tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
góp phần to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng cao
để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực phát triển giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông. Việc
cải tiến, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học bộ môn trở thành một yêu cầu có
tính cấp bách và phải tiến hành thường xuyên, đồng bộ, trong đó việc tăng cường sử
dụng các tài liệu thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh được sử
dụng trong dạy và học lịch sử sẽ gây nhiều hứng thú đối với học sinh.
1.2.Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, ngoài sách giáo khoa, tài liệu
lịch sử thành văn với vai trò là tài liệu tham khảo giữ một vị trí trọng yếu. Tài liệu
lịch sử thành văn không chỉ giúp cho học sinh khôi phục lại hình ảnh quá khứ một
cách khách quan, trung thực, sinh động mà còn giúp cho các em phát triển trí tưởng
tượng, tích cực hóa quá trình nhận thức và tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính
tích cực trong học tập. Việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông ngày càng có ý
6
nghĩa quan trọng vì nó phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh và mục tiêu
đào tạo của nhà trường
1.3. Lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 với nội dung chủ yếu là phản
ánh cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của nhân dân ta, nhằm bảo vệ và giữ vững
nền độc lập dân tộc. Đây là thời kỳ thể hiện rõ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả….
Lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 diễn ra với nhiều nội dung phong phú, để
dạy học lịch sử có hiệu quả chúng ta phải vận dụng nhiều biện pháp sư phạm khác
nhau, trong đó việc sử dụng tài liệu thành văn là một trong những biện pháp cơ bản
để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Đồng thời thông qua những kiến thức lịch sử
quan trọng đó sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, bồi
dưỡng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, đặc biệt là lòng tin cho
HS. Vì thế việc sử dụng tài liệu thành văn trong dạy học từ năm 1965 đến 1975 có ý
nghĩa lớn trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
1.4. Thực tiễn dạy học ở phổ thông những năm gần đây cho thấy chất lượng
bộ môn có phần giảm sút, các em ít ham thích học tập, tìm hiểu lịch sử, môn lịch sử
ít được coi trọng và quan tâm đúng với vai trò, nhiệm vụ của nó trong công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ. Thực tiễn dạy học lịch sử ở
các trường Trung học phổ thông, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử còn hạn chế. Nhiều giáo
viên và học sinh chỉ dựa vào sách giáo khoa là chủ yếu, ít sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn, vì vậy chất lượng giờ học chưa cao, một bộ phận không nhỏ giáo viên
nghiêng về cung cấp tri thức một chiều, thầy đọc trò chép khiến học sinh tiếp nhận
tri thức rời rạc, thiếu hệ thống, làm cho chất lượng dạy học lịch sử giảm sút.
Xuất phát từ định hướng về đổi mới phương pháp dạy học, nội dung, chương
trình, sách giáo khoa và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường
Trung học phổ thông, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1965 đến 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)” làm
đề tài luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học môn lịch sử
của mình.
7
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, được thể hiện trong nhiều
nguồn tư liệu về tâm lý học, lý luận dạy học đại cương, lý luận và phương pháp dạy
học lịch sử của các nhà nghiên cứu giáo dục trong nước và ngoài nước.
2.1. Ở nước ngoài:
Đề tài luận văn này chủ yếu tập trung vào các tài liệu ở trong nước, liên quan
đến phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả N.A.Êrôpheep(1997 )với công trình
“Lịch sử là gì?”, đã giải quyết vấn đề tại sao chúng ta phải học lịch sử? học lịch sử
làm gì? đã giúp giáo viên có cái nhìn khái quát về bộ môn lịch sử, cũng như thấy
được tầm quan trọng của lịch sử; N.G.Đairi với tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào?” đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nguồn tài liệu tham khảo
đồng thời nêu ra những yêu cầu quan trọng nhất của một giờ học và chú trọng tổ
chức các hoạt động nhận thức cho học sinh. Ông cũng cho rằng, giáo viên bắt buộc
phải biết rõ những thành tựu của khoa học lịch sử và các khoa học giáo dục,
những vấn đề mà khoa học đang giải quyết, phải biết tất cả những hiện tượng
quan trọng của đời sống chính trị, xã hội và văn hóa; A .Vaghin trong giáo trình
“Phương pháp dạy học ở trường phổ thông” đã khẳng định nguồn tài liệu lịch sử
chiếm vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Ông cũng cho
rằng, việc lĩnh hội tài liệu là điều kiện cần thiết để HS có quan điểm đúng đắn về
lịch sử…; I.F. Kharlamốp trong cuốn “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào?”
đã khẳng định: “tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích, động
viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của HS. Đó là tính chất mới lạ của
tri thức khoa học, tính sáng tỏ của các sự kiện sự thâm nhập sâu xa vào bản chất
của hiện tượng”. [18, tr.88] Việc xử lí mối quan hệ giữa sử dụng tư liệu và bài
giảng mà ông nêu ra vẫn còn giá trị thực tiễn, được nhiều giáo viên lịch sử ở trường
phổ thông nước ta thừa nhận,
Như vậy, qua các tài liệu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, chúng tôi thấy
rằng các tác giả chỉ dừng lại ở việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nguồn tài liệu
nói chung trong dạy học lịch sử, chứ không đề cập đầy đủ, toàn diện đến vai trò của
việc sử dụng tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, đây chính là định
hướng quan trọng để chúng tôi xác định một phần cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu.
8
2.2. Ở trong nước:
Bàn về vấn đề sử dụng tài liệu thành văn đã được trình bày trong các giáo
trình về phương pháp dạy học lịch sử ở trường Đại học, Cao đẳng như: Nguyễn Thị
Côi (2006), với công trình “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường phổ thông”, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (Chủ
biên) với các công trình chủ biên như: “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập I, tập II
(2005),NXB Đại học sư phạm, Hà Nội; hoặc Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (2006),
“Nhập môn sử học”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội; Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình
Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tường (Đồng chủ biên) (2002), trong công
trình“Một số chuyên đề về phương pháp dạy học lịch sử”, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội; … đã đề cập nhiều đến việc cần thiết phải sử dụng tài liệu thành văn và đề
xuất một số nguyên tắc khi sử dụng tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử.
Đề cập đến các sự kiện lịch sử dân tộc từ 1965 đến 1975, có các tác phẩm
như : Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu, NXB Quân đội nhân,
Hà Nội; Bộ Quốc phòng, Viện lịch sử Việt Nam (1999), Lịch sử cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 – 1975), tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần
Bá Đệ - Lê Cung (2010), Giáo trình Lịch sử Việt Nam (1954 – 1975), tập VII (in
lần thứ hai), NXB ĐHSP; “ Một số văn kiện chỉ đạo tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975- Chiến dịch Hồ Chí Minh”, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội; Chiến
trường Trị Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, NXB Thuận
Hóa, Huế (1985) công trình này đã tái hiện lại quá khứ hào hùng của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1965- 1975.
Như vậy, mặc dù có nhiều công trình, bài viết đề cập đến vấn đề sử dụng tài liệu
thành văn trong dạy học lịch sử nhưng chưa có công trình nào đi sâu, nghiên cứu vấn đề
sử dụng tài liệu thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1965 đến 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) ở một giai
đoạn cụ thể. Đấy là nhiệm vụ mà đề tài của tôi phải giải quyết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “quá trình sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam
từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn”.
9
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu nêu trên, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu và vận dụng những thành tựu của lý luận dạy học hiện đại về vấn đề sử dụng tài
liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn) và tiến
hành thực nghiệm sư phạm ở tỉnh Đồng Nai.Trên cơ sở đó, rút ra những kết luận về
tính khả thi của đề tài.
4. Mục đích nghiên cứu
Xác định nội dung, hình thức và biện pháp sư phạm cần thiết để sử dụng tài
liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường
THPT (Chương trình Chuẩn)
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu tài liệu về giáo dục học, tâm lý học, chương trình, SGK lịch sử
lớp 12 (Ban cơ bản) để xác định cơ sở lí luận của vấn đề.
- Tiến hành điều tra xã hội học việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965
đến 1975 ở trường THPT để tìm hiểu thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu lịch sử Việt Nam để xây dựng các đoạn tường thuật, miêu
tả, để vận dụng vào dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT
(Chương trình Chuẩn) theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
- Đề xuất những nguyên tắc và biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính khả thi của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về lịch sử và
giáo dục lịch sử, chủ yếu là lí luận về phương pháp dạy học môn lịch sử.
10
6.2. Phương pháp cụ thể
- Điều tra xã hội học để tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh.
- Nghiên cứu tài liệu giáo dục học, tâm lý học, chương trình, nội dung SGK và
các tài liệu tham khảo để xác định các đoạn tài liệu lịch sử thành văn đưa vào sử
dụng khi giảng dạy Lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương
trình Chuẩn) theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
- Phương pháp tham vấn chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia để
nêu giả thuyết khoa học của đề tài và xác định các biện pháp giải quyết giả thuyết
khoa học của đề tài.
- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính
khả thi của đề tài theo nguyên tắc từ điểm suy ra diện.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh bằng những hình thức và biện pháp phù hợp mà đề tài đề ra Thì sẽ nâng
cao hiệu quả việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh và nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn), đồng thời góp phần
tích cực vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.
8. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu lý luận về phương pháp
dạy học và việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học lịch sử, cùng với
việc tham khảo các tài liệu liên quan, luận văn có những đóng góp như sau:
- Về lý luận: Góp phần cụ thể hóa lý luận việc sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn trong dạy học lịch sử dân tộc theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học
sinh ở một giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Về thực tiễn:
+ Đề tài xác định được mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử Việt Nam với
hệ thống tài liệu lịch sử thành văn đảm bảo tính chính xác, khoa học phù hợp với
chương trình, nội dung SGK Lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT
(Chương trình Chuẩn).
11
+ Đề xuất một số nguyên tắc và biện pháp khả thi để sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh một cách hợp
lý, hiệu quả trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 để góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học môn lịch sử.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được chia
làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
Trung học phổ thông.
Chương 2: Hệ thống tài liệu lịch sử thành văn được sử dụng theo hướng phát
huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến
1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
Chương 3: Phương pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở
trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN THEO HƯỚNG PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về tài liệu lịch sử, tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học lịch sử
1.1.1.1. Tài liệu lịch sử
Trong nghiên cứu lịch sử, tài liệu đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì,
trong quá trình nghiên cứu nhà sử học không trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử để
khôi phục lại sự kiện phải dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu, thông qua tài liệu để
nhận biết quá khứ. Tài liệu là cơ sở của mọi kết luận khoa học, đặc biệt là khoa học
lịch sử. Do vậy, càng xem trọng công tác sưu tầm tài liệu lịch sử bao nhiêu thì thành
quả nghiên cứu sẽ càng đạt chất lượng cao bấy nhiêu. Trong thực tiễn công tác
nghiên cứu khoa học nói chung, nhà nghiên cứu dành đại bộ phận thời gian và công
sức cho công tác tài liệu. Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: “Khi công tác tư liệu đã
làm xong về cơ bản có nghĩa là công trình khoa học đã hoàn thành ít nhất là 80%”.
[24, tr.64]
Tài liệu lịch sử (tư liệu lịch sử) là âm Hán Việt, và ở tiếng Hán cũng là tài liệu
lịch sử. Tiếng Pháp là Document historique, tiếng Nga là istochniki, istoricheskie
( ucmopuHuku, ucmopureckue). Cả hai từ này khi dịch sát nghĩa tiếng việt cũng là tài
liệu lịch sử. Từ cụm từ đầy đủ này làm nảy sinh từ sử liệu (cũng gọi là tài liệu lịch sử).
Các nhà nghiên cứu quan niệm tài liệu lịch sử là bao gồm tất cả những gì đã
diễn ra trong quá khứ. Ngược lại có người cho rằng tài liệu lịch sử là những tư liệu
phản ánh và ra đời đồng thời với sự kiện lịch sử.v.v…Việc xác định thế nào là tài
liệu lịch sử là điều khó và phức tạp vì hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về
định nghĩa này.
Thứ nhất, tài liệu lịch sử là những tài liệu thành văn. Đại diện cho quan điểm này là
L. Răngke (thời kỳ văn hóa phục hưng), theo ông “Lịch sử gắn liền với những tài liệu
thành văn được lưu lại”. Ngày nay quan điểm này ít được chấp nhận [1, tr.15]
13
Thứ hai, tài liệu lịch sử là những gì được sử dụng để nghiên cứu quá khứ và để
nhận thức quá khứ. Đại biểu cho khuynh hướng này là N.chi Khơminốp (Nhà
nghiên cứu Nga, thế kỷ XIX, theo ông “tài liệu lịch sử là tất cả những gì còn lưu
lại của cuộc sống đã qua” theo quan niện này thì khái niệm tài liệu lịch sử quá rộng
rãi.[1,tr.15]
Thứ ba, “tài liệu lịch sử là một khái niệm”, tiêu biểu cho quan điểm này là nhà
nghiên cứu người Nga Lapo Danhilépxki, theo ông “tài liệu lịch sử là một khái
niệm phản ánh đặc tính của hiện vật và có thể được sử dụng để thu nhận tri thức để
thu nhận tri thức về một hiện vật khác”.[1,tr.15]
Thứ tư, coi tư liệu lịch sử là trí nhớ xã hội, tức là một vật mang trí nhớ xã hội,
con người không thể nhớ được những gì đã xảy ra trong quá khứ, do đó phải nhờ
vật đó giúp đỡ để tái hiện lại. Đại biểu cho quan điểm này là của I.a Rebans, theo
ông “tư liệu lịch sử là tổng hợp những thành quả của các hoạt động thực tiễn vào
nhận thức của con người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng các
phương tiện xã hội” [1,tr.15]
Thứ năm, tài liệu lịch sử như là một sản phẩm thuần túy tâm lý của tác giả tư
liệu. Chẳng hạn, theo Lapo Danhilepxki“Tất cả tài liệu (tư liệu) kể cả tài liệu vật
chất đều là những sản phẩm của tâm lý con người”. Quan điểm này đã phủ nhận
tính chất khách quan của tư liệu lịch sử. Từ đó dẫn đến sự tùy tiện trong việc khai
thác tư liệu lịch sử.
Thứ sáu, trong cuốn trong cuốn Bách khoa toàn thư, xuất bản năm 1972 đã
khẳng định “Tư liệu lịch sử là tất cả những gì phản ánh trực tiếp quá trình lịch sử
và cho ta khả năng nghiên cứu quá khứ của xã hội loài người. Nghĩa là tấ cả những
di sản của xã hội loài người dưới dạng các hiện vật của nền văn hóa vật chất và
các tài liệu thành văn cho phép ta nhận thức về đạo đức, tập quán và ngôn ngữ của
các dân tộc”. Khái niệm này nhấn mạnh tính trực tiếp của tư liệu lịch sử.
Tổng hợp các định nghĩa nói trên, ta có thể rút ra kết luận rằng “Tài liệu lịch
sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất
định và mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh trực tiếp và
trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người”. [1, tr.18]
1.1.1.2. Tài liệu lịch sử thành văn
Từ định nghĩa về tư liệu lịch sử, ta có thể định nghĩa “Tài liệu thành văn là
những tư liệu cho ta những thông tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng
14
chữ viết qua các kênh thông tin khác nhau. Nguồn tài liệu này chiếm khối lượng lớn
và đặc biệt quan trọng đôi khi chiếm vị trí chủ yếu trong các nguồn sử liệu”. [36,
tr.4]
1.1.2. Phân loại tài liệu lịch sử thành văn .
Tài liệu thành văn: là loại tài liệu hết sức phong phú và có vị trí quan trọng đối
với các công trình nghiên cứu. Thông qua loại tài liệu này nhà sử học biết được toàn
diện về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của quá khứ. Các nhà sử học đã từng quan
niệm rằng chỉ có những tài liệu thành văn mới có thể được dùng làm tư liệu, còn
những tài liệu khác đều không đáng tin cậy.
Trên thực tế, tài liệu thành văn ra đời cùng với chữ viết. Sự xuất hiện chữ viết
cùng với ra đời của nghề in đã làm cho tài liệu thành văn ngày càng đa dạng, phong
phú Chữ viết cũng được sáng tạo trên cơ sở những yêu cầu ghi nhớ bức thiết của
con người mà các hình thức ghi nhớ khác không thỏa mãn được. Tuy nhiên ở những
thời kỳ đầu của lịch sử ghi nhớ được ghi chép, sử liệu thành văn chỉ được phản ánh
một mặt hoạt động nhất định của một bộ phận xã hội - chủ yếu của giai cấp thống
trị và bộ phận tăng lữ. Sử liệu viết về nhân dân ra đời muộn hơn nhưng đa dạng hơn
và phản ánh đầy đủ những hoạt động của nhân dân.Việc phân loại tài liệu thành văn
tùy thuộc vào cơ sở nhận thức vị trí tài liệu, cụ thể là các căn cứ sau:
1.1.2.1. Giáo sư Trương Hữu Quýnh trong “Nhập môn sử học” đã phân thành các
loại tài liệu thành văn sau:
- Tài liệu kinh điển: Trong tài liệu kinh điển gồm 2 loại:
+ Các tác phẩm của C.Mác và Ăng-ghen, Lê-Nin và các tác phẩm chung của
Mác-Ăngghen.
+ Các văn kiện của quốc tế cộng sản, các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn, các
tác phẩm báo chí, bài viết, sách của các lãnh tụ ở các nước trên thế giới, đặc biệt là
các văn kiện của Đảng ta, các bài viết, các báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh…
- Nguồn tài liệu chính thống: bao gồm những tài liệu liên quan đến nhà nước,
chính trị, pháp luật, tài chính kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao,
- Nguồn tài liệu tư nhân: Nhật ký, hồi ký, ký sự, di chúc các lão thành cách mạng.
1.1.2.2. Một số tác giả khác lại chia tài liệu thành văn thành 2 loại:
- Tài liệu gốc, là loại tài liệu do người đương thời ghi lại khi sự kiện lịch sử
đang diễn ra.
- Tài liệu trung gian, là loại tài liệu phản ánh lịch sử qua thời gian của một tài
15
liệu khác.
Tóm lại, tùy theo góc độ nhìn nhận khác nhau mà tài liệu thành văn được phân
loại như sau :
- Xét ở góc độ xuất xứ tài liệu:
+ Tài liệu gốc
+ Tài liệu trung gian
- Xét ở góc độ nội dung phản ánh :
+ Tài liệu chính trị, quân sự
+ Tài liệu kinh tế
+ Tài liệu văn hóa, xã hội
- Xét ở góc độ ý nghĩa sự kiện :
+ Tài liệu cơ bản
+ Tài liệu không cơ bản
- Xét ở góc độ tầm quan trọng của nguồn tài liệu :
+ Tài liệu của Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ta.
+ Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta.
+Các bài nói, bài viết của các Đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta.
+ Các công trình nghiên cứu đã xuất bản như giáo trình, sách chuyên khảo về
các vấn đề kinh tế, chính trị- xã hội, các tác phẩm sử học
+ Tài liệu báo chí viết về những vấn đề lịch sử
+ Tài liệu từ nguồn internet như từ google, vi.wikipedia
1.1.2.3. Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm” do Nguyễn Thị Côi
chủ biên, tài liệu thành văn được phân chia như sau:
+ Tài liệu giáo khoa: Là tài liệu cơ bản dành cho HS và cả cho GV trong nhà
trường. Đây là loại tài liệu đã được biên soạn, chỉnh lí và qua nhiều lần cải cách
giáo dục. Do vậy, ngoài tài liệu giáo khoa hiện hành, GV còn có thể sử dụng các tài
liệu giáo khoa trước đó.
+ Tài liệu tham khảo: Gồm nhiều loại tư liệu khác nhau, trước hết là tài liệu
lịch sử như trích dẫn tài liệu gốc, sách báo, bài viết chuyên khảo về một sự kiện lịch
sử trong nước và thế giới. Đây là loại tài liệu quý giúp HS có thể hiểu được các hiện
tượng lịch sử một cách sinh động, chính xác. Tài liệu tham khảo gồm các tác phẩm
văn học, các văn bản văn nghệ dân gian, các trích đoạn từ tác phẩm khoa học khác
có liên quan đến sự kiện, hiện tượng lịch sử như tác phẩm của Mác, Ăngghen,
16
Lênin, Hồ Chí Minh.
+ Các loại tài liệu thực tế sưu tầm trong đời sống xã hội thuộc các lĩnh vực tư
tưởng, triết học, nghệ thuật, đạo đức, tâm lí xã hội, xã hội học. Ngoài ra, còn có các
loại sách hướng dẫn giảng dạy, các sách lí giải hoặc một số giáo án mẫu của một số
Sở giáo dục biên soạn. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các bài viết trao đổi kinh
nghiệm về giảng dạy, được đăng tải trên các sách báo, các chuyên san của ngành.
1.1.3. Quan niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử
1.1.3.1. Quan niệm về “tính tích cực”
Tính tích cực là một khái niệm quan trọng trong dạy học đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới và trong nước đề cập.
I.F.Kharlamôp cho rằng: “Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể,
nghĩa là của con người hành động. Vậy tính tích cực là trạng thái hoạt động của
học sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình nắm vững kiến thức” [18, tr. 43].
Tính tích cực là một quá trình hoạt động có mục đích và ý chí vươn lên để đạt
tới tầm cao…Có thể hiểu một cách khái quát rằng tính tích cực là sự cố gắng cao độ
để làm việc nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
Như vậy tính tính cực là nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những
con người năng động, sáng tạo thông qua các hoạt động dạy và học. Tính tích cực
tạo ra sự biến đổi bên trong (tư duy, tình cảm) và tính tích cực bên ngoài (thái độ,
hành động của thầy và trò).
Tính tích cực là cơ sở thuận lợi để phát triển các năng lực khác trong hoạt
động nhận thức của mỗi người. Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa
học, quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều mà loài
người chưa biết về bản chất, quy luật của các hiện tượng khách quan mà nhằm lĩnh
hội tri thức mà loài người đã tích lũy được. Đồng thời trong quá trình dạy học,
chúng ta có thể nhận biết thái độ, tình cảm của học sinh trước một hiện tượng, một
tri thức mới. Những biểu hiện đó thường khác nhau hoặc thờ ơ, hoặc vô cảm, hoặc
sôi nổi, nhiệt tình, tập trung chú ý hay tỏ vẻ chán chường.
Từ những định nghĩa trên chúng ta có thể khái quát : tính tích cực là đem hết
khả năng và tâm trí vào làm việc, như học tập, công tác, trong đó yếu tố tích cực được
biểu hiện xuyên suốt, có thể thấy tính tích cực là trạng thái học tập của học sinh đặc
trưng bởi ý muốn tìm tòi, làm chủ và nắm vững kiến thức dưới sự hướng dẫn của
17
giáo viên, đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách và trí tuệ học sinh.
1.1.3.2. Phương pháp tích cực
Bản chất của dạy học là đề cao chủ thể nhận thức, chính là phát huy tính tự
giác của người học. Tính tích cực trong dạy học lịch sử là yếu tố cơ bản có tính
quyết định và nâng cao hiệu quả học tập của học HS. Trong dạy học lịch sử tính tích
cực trong nhận thức, đặc biệt trong tư duy sẽ đảm bảo học sinh lĩnh hội sâu sắc nhớ
sâu kiến thức lịch sử, và phương tiện hình thành kiến thức, khơi dậy những cảm xúc
lịch sử, đây chính là cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh.
Tính tích cực hóa hoạt động nhận thức là một trong những phương hướng cơ bản
của việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, người thầy không truyền đạt kiến
thức có sẵn mà định hướng cho HS khám phá kiến thức. Người GV bằng mọi biện
pháp hướng dẫn, điều khiển tổ chức quá trình nhận thức của HS, HS được xem là
nhiệm vụ trung tâm của quá trình dạy học, các em phải chủ động, sáng tạo trong
việc chiếm lĩnh tri thức và vận chúng vào thực tiễn.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông việc phát huy tính tích cực học tập
của học sinh trở thành một nguyên tắc được quán triệt trong mọi hoạt động, mọi
khâu của quá trình dạy học. Từ trước đến nay việc tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh trong dạy học thể hiện như sau:
Thứ nhất: Truyền đạt tri thức có sẵn trong sách giáo khoa.
Thứ hai: Hình thành tri thức cho học sinh trên cơ sở hoạt động độc lập của
học sinh.
Cả hai tố đó thì yếu tố thứ hai có thể giải quyết thông qua việc tích cực hóa
hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, đồng thời phải được thực
hiện trên cơ sở kết hợp giữa việc phát huy tính tích cực của chủ thể nhận thức (học
sinh) với chủ thể giảng dạy (giáo viên) nhằm thực hiện việc dạy học là phát triển
năng lực tư duy, năng lực thực hành, kỹ năng kỹ xảo, học tập cho học sinh nói
chung và rèn luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.
Mặt khác việc phát triển tính tích cực học tập trong dạy học lịch sử còn góp
phần phát triển hứng thú học tập và rèn luyện ngôn ngữ cho HS. Bởi vì sự phong
phú sinh động của nhiều nguồn kiến thức, kết hợp với việc khéo léo gợi mở, hướng
dẫn của GV sẽ lôi cuốn HS tham gia xây dựng bài học. Hơn nữa ngôn ngữ liên quan
chặt chẽ đến tư duy, tư duy có phát triển thì ngôn ngữ mới mạch lạc, chính xác. Rõ
18
ràng, việc phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, đặc biệt là tư duy độc lập của
HS có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả bài học. Việc phát huy tính tích
cực trong học tập sẽ “ khêu gợi, đòi hỏi con người suy nghĩ, tìm tòi và phát huy tư
duy đến mức cao nhất, moi móc trong con người mình cái gì có thể giải quyết được
vấn đề đặt ra”. [19, tr.5]
Như vậy tính tích cực trong dạy học lịch sử được thể hiện trong việc con
người nắm bắt được quy luật, hiện tượng, sự việc của thế giới tự nhiên và xã hội
thông qua học tập. Tính tích cực của học sinh là trạng thái hoạt động của người học
thể hiện khát vọng học tập trong quá trình nắm vững kiến thức. Thông qua việc phát
huy tính tích cực hoạt động nhận thức của HS, GV lựa chọn nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em. “Tính tích
cực không phải là phép phản xạ gương, phản xạ đơn nghĩa là phản ánh tất cả các
hiện tượng như cái gương chiếu lại đứng trước nó. Đây là sự phản ánh tích cực có
chọn lọc” [19, tr.336]
Hình thành và phát triển tư duy học sinh thông qua hoạt động tích cực là nhiệm
vụ chủ yếu của ngành giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, sáng tạo,
thích ứng với sự phát triển của thời đại. Có thể coi tính tích cực như là một điều kiện
đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách và trí tuệ HS trong quá trình giáo dục.
Cũng như việc học tập các môn khác ở trường phổ thông, học tập lịch sử là
một quá trình nhận thức, mỗi cá nhân phải tự thực hiện cùng với sự giúp đỡ, hướng
dẫn, điều chỉnh của thầy cô giáo. Khi học lịch sử, HS không chỉ dừng ở việc ghi
nhớ sự kiện. Điều quan trọng là phải hiểu biết bản chất sự kiện, quá trình lịch sử, rút
ra quy luật, bài học của quá khứ hiện tại. Vì vậy, trong dạy học lịch sử cần phải phát
huy tính tích cực nhận thức của HS.
Phương pháp tích cực là phương pháp dạy mà trong đó mối quan hệ biện
chứng giữa thầy và trò được xác định như sau:
- Trò là chủ thể của hoạt động giáo dục, là trung tâm trong quá trình dạy học.
Trò không còn thụ động nghe thầy giảng mà phải tích cực chủ động trong việc học.
Trong khi GV giảng bài luôn đặt ra các tình huống có vấn đề thì trò phải làm việc,
tìm cách giải quyết các vấn đề bằng tích cực tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, ) để tiếp thu bài giảng một cách tốt nhất đạt hiệu quả cao nhất. Cho nên
người học phải tích cực, năng động, sáng tạo mới thật sự phát triển trí thông minh,
19
phát triển nhân cách toàn diện. Người đọc không chỉ tiếp thu những kiến thức có
sẵn mà phải tự đặt ra và đối chiếu với những tình huống có vấn đề và tự tìm cách
giải quyết vấn đề. Lớp học là nơi giao tiếp thường xuyên giữa trò với thầy.
- Thầy đóng vai trò chỉ đạo trong quá trình dạy học, tức là thầy không còn là
người truyền đạt kiến thức cho học sinh theo lối một chiều mà là người hướng dẫn,
giúp học sinh tự nhận thức các kiến thức, tự đi tìm các chân lý.
Tóm lại việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS ngày nay đã và đang
được ngành giáo dục đẩy mạnh toàn diện cả về nội dung và hình thức. HS trở thành
trung tâm chiếm lĩnh kiến thức, GV là người tổ chức hướng dẫn trong quá trình dạy
học. Nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực tự chủ, năng động và sáng tạo.
Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường cần hướng tới.
1.1.4. Bộ môn lịch sử và việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Sử học là một môn khoa học, nếu không có sự hoạt động tích cực của tư duy
thì không nhận thức được lịch sử. Mặc khác, việc dạy học lịch sử có rất nhiều điều
kiện thuận lợi để rèn luyện tính tích cực cho học sinh. Muốn đào tạo con người phù
hợp với thời đại của chúng ta, cần phải không ngừng cải tiến và nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự hứng thú, hấp dẫn
ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm bớt sự chú ý của chúng ta đối
với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự toàn thắng
của công cuộc xây dựng sáng tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối
với chiến tranh, sự gần gũi hiểu biết của các dân tộc về văn học và các mặt khác,
khắc phục tình trạng biệt lập. Bài học lịch sử luôn đặt ra nhiều vấn đề cần phải lý
giải, do đó có điều kiện phát huy tính tích cực của học sinh. Nhận thức đúng lịch sử
là yếu tố quan trọng để hành động có hiệu quả trong hiện tại.
Mọi khoa học đều là tổng kết những hiểu biết, kinh nghiệm trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và xã hội, đạt tới trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, đi sâu
vào bản chất sự kiện hiện tượng, rút ra quy luật vận động của sự vật. Việc học
tập và nghiên cứu lịch sử cũng là một hình thức nhận thức khoa học, đòi hỏi học
sinh cần tích cực trong tư duy.
Lịch sử không phải là “môn phụ”, môn thứ yếu mà có tầm quan trọng đặc biệt
trong giáo dục thế hệ trẻ. Môn lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức về
khoa học lịch sử, học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức
đã học được vào cuộc sống. Do vậy, nó đòi hỏi phải phát triển tư duy, trí thông
20
minh, tính sáng tạo.
Đặc điểm của lịch sử chi phối nhận thức lịch sử. Bản thân lịch sử là một hiện
tượng khách quan xảy ra trong quá khứ và vận động theo quy luật từ thấp đến cao.
Nhận thức lịch sử không hề quan sát trực tiếp mà học sinh chỉ thực sự nắm vững
được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo thì trong quá trình đó huy động mọi năng lực nhận
thức: Trí tưởng tượng (tái hiện và sáng tạo), trí nhớ (chủ yếu là trí nhớ logic), tư duy
tích cực và có khả năng vận dụng tri thức cần thiết để thành công việc đề ra.
Học tập lịch sử không phải chỉ ghi nhớ sự kiện, hiện tượng mà phải tìm ra cái tiềm
ẩn, bản chất sự kiện. Muốn vậy, HS phải từ sự kiện tạo biểu tượng, hình thành khái
niệm, nêu quy luật và rút ra bài học lịch sử. Đó là con đường phát triển tính tích cực.
Bài học lịch sử có thể phát huy tính tích cực của học sinh ở nhiều khía cạnh:
+ Có ý thức khám phá lịch sử đằng sau các sự kiện và hiện tượng lịch sử.
+ Hướng dẫn HS biết phân tích cụ thể dễ hiểu bản chất sự kiện.
+ Hướng dẫn HS biết xem xét vấn đề một cách cụ thể, đặt các sự kiện lịch sử
cụ thể trong bối cảnh của nó để hiểu đúng sự kiện.
+ Hướng dẫn HS nhìn nhận mối liên hệ hiện tại, tác động qua lại, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
1.1.5. Ý nghĩa của việc sử tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975.
- Sử dụng tài liệu thành văn góp phần tạo biểu tượng lịch sử, giúp các em
hình dung quá khứ lịch sử phong phú, đa dạng, chính xác…
Trong học tập lịch sử, việc tạo biểu tượng có ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát
từ đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ trực quan
sinh động. Muốn học sinh khôi phục được bức tranh lịch sử quá khứ với đầy đủ tính
cụ thể và sinh động của nó, cần thiết phải sử dụng tài liệu thành văn.
Trước hết, tài liệu lịch sử thành văn góp phần tạo biểu tượng lịch sử, khôi
phục bức tranh lịch sử. Bởi vì: “một trong hai chức năng – nhiệm vụ chủ yếu của
bài giảng lịch sử là khôi phục bức tranh lịch sử và một trong những biện pháp chủ
yếu để có thể khôi phục bức tranh lịch sử là tạo biểu tượng lịch sử” [37, tr.12]. Với
những cách khác nhau (thông báo, miêu tả, tường thuật,…) GV giúp học sinh tái
hiện lại các biến cố, hiện thực lịch sử với đầy đủ tính cụ thể và gợi cảm của nó để
21
các em sống lại với quá khứ.
Như vậy, trong dạy học lịch sử, trước hết phải tạo biểu tượng lịch sử. Không tạo
biểu tượng lịch sử cụ thể thì HS sẽ không hiểu được lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 22: “ Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế
quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973)”,
khi nói đến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam , GV có thể sử dụng
đoạn trích dưới đây:
Từ ngày 7-2-1965 đến 15-1-1973, đế quốc Mĩ đã hai lần tiến đánh chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc (lần thứ
nhất :từ 7-2-1965 đến 1-11-1968 của chính quyền Giônxơn ; lần thứ hai: từ
6-4-1972 đến 15-1-1973 của chính quyền Nichxơn). Không quân Mĩ ném
xuống miền Bắc hàng triệu tấn bom. Bình quân 1 km
2
phải chịu đựng 6 tấn
bom, mỗi người dân miền Bắc phải chịu đựng 45,5 kg bom.
Đã gây thiệt hại:
Về người: giết và gây thương tật cho hơn 200.000 người (gần 80 000 người
chết), để lại hậu quả 70.000 trẻ em mồ côi.
Về kinh tế: tất cả các cơ sở kinh tế và quốc phòng đều bị đánh phá: 100 %
các nhà máy điện, 1500/1.600 công trình thủy lợi, hơn 1000 quãng đê xung
yếu ; 6 đường xe lửa với hầu hết cầu cống bị sập, hỏng, 66/70 nông trường
quốc doanh bị bom đạn địch bắn phá; trên 40000 trâu, bò bị giết hại; 6
thành phố lớn bị đánh phá trong đó có 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng,
Thái Nguyên bị phá hoại nặng nề, 28-30 thị xã (trong đó có 12 thị xã bị
phá hủy hoàn toàn), 96/116 thị trấn, 4000/5 788 xã miền Bắc (có hơn 300
xã bị phá hủy hoàn toàn), 350 bệnh viện (có 10 bệnh viện bị phá hủy hoàn
toàn), 1 500 bệnh xá, 1300 trường học, hàng trăm chùa chiền, nhà thờ và
di tích lịch sử, hơn 5 triệu m
2
nhà ở bằng ghạch ngói, hàng chục vạn hecta
ruộng vườn bị bom đạn cày xới, để lại hậu quả nặng nề cho nhân dân ta
phải khắc phục sau chiến tranh. [25, 158-159]
Sử dụng đoạn tài liệu thành văn trên giúp HS tái hiện lại các biến cố, hiện thực
lịch sử với đầy đủ tính cụ thể ,qua đó thấy rõ những tội ác và hậu quả mà đế quốc
Mĩ đã gây ra cho miền Bắc Việt Nam.
- Sử dụng tài liệu thành văn để làm sáng tỏ bản chất của sự kiện lịch sử
Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp, vì con người là một bộ phận không
thể tách rời của đối tượng nghiên cứu. Tài liệu thành văn sử dụng trong dạy học lịch
sử không chỉ dừng ở việc tạo biểu tượng, mà còn giúp làm sáng tỏ bản chất của sự
22
kiện lịch sử. Qua đó, giúp HS hình thành khái niệm, nêu quy luật, rút bài học lịch
sử. Theo Phạm Hồng Việt “làm sáng tỏ bản chất của lịch sử có nghĩa là có cái
nhìn đúng, đánh giá đúng, phân tích đúng sự kiện, nhân vật lịch sử. Làm sáng tỏ
bản chất của lịch sử cũng có ý nghĩa làm sáng tỏ các thuật ngữ, khái niệm, quy
luật, bài học lịch sử”. [37, tr.19]
Sử dụng tài liệu thành văn còn giúp HS hiểu sâu hơn bản chất và mối dây liên
hệ giữa các sự kiện, hiện tượng. Trên cơ sở giúp các em nhận thức rõ bản chất của
sự kiện hiện tượng lịch sử, nghĩa là giúp các em hiểu sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973)”, để
giúp HS hiểu rõ về âm mưu và thủ đoạn thâm độc của Mĩ trong việc thực hiện chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, GV có thể sử dụng tài liệu thành văn sau đây:
Chiến lược " Việt Nam hóa chiến tranh” dự tính sẽ tiến hành qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (từ năm 1969 đến tháng 6/1970): kiểm soát được những vùng đông
dân quan trọng nhất, quân ngụy được tăng cường để đủ sức đối phó với quân
giải phóng, rút được bộ phân quân Mỹ về nước, đồng thời đẩy mạnh chương
trình bình định nông thôn.
Giai đoạn 2 (từ tháng 6/1970 đến tháng 6/1971): kiểm soát hầu hết những
vùng đông dân, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước cùng với việc quân ngụy
đảm trách được phần lớn nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.
Giai đoạn 3 (từ tháng 6/1971 đến tháng 6/1972): cơ bản hoàn thành “Việt
Nam hóa chiến tranh”, phục vụ Níchxơn thắng cử trong cuộc bầu cử tổng
thống tháng 11/1972.
Biện pháp thực hiện:
Tập trung nỗ lực xây dựng quân ngụy thành một đội tay sai hiện đại, làm lực
lượng chiến đấu ở miền Nam, có thể thay thế được quân Mỹ trong chiến đấu
trên bộ, đồng thời tăng cường các phương tiện chiến tranh hủy diệt lớn. Trong
những năm (1969-1970) quân ngụy (chủ lực và địa phương) tăng từ 700000
lên đến 1100000 người, lực lượng nửa vũ trang tăng 1500000 lên 2000000
người. Cuối 1972 quân đội Sài Gòn có 1100 máy bay chiến đấu và gần 2000
xe tăng thiết giáp.
23
Song song với việc xây dựng ngụy quân, Mỹ coi trọng việc củng cố bộ máy tay
sai từ trung ương tới địa phương và tăng cường viện trợ cho ngụy quyền.
Với bộ máy bạo lực khổng lồ, Mỹ ngụy tập trung vào công cuộc bình định
nông thôn, coi đó là biện pháp then chốt của "Việt Nam hóa chiến tranh”,
quyết định sự sống còn của bản thân ngụy quyền.
Đánh vào hậu phương quốc tế của Việt Nam, mở rộng chiến tranh xâm
lược sang Lào và Campuchia, chia rẽ Liên Xô và Trung Quốc, hi vọng
dùng hai nước này tác động tiêu cực đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta
[10, tr. 221-222].
Sử dụng đoạn tài liệu thành văn trên giúp HS thấy rõ nội dung và hình thức
chiến lược chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ, thủ đoạn thâm
độc và xảo quyệt về quân sự, chính trị, ngoại giao như: “dùng ngưới Việt đánh
người Việt”, “người Đông Dương đánh người Đông Dương” giảm thương vong cho
lính Mĩ ở chiến trường, tránh được sự phản dối mạnh mẽ của nhân dân Mĩ…Mặt
khác, Mĩ tiến hành chiến tranh hủy diệt, phá hoại ở cả hai miền Nam, Bắc, nhằm
làm cho nhân dân ta phải khiếp sợ, khuất phục, chịu nhận những điều kiện do Mĩ
đưa ra, xâm phạm độc lập, chủ quyền dân tộc…
- Sử dụng tài liệu thành văn góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm,
đạo đức và giá trị thẩm mỹ cho học sinh
Dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, đó là một quá trình nhận thức
đặc thù, trong đó GV tổ chức, dẫn dắt HS một cách có mục đích, có kế hoạch để các
em nắm vững tri thức văn hóa, kỹ năng cơ bản, hình thành cơ sở thế giới quan, bồi
dưỡng tư tưởng, đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh.
Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức và giá trị thẩm mỹ cho học sinh. Bởi vì, khi biết nhận thức về hiện
thực quá khứ, các em không chỉ tri giác mà còn “rung động”, “xao xuyến”. Những
dấu hiệu tâm lý đó thể hiện sự “nhập thân” vào lịch sử, biểu thị thái độ của học sinh
đối với những gì mà các em nhận thức được. Trong học tập lịch sử HS sẽ được học
những câu chuyện bi thảm, những tình thế bất ngờ, những số phận khác thường.
“Trước mắt chúng ta hiện lên những con người có những ước mơ, những sự thành
đạt và có cả những tấm bi kịch nữa, tất cả mọi vật điều sẽ làm rung động trí tuệ và
24
tình cảm của con người. Điều này sẽ làm cho những câu chuyện về quá khứ có sức
rung cảm mạnh mẽ”. [15, tr.157].
Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Bởi vì “khả năng tác động đến tình cảm bắt nguồn từ một sự thật trong khoa học
lịch sử, rõ ràng có những yếu tố nghệ thuật”. [15, tr.151]
Qua bài học lịch sử, những hành động anh hùng của những người đấu tranh
quên mình vì sự nghiệp chính nghĩa và tiến bộ, vì hạnh phúc và hòa bình của nhân
dân lao động, có sức lôi cuốn đối với học sinh, gây cho các em cảm xúc lịch sử sâu
rộng. Trên cơ sở đó góp phần hình thành ở các em sự kính phục tự hào đối với các
vĩ nhân và trong những hoàn cảnh nhất định, nó thổi bùng lên những ngọn lửa nhiệt
tình cách mạng. Ngược lại học sinh có những thái độ căm ghét với những hành vi
hung bạo, độc ác của các nhân vật đại diện cho các giai cấp thống trị đi ngược lại
với quyền lợi của quần chúng lao động.
Như vậy, tài liệu về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử đã làm cho tình
cảm yêu ghét của các em được xác định rõ ràng không chỉ có khả năng tái tạo lịch
sử quá khứ mà còn có chức năng điều chỉnh hành động.
Ví dụ: Khi dạy bài 22, mục III.2.Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh của Mĩ", khi nói đến nội dung của sự
kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969, GV có thể sử dụng đoạn tư liệu sau
để có thể góp phần giáo dục cho học sinh lòng tiếc thương và kính yêu đối với Bác Hồ-
lãnh tụ vĩ đại của cách mạng của nhân dân Việt Nam, người cha già dân tộc:
Sáu giờ sáng ngày 4/9/1969 trên làn sóng của đài phát thanh tiếng nói Việt
Nam truyền đi bản thông báo đặc biệt của Bộ chính trị Trung ương Đảng
lao động Việt Nam, Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Ủy ban trung ương
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, báo tin cho đồng bào cả nước và nhân dân thế
giới: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ trần vào lúc 9 giờ 47 phút sáng ngày
3/9/1969.
Lễ viếng chủ tịch Hồ Chí Minh được cử hành trọng thể tại quảng trường
Ba Đình từ sáng ngày 6/9/1969. Từng đoàn người nối tiếp nhau tiến vào
hội trường viếng Người. Người yên nghỉ trong quan tài bằng kính, mặc bộ
quần áo giản dị quen thuộc, đôi dép cao su để dưới chân. Đứng trước thi
hài của Người, từ những em nhỏ đến cụ già, từ người dân đến các vị lãnh
25