Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở việt nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ xxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.46 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã bước sang thiên niên kỷ thứ 3, nhìn lại chặng đường
hơn 10 năm đổi mới và phát triển kinh tế của nước ta – một khoảng
thời gian không dài nhưng lại có một vai trò quan trọng, đó là một
bước ngoặt trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế. Những thành
tựu đã đạt được trong hơn 10 năm qua có một phần đóng góp rất lớn
của Ngân hàng nhà nước với công cụ kinh tế vĩ mô rất mạnh trong tay,
đó là chính sánh tiền tệ.
Công cụ kinh tế vĩ mô này đã được các nước tư bản phương tây áp
dụng từ khá lâu.Từ khi phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì công cụ này mới thực sự được sử dụng
theo đúng những chức năng của nó.Khoảng thời gian 10 năm là không
dài, do vậy bên cạnh những thành tựu, kết quả thu được thì việc điều
hành chính sách tiền tệ thực sự là còn rất nhiều bất cập. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến sự thiếu linh hoạt của nó. Nhưng vì khuôn khổ
thời gian có hạn và quan trọng hơn là lượng kiến thức thức tích lũy của
một sinh viên khóa ba như em còn hạn chế cho nên em chỉ gói gọn
phạm vi nghiên cứu của đề tài về các công cụ chính sách tiền tệ đi sâu
vào các công cụ mạnh thực sự có hiêu quả đã và đang được các nước
phát triển như Mỹ , Nhật sử dụng. Đó là: lãi suất ,tái chiết khấu,
công cụ Nghiệp vụ Thị trường mở Tuy nhiên trọng tâm vào các công
cụ này không có nghĩa là bỏ qua các công cụ khác vì chúng có mối
quan hệ qua lại bổ sung lẫn nhau tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ
được phát huy linh hoạt , hiệu quả.
Đề tài này của em có thể xem như một đề tài thời sự , đi sâu về mặt
thực tiễn giải pháp, vì vậy có thể làm tài liệu tham khảo của các bạn
sinh viên kinh tế muốn tiếp cận một cách trực quan hơn tới hoạt động
của hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống chính sách tiền tệ nói
riêng.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chương :
Chương 1: Lý luận chung về các công cụ chính sách tiền tệ


Chương 2: Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam trong thời gian tới
1
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Trước khi đi sâu nghiên cứu và xem xét lý luận về các công cụ
chính sách tiền tệ ( CSTT ), ta cần nắm sơ lược về CSTT của một quốc
gia, mục đích, mục tiêu và vị trí của nó trong hệ thống chính sách kinh
tế vĩ mô.
1.1 Khái quát về CSTT và các mục tiêu :
1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
1.1.1.1 Định nghĩa
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô
trong đó ngân hàng Trung ương, thông qua các công cụ của mình thực
hiện việc kiểm soát và đều tiết lượng tiền cung ứng ( hoặc lãi suất ),
căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu
về : giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.

1.1.1.2 Cơ sở của Chính sách tiền tệ
Mối liên hệ giữa sự biến động của tổng lượng tiền cung ứng (M )
với các biến số kinh tế vĩ mô: giá cả, sản lượng và công ăn việc làm có
thể được mô tả đưới dạng kênh đơn giản như sau :
M↑ → i↓ → I↑ →AD↑ →Y↑
C↑ P↑
Theo như định nghĩa chính sách tiền tệ , bằng các công cụ của
mình sẽ tác động vào M hoặc i ( lãi suất), từ đó qua các kênh dẫn
truyền sẽ tác động vào các biến số: Sản lượng (Y); giá cả(P); công ăn
việc làm. Như thế chỉ cần một tác động linh hoạt nhạy bén có tính
toán vào khối lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất là ngân hàng TW đã

có thể làm tăng hay giảm sản lượng, giá cả; tạo ra nhiều công ăn việc
làm hay không Tất nhiên là trong điều kiện giả định các yếu tố khác
là không thay đổi.
2
Tóm lại việc chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ ( xét cả về
khối lượng tiền và giá tiền tức là lãi suất) với một mục đích xác định,
một mục tiêu rõ ràng chính là bản chất của tiền tệ.
1.1.2 Hệ thống mục tiêu của Chính sách tiền tệ
Ta đã biết các biến số kinh tế vĩ mô: Sản lượng, giá cả, công ăn việc
làm kể trên là mục tiêu lâu dài, là các đích cuối cùng mà CSTT theo
đuổi. Nhưng đó là các chỉ tiêu mang tầm vĩ mô và dài hạn vì vậy để
định hướng trong những khoảng thời gian ngắn thì CSTT cần phải có
một hệ thống mục tiêu.
1.2.2.1 Mục tiêu cuối cùng
a- Khái niệm
Mục tiêu cuối cùng là mục tiêu mà CSTT cần phải đạt được
b- Các loại mục tiêu cuối cùng
b1: ổn định giá cả
Giữ cho mức giá cả không biến động lớn
b2: Tăng trưởng kinh tế
b3: Tạo nhiều công ăn việc làm
1.2.2.2 Mục tiêu trung gian
a- Khái niệm
Mục tiêu trung gian là mục tiêu mà ngân hàng nhà nước đưa ra
nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng và nó có quan hệ mật thiết với mục
tiêu cuối cùng
b- Các chỉ tiêu:
- Tổng lượng tiền: áp dụng khi nhu cầu về hàng hoá biến động mạnh
hơn nhu cầu tiền tệ
- Chỉ tiêu lãi suất: áp dụng trong trường hợp nhu cầu tiền tệ biến

động mạnh hơn nhu cầu hàng hoá
1.2.2.3 Mục tiêu hoạt động
a- Khái niệm
Mục tiêu hoạt động là mục tiêu chịu tác động trực tiếp của công cụ
CSTT
b- Các chỉ tiêu:
b1. Lãi suất liên ngân hàng
b2. Dự túi không vay: Hiện thời Việt nam đang sử dụng
3
b3. Dự túi đi vay
Như vậy là với việc xem xét nghiên cứu lý luận về CSTT ở trên đã
xác định được cơ sở của CSTT ; vị trí vai trò ; mục đích; mục tiêu và
nhiệm vụ của CSTT. Vấn đề tiếp theo là ta phải xem xét xem để làm
được những công việc này ( tức là để điều hành CSTT) thì Ngân hàng
nhà nước sẽ phải sử dụng những công cụ gì, sử dụng như thế nào; sử
dụng vào khi nào
1.2 Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ
Có thể sơ đồ hoá tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các
mục tiêu như sau:
Như vậy ta có thể phân loại các công cụ CSTT ra thành công cụ trực
tiếp và công cụ gián tiếp
1.2.1 Công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là tên gọi chung cho các công cụ chính sách tiền tệ
tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông hoặc các mức
lãi suất trung và dài hạn - tức là các mục tiêu trung gian
1.2.1.1 Hạn mức tín dụng
a- Khái niệm
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng Nhà nước quy
định các ngân hàng được phép cho vay.
b- cơ chế tác động

Việc ngân hàng nhà nước quy định một mức trần hạn mức tín dụng
sẽ khống chế khả năng cho vay nền kinh tế của các ngân hàng thương
mại sẽ không được phép cho khách hàng vay vượt quá số mà ngân
hàng Nhà nước quy định
4
ChÝnh s¸ch tiÒn tÖ
C«ng cô trùc tiÕp
C«ng cô gi¸n tiÕp
Môc tiªu trung gian
Môc tiªu cuèi cïng
Môc tiªu ho¹t ®éng
Khi đã khống chế kiểm soát được khả năng cho vay, ngân hàng Nhà
nước lúc này sẽ kiểm soát được khả năng tạo tiền của các Ngân hàng.
Từ đó sẽ khống chế được tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ tức là mức cung tiền
c- Ưu điểm- nhược điểm
* Ưu điểm:
Công cụ này khống chế gần như ngay lập tức và chặt chẽ đến lượng
tín dụng cung ứng từ đó khống chế tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ vì vậy
công cụ tỏ ra đặc biệt hữu dụng khi mà lạm phát ở mức cao.
Trong những điều kiện đặc biệt, ở những nước mà thị trường tiền tệ
chưa phát triển dẫn đến các công cụ dán tiếp kém hiệu quả thì công
cụ hạn mức tín dụng vẫn là một công cụ hữu hiệu
* Nhược điểm:
+ Hạn chế tín dụng cung ứng làm giảm lượng tiền cung ứng dẫn đến
lãi suất tăng
+ Hạn mức tín dụng quy định làm giảm khả năng cạnh tranh của các
Ngân hàng thương mại với nhau tạo ra môi trường cạnh tranh thiếu
lành mạnh
+ Căn cứ để đề ra hạn mức còn thiếu mà nhiều khi mang tính chất
hành chính; hạn mức đề ra không chính xác vì dựa vào tổng dư nợ lịch

sử, tạo ra sự không bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại với
Ngân hàng khác: Mức dư nợ lịch sử của các Ngân hàng quốc doanh là
lớn nhưng nợ xấu nhiều
+ Việc quy định hạn mức sẽ tác động đến hoạt động cho vay của các
Ngân hàng. Vì chỉ được cho vay một mức hạn chế nên họ sẽ lựa chọn
khách hàng không thích hợp ( rủi ro lựa chọn đối nghịch); chọn khách
hàng trả lãi cao hơn mặc dù có thể không an toàn.
+ Gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi vay vốn
d- Phạm vi ứng dụng:
- Lạm phát ở mức cao
- Đầu tư không nhạy cảm với lãi suất
- Ngân hàng nhà nước không kiểm soát được lượng vốn khả dụng
của ngân hàng thương mại
1.2.1.2 Ên định lãi suất huy động và cho vay
a- Khái niệm
5
Hiểu một cách đơn giản, việc Ên định lãi suất huy động và cho vay
là Ngân hàng Nhà nước đưa ra một mức lãi suất cố định để các Ngân
hàng trung gian tiến hành hoạt động đi vay và cho vay( 2 mức lãi suất)
b- Cơ chế tác động
Việc chủ động Ên định lãi suất huy động và cho vay giúp cho Ngân
hàng Nhà nước kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua hệ số nhân
tiền. Ví dụ: Muốn mở rộng khối lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà
nước sẽ quy định lãi suát huy động thấp Từ đó Ngân hàng Nhà nước
kiểm soát, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ
1.2.1.3 Tỷ giá hối đoái
* Cơ chế tác động: Thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối, sẽ làm tăng hoặc giảm lượng nội tệ trong nền kinh tế
tức là tác động đến mức cung ứng tiền
Tuỳ theo loại hình áp dụng chính sách tỷ giá như : Thả nổi, Thả nổi

có quản lý mà sự tác động có sự khác nhau
1.2.2 Các công cụ gián tiếp
Nhóm công cụ này sẽ tác động trực tiếp vào các mục tiêu hoạt động
của chính sách tiền tệ; tác động này lan truyền đến các mục tiêu trung
gian: Lãi suất, khối tiền cung ứng
1.2.2.1 Dự trữ bắt buộc
a- Khái niệm:
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các Ngân hàng thương mại buộc phải
duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại Ngân hàng
Trung ương - Ngân hàng nhà nước ( NHNN)
b- Cơ chế tác động:
- Tăng dự trữ bắt buộc (Rd↑ )  Re↓  dẫn đến làm giảm khả năng
cho vay, khả năng tạo tiền  giảm tiền cung ứng Ms
- ↑Rd  ↓ hệ số tạo tiền  ↓ khả năng cho vay  Ms↓
- ↑Rd  Re↓  ↓ cung vốn ( trên thị trường liên ngân hàng ) làm
tăng lãi suất liên Ngân hàng  ↑ lãi suất cho vay  ↓ khả năng cho
vay ( do chi phí đầu vào tăng )
c- Ưu - nhược điểm
6
- Do tác động mạnh vào hệ số tạo tiền ( m
1
=
Re
1
++
+
Rdc
c
) nên có thể
nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ một cách nhanh chóng và khá chính xác,

nó là công cụ đầy quyền lực của NHNN
- Công cụ này được NHNN áp dụng cho cho mọi chủ thể hoạt động
Ngân hàng nên rất bình đẳng
- Công cụ này là một trong những tiền đề để thiết lập mối quan hệ
vay chiết khấu giữa các Ngân hàng với Ngân hàng nhà nước
* Nhược điểm:
Do tác động của công cụ này rất mạnh và đột ngột nên sẽ gây khó
khăn trong việc quản lý vốn, tăng chi phí, giảm lợi nhuận của các
Ngân hàng ( Nếu không dự tính tốt có thể các Ngân hàng phải đi vay
để bù vào dự trữ bắt buộc)
1.2.2.2 Chính sách tái chiết khấu
a- Khái niệm
Chính sách tái chiết khấu là các quy định và điều kiện cho vay của
NHNN đối với các Ngân hàng thương mại
Đó là :
- Nguyên tắc cho vay
- Danh mục và chất lượng tài sản thế chấp
- Hạn mức tái chiết khấu( giới hạn tối đa được phép cho vay)
b- Cơ chế tác động
- Về mặt lượng: Công cụ chính sách tái chiết khấu tác động đến
lượng dự trữ của Ngân hàng thương mại bằng cả công cụ lãi suất và
phí lãi suất
+↑ hạn mức tái chiết khấu  khuyến khích các Ngân hàng thương
mại vay ↑ dự trữ của hệ thống  ↑ khả năng cho vay, ↑ khả năng
tạo tiền Ms↑
- ↓ lãi suất chiết khấu  khuyến khích các Ngân hàng vay NHNN
 ↑ dự trữ  ↑ khả năng cho vay, ↑ khả năng tạo tiền Ms ↑  Tác
động đến giá ( hay lãi suất) cho vay của các Ngân hàng thương mại
7
+ ↑ hạn mức hoặc nới lỏng điều kiện phi lãi suất  ↑ dự trữ  ↑

cung vốn trên thị trường liên Ngân hàng  ↑ lãi suất liên Ngân
hàng ↓ lãi suất cho vay, mở rộng cho vay  Ms ↑
+ ↓Lãi suất tái chiết khấu  ↓ chi phí đầu vào của vốn ( Các Ngân
hàng thương mại)  ↓ lãi suất cho vay
1.2.2.3 Nghiệp vụ thị trường mở
a- Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở ( NVTTM hay OMO) là các hoạt động của
Ngân hàng nhà nước trên thị trường mở thông qua việc mua bán các
chứng khoán
b- Cơ chế tác động
- Mua( Bán) chứng khoán  tăng ( giảm) dự trữ của các Ngân hàng
thương mại  tăng (giảm) khả năng tạo tiền  Ms↑(giảm)
- Vốn khả dụng của các Ngân hàng tăng ( giảm) sẽ làm tăng ( giảm)
cung vốn trên thị trường liên ngân hàng  lãi suất trên thị trường này
giảm ( tăng)  tăng ( giảm) giá chứng khoán ngắn hạn  ↓ (tăng)
mức sinh lời chứng khoán ngắn hạn  ↓ (tăng) mức sinh lời chứng
khoán dài hạn  ↓ (tăng) cầu chứng khoán  khả năng tiêu dùng sẽ ↑
( giảm)  tăng sản lượng, giá cả hoặc sẽ làm ↓ chi phí vay vốn  ↑
đầu tư
- NHNN bán chứng khoán  ↑ cung chứng khoán này trên thị
trường  ↓ giảm gía chứng khoán  lãi suất chứng khoán tăng ( hoàn
vốn)  ↑ cầu về chứng khoán nói trên  người tiêu dùng có xu hướng
rút tiền mua chứng khoán
Để ngăn chặn tình trạng này, ngân hàng sẽ tăng lãi suất huy động 
↑ lãi suất cho vay
c- Ưu - nhược điểm
Đây là một công cụ rất mạnh của NHNN, giúp NHNN chủ động
trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng
- Công cô NVTTM rất linh hoạt, có thể sử dụng vào bất cứ thời
điểm nào mà không sợ đổ vỡ như công cụ dự trữ bắt buộc do

hoàn toàn cơ chế thị trường tác động
- - Có thể làm thay đổi cung tiền một cách chính xác
Đây là một công cụ mạnh nhưng để phát huy tác dụng cần phải có:
8
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp phát triển
+ Trình độ dự báo và quản lý vốn khả dụng của các ngân hàng phải
tốt
+ Số lượng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường đủ lớn
+ Hàng hóa trên thị trường đa dạng phong phó
Như vậy ta đã sơ qua về chính sách tiền tệ và các công cụ của nó.
Vậy thì trong thời gian vừa qua , những công cụ nào được sử dụng và
hiệu quả ra sao ở Việt nam . Vì vậy tiếp theo ta sẽ xem xét đánh gia
thực trạng hoạt động của các công cụ đó.
Chương 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ
Trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ XXI, NHNN Việt nam
thực tế đã sử dụng một loạt các công cụ chính sách tiền tệ như: lãi
suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở. Về cơ bản NHNN đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
trong điều tiết lượng tiền cung ứng ; ổn định giá cả lãi suất ; luôn giữ
lạm phát chấp nhận được( một con số ). Đặc biệt là vượt qua cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Tuy vậy trong điều hành
một số công cụ, NHNN còn tỏ ra cứng nhắc, thiếu linh hoạt cho nên
chưa phát huy hết hiệu quả tối đa của công cụ. Ví dụ: Công cụ nghiệp
vụ thị trường mở mới đưa vào sử dụng từ 01/2000 bước đầu vẫn còn
nghèo nàn, chưa sôi động
Để hiểu rõ hơn, ta sẽ phân tích thực trạng trong hoạt động của từng
công cụ sử dụng
2.1 Công cụ hạn mức tín dụng

Từ tháng 06/1994, trong điều kiện chưa áp dụng được các công cụ
dán tiếp, NHNN Việt nam đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như
là công cụ chính sách tìên tệ. Đồng thời trong hoàn cảnh bấy giờ với
9
mức lạm phát nằm từ 1% đến 20% thì để hạn chế công cụ hạn mức là
tạm sử dụng được. Tuy nhiên NHNN thời kỳ này không chủ động
trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng do phải đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu của Chính phủ , kênh tín dụng chưa hiệu quả làm cung tiền tệ
tăng hoặc giảm không dự báo được.
Tuy vậy bước đầu trong thời kỳ đó, hạn mức này đã khống chế
được mức tăng chi nợ ngắn hạn là 24% so với năm 1993. Đến 1995
hạn chế của công cụ này bộc lộ rõ nét khi mà mức tăng dư nợ tín dụng
thực tế vượt hạn mức 0,66 lần. Đến 1997 – 1998 thì ngược lại hạn mức
lại thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn
mức tỏ ra không có hiệu quả do phải có những điều kiện đặc biệt mới
phát huy tác dụng của nó. Mặt khác công cụ mang nhiều tính chất
hành chính mệnh lệnh và thiếu linh hoạt, đặc biệt là thiếu căn cứ trong
việc xác định hạn mức tín dụng và sự lỏng lẻo của các chế tài
2.2 Công cụ lãi suất
Do hạn chế về mặt kiến thức, thời gian cũng như tư liệu, nên em chỉ
xin nêu và đánh giá thực trạng công cụ lãi suất một vài năm gần đây
đặc biệt là những mốc quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong điều
hành lãi suất.
Từ năm 1991, hệ thống ngân hàng chuyển sang mô hình 2 cấp;
trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ NHNN sử dụng và
điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp mục tiêu ngắn hạn, dài
hạn
+ Từ 1991 đến 06/1992 NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi
và cho vay, mục tiêu chống lạm phát
+ 06/1992 đến 1995 thực hiện cơ chế lãi suất thực dương tức là quy

định lãi suất huy động và cho vay với mục tiêu là kiềm chế lạm phát,
tăng trưởng kinh tế.
+ 1996 đến 07/2000 thực hiện trần lãi suất cho vay có phân biệt khu
vực áp dụng : Thành thị, nông thôn
+ 08/2000 đến 05/2002 thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản. Đây là
bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do
hóa lãi suất. Việc chuyển đổi này thông qua quyết định 241/QĐ –
10
NHNN1 của thống đốc NHNN. Theo luật NHNN Việt nam “ Lãi suất
cơ bản là lãi suất do NHNN Việt nam công bố làm cơ sở cho các tổ
chức tín dụng ổn định lãi suất kinh doanh”
Theo đó trên thực tế, hàng tháng NHNN Việt nam công bố lãi suất
cơ bản , các tổ chức tín dụng căn cứ vào đó sẽ xác định lãi suất cho
vay các khách hàng không vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ do
Thống đốc NHNN Việt nam quy định cho từng thời kỳ và hiện nay
biên độ đó là 0,3% / tháng với lãi suất cho vay ngắn hạn , cộng 0,5%
/tháng với lãi suất cho vay dài hạn.
Bảng 1:
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT CƠ BẢN VÀ LÃI SUẤT CHO VAY
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
(01/2001 – 05/2002)
Tháng Lãi suất cơ bản
Lãi suất cho vay bình
quân TT thành thị
Lãi suất cho vay bình
quân TT nông thôn
01/2001 0,75 0,775 1,10
02 0,75 0,775 1,10
03 0,725 0,75 1,10
04 0,7 0,75 1,05

05 0,65 0,75 1,05
06 0,65 0,75 1,05
07 0,65 0,75 1,05
08 0,65 0,75 1,05
09 0,65 0,75 1,05
10 0,6 0,75 1,00
11 0,6 0,725 0,9
12 0,6 0,725 0,9
11
01/2002 0,6 0,725 0,9
02 0,6 0,725 0,9
03 0,6 0,725 0,9
04 0,6 0,725 0,9
05 0,6 0,725 0,9
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng ( 07/2002)
Như vậy nhìn vào bảng diễn biến lãi suất trên ta thấy lãi suất cơ bản
liên tục được cắt giảm tới 04 lần từ tháng 01/2001 đến 05/2002. Điều
này là phù hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng mà NHNN Việt nam
đang theo đuổi. Tuy nhiên việc cắt giảm là thận trọng và cắt giảm từng
bước nhỏ một. Với một biên độ khá rộng là +0,3% ( ngắn hạn) ; +
0,5% ( dài hạn) ta thấy lãi suất bình quân trên thị trường thành thị là đã
đúng hướng . Tuy nhiên lãi suất huy động trên thị trường nông thôn
còn khá cao, kịch biên độ. Đó là do cạnh tranh ở khu vực nông thôn
còn yếu, thế chấp trên thị trường này thường Ýt hoặc không có dẫn tới
các ngân hàng lớn dễ bỏ qua thị trường này
+ Giai đoạn từ 01/06/2002 đến nay với việc ra đời lãi suất thỏa
thuận NHNN đã thực sự áp dụng “ tù do hóa lãi suất” hay “ lãi suất thị
trường” . Theo đó các tổ chức tín dụng và người đi vay trực tiếp thỏa
thuận với nhau về mức lãi suất cho vay . Tuy nhiên NHNN Việt nam
cũng vẫn sẽ công bố lãi suất cho vay cơ bản có tham khảo lãi suất cho

vay của 04 ngân hàng thương mại lớn nhất . Hiện nay mức này là:
0,62%/tháng
+ Riêng với lãi suất cho vay bằng đồng đô la Mỹ( USD) ngày
29/05/2001, Thống đốc NHNN Việt nam đã ra quyết định số 178 cho
phép các tổ chức tín dụng ổn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên
cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại
tệ ở trong nước , bãi bỏ cơ chế cho vay bằng USD tối đa bằng lãi suất
SIBCR+ biên độ được qui định bởi Thống đốc NHNN
2.3 Tỷ giá hối đoái
Có thể kể qua các giai đoạn như sau:
- Trước 03/1989
- Từ 03/1989 - 08/1991
12
- Từ 10/1994 - 02/1999
- Từ 02/1999 - 07/2002
- Từ 07/2002 đến nay
Nếu xét về bản chất thì giai đoạn này cũng giống như các giai đoạn
trước, tuy nhiên điểm khác biệt là ở chỗ biên độ dao động với tỷ giá
bình quân trên thị trường liên ngân hàng giảm từ 0,7% xuống +0,1%
và đến nay là + 0,25%. Như vậy tính từ 02/1999 NHNN Việt nam đã
nới rộng biên độ giao dịch kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng
thương mại và các tổ chức được phép khác từ mức 0,1% lên mức
0,25%. Đồng thời chuyển từ việc khống chế sàn dưới của biên độ giao
dịch trước đây sang việc quy định mức khống chế là - 0,25% so với tỷ
giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao
dịch gần nhất trước đó do NHNN công bố
2.4 Dự trữ bắt buộc
- Giai đoạn từ tháng 03/1991 - 03/1995
- Từ 09/1995 đến nay
Từ khi ban hành quyết định 260/QĐ NHNN1 ngày 19/09/1995 mức

dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả tiền gửi không phân biệt
tiền gửi có kỳ hạn hay không có kỳ hạn dưới 12 tháng
So sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm
phát và lãi suất ta thấy chúng có quan hệ tỉ lệ thuận với nhau. Điều này
rất dễ thấy trong diễn biến của tỉ lệ dự trữ bắt buộc năm 1999 - năm
chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu; lãi suất trần giảm 4 lần thì tỉ lệ
dự trữ bắt buộc cũng giảm 3 lần. Cụ thể hơn trong 6 tháng đầu năm
2001, NHNN có quyết định giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng VNĐ từ
5% xuống còn 3% ( riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn hạ từ 3% xuống 2% ) với ngoại tệ giảm từ 15% xuống còn 10%
Mặc dù quyết định được đưa ra với mục đích kích cầu nhưng phản
ứng trên thị trường tiền tệ lại ngược lại. Theo lời một giám đốc ngân
hàng thương mại quốc doanh: " Về nguyên tắc khi dự trữ bắt buộc
giảm thì tổng phương tiện thanh toán phải có điều kiện tăng lên Tuy
nhiên trên thực tế trong 6 tháng đầu năm, tổng phương tiện thanh toán
lại tăng chậm hơn so với mức tăng cùng kỳ năm trước (năm 2000). Có
thể lý giải vấn đề này là do mức tăng trưởng tín dụng và tổng huy động
13
vốn đều có mức tăng chậm hơn so với cùng kỳ năm ngoái ( năm 2001
so với năm 2000) trong khi mức cung tiền đạt thấp.
2.5 Chính sách tái chiết khấu
Trong giai đoạn trước tháng 03/1997, NHNN quy định lãi suất tái
cấp vốn( tái chiết khấu) theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái
cấp vốn; chính vì vậy mà lãi suất tái chiết khấu mang tính bị động , lãi
suất này còn mang tính phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ 03/1997
trở đi, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái chiết khấu
đã được xác định một cách độc lập. sau mỗi lần thay đổi lãi suất trần,
NHNN còng thay đổi mức lãi suất tái cấp vốn tương ứng. để đáp ứng
chính sách tiền tệ mở rộng phục vụ mục đích kích cầu nền kinh tế qua
các năm 1999,2000 và 2001. Lãi suất tái chiết khấu liên tục được điều

chỉnh giảm khuyến khích các ngân hàng thương mại vay vốn làm tăng
vốn khả dụng, dự trữ; tăng năng lực cho vay tức là tăng cung ứng tiền
ra nền kinh tế.
2.6 Nghiệp vụ thị trường mở
Trên thực tế , hoạt động thị trường mở ở nước ta được thực hiện
chính thức vào 12/07/2000; Thành phần tham gia có các ngân hàng; tổ
chức tín dụng với NHNN.
Trong thời gian qua, số lượng thành viên tham gia còn quá Ýt.
Trong sè 20 thành viên tham gia thì chủ yếu mới là 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh vì thực tế họ nắm giữ tới 70% lượng tín phiếu
kho bạc; Tín phiếu ngân hàng nhà nước mà ta biét rằng đây là 2 hàng
hoá chiếm gần như tuyệt đối tỉ trọng hàng hoá trên thị trường. Điều
này gây ra tình trạng chảy vốn từ các ngân hàng cổ phần nhỏ quy mô
không lớn sang các ngân hàng quốc doanh gây nên những cơn sốt tiền
cung ứng giả tạo gây khó khăn trong dự báo lượng tiền bơm ra của
NHNN.
Lượng hàng hoá trên thị trường còn quá Ýt ỏi; chỉ khoảng 4.000 tỷ
giá trị trái phiếu chính phủ và 400 tỷ giá trị tín phiéu ngân hàng.
Về các phiên giao dịch thì từng thời kỳ mà số lượng các phiên , mật
độ các phiên có sự thay đổi. Từ khi bắt đầu ( 12/07/2000) đến
14
31/12/2000, thì cứ 10 ngày NHNN lại tiến hành 01 phiên. Trong tháng
8/2000 do lượng vốn khả dụng của cả hệ thống là dư thừa nên NHNN
bán ra lượng tín phiếu là 550 tỷ đồng Từ 01/01/2001 giao dịch định
kỳ 1 lần/ tuần. Đến 15/02/2001 lượng vốn khả dụng thiếu hụt do nhu
cầu tiền mặt tăng lên NHNN tiếp tục mua các giấy tờ có gía; Từ
21/02/2001 đến 14/03/2001 NHNN lại bán giấy tờ có giá.
Gần đây nhất trong 03 tháng đầu năm nay ( 2001) NHNN đã phải
cung ứng hàng ngàn tỷ đồng qua các nghiệp vụ khác nhau trong khi cả
06 tháng đầu năm 2001 kế hoạch cung ứng tiền bằng không. Cho đến

12/04/2001 NHNN đã tổ chức được 11 phiên giao dịch thị trường mở (
kể từ 01/01/2002) trong đó có 08 phiên NHNN mua lại các tín phiếu
kho bạc còn lại thời hạn ngắn, thông qua đó cung ứng 2.279 tỷ đồng
cho các NHTM. Phiên giao dịch vào ngày 14/04/2002 NHNN đã cung
ứng 500 tỷ đồng. Trong đó Ngân hàng đầu tư và phát triển ( 145,98 tỷ
đồng); Ngân hàng công thương ( 89,42 tỷ đồng); Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn ( 246,6 tỷ đồng) với lãi suất 4,9%/năm.
Phương thức kinh doanh hiện đang áp dụng trên thị trường mở là
phương thức đấu thầu lãi suất ( hiện giống với đấu thầu tín phiếu kho
bạc)
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Những căn cứ chủ yếu trong việc đề ra các giải pháp
3.1.1 Những định hướng lớn của Đảng và Chính phủ
Nghị quyết đại hội IX của Đảng đã khẳng định:' Xây dựng nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa"
Mới đây, trong chương trình định hướng hoạt động của Chính phủ
nhiệm kỳ 2002 - 2007 đã khẳng định và cam kết hoàn thành mảng
nhiệm vụ kinh tế, đó là : Nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức mạnh
cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó riêng về lĩnh vực Tài chính Ngân
hàng " Bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, làm lành mạnh nền tài chính
15
quốc gia, cả tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp, dân cư; đổi
mới và nâng cao chất lượng hoạt động tiền tệ, tín dụng. Những việc
quan trọng và cấp bách là: Tiếp tục đỏi mới chính sách tài chính, thực
hiện chương trình cải cách chế độ thuế đi đôi với chấn chỉnh tổ chức
và cải tién phương thức thu thuế; quản lý chặt chẽ chi tiêu nhà nước,

phát triển thị trường vốn, đổi mới cơ chế tín dụng, giải quyết nợ tồn
đọng , giảm tỷ lệ nợ quá hạn; nâng cao năng lực kiểm soát lạm phát và
thiếu phát; xử lý tỷ giá và lãi suất phù hợp với cơ chế thị trường, giảm
sử dụng tiền mặt trong lưu thông tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của
Việt nam đồng"
3.1.2 Những quy định pháp lý với NHNN khi sử dụng công cụ
chính sách tiền tệ
3.1.2.1 Thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia
Điều này được quy định tại điểm 3 điều 1 của luật NHNN được
Quốc hội thông qua 12/1997 như sau: " Hoạt động NHNN nhằm ổn
định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng,
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng XHCN"
Như vậy mục tiêu đầu tiên đặt ra với hoạt động của NHNN là ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia.
3.1.2.2 Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để chính phủ
xem xét, trình quốc hội quyết địnhvà tổ chức thực hiện chính sách
này
Theo quy định tại điểm 1 điều 5 luật NHNN, NHNN chủ động xây
dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền
bổ sung cho lưu thông hàng năm thông qua Chính phủ. Chính phủ sẽ
quyết định lượng tiền cung ứng hàng năm với tổng giá trị bao nhiêu và
sử dụng vào những mục đích nào.
3.1.3 Định hướng cơ bản chính sách tiền tệ thời gian tới
Bảng 2:
Dự báo các chỉ tiêu kinh tế - tài chính
Đơn vị : % ( trừ chi tiêu đã chỉ rõ)
Dự báo
(Đơn vị : % trừ chi tiêu đã chỉ rõ)
16
2000(a) 2001(b) 2002(c) 2003(c)

Tốc độ phát triển GDP thực tế 6,8 6,8 6,4
Mức lạm phát giá tiêu dùng trung bình - 1,7 - 0,4(a) 2,8
Mức lạm phát giá tiêu dùng cuối năm - 0,6 0,5(a) 3,5
Lãi suất cho vay 10,6 9,3 9,0
Chi tiêu của chính phủ( % GDP) - 4.3 - 5,1 - 6,1
Tỷ giá VNĐ/USD trung bình 14.548 14.643 14.658
Tỷ giá VNĐ/USD cuối kỳ 14.545 14.845 15.003
M1 ( cuối kỳ - Tỷ đồng) 90.984 94.397 100.038
% Thay đỏi theo năm 27.6 26,9 28,1
M2 ( cuối kỳ - Tỷ đồng) 216.186 226.933 235.254
% Thay đỏi theo năm 34,5 34,8 31
Ghi chó: - (a): Thực tế
- (b): Ước đoán của tổ chức kinh tế
- (c) : Dự đoán của tổ chức kinh tế
(Nguồn: www.vnn.vn/ Kinh tế)
Thông qua bảng dự báo các chỉ tiêu ở trên ta có thể đánh giá tổng
quát thời gian tới NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung vẫn sẽ áp
dụng các chính sách nới lỏng tiền tệ. điều này được thể hiện qua sự
tăng liên tục của lượng tiền M1 từ 90.984 tỷ đồng lên 94.397 tỷ và tới
là 100.038 tỷ. Lượng tiền M2 còn tăng mạnh hơn đều trên 30% một
năm. ( từ 34,5%/năm rồi 34,8%/năm).
Xu hướng là đồng VNĐ càng mất giá so với USD, và theo một số
quan điểm, nó đang tiêu đúng về giá trị thực của nó, điều này sẽ có có
lợi cho xuất khẩu và các biện pháp về tỷ giá của NHNN
Mức lạm phát sẽ tăng dần sau một thời kỳ giảm phát . điều này chỉ
xảy ra khi một phần có sự bơm tiêu ra của NHNN; Xét cho cùng một
mức lạm phát vừa phải lẽ tạo ra động lực cho nền kinh tế. Lãi suất vẫn
sẽ giữ ổn định không có biến động lớn.
3.2 Một số kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các công cụ chính sách tiền tệ

17
Căn cứ vào các định hướng lớn của chính phủ , của ngành Ngân
hàng ; những dự báo kinh tế trong thời gian tới, em xin đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị sau:
3.2.1 Những kiến nghị
3.2.1.1 Đối với Chính phủ
- Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung
ứng cho lưu thông tiền tệ
Hàng năm Chính phủ duyệt lượng tiền bổ sung cho lưu thông ; Ví
dụ: theo những ước đoán và dự báo về M1 ở bảng phần trên. Tuy
nhiên việc làm này phải xuất phát thực sự từ nhu cầu phát triển kinh tế
của điều hành CSTT chứ không phải chỉ xuất phát từ nhu cầu chi tiêu
của Chính phủ
- Hạn chế sự can thiệp quá sâu đối với NHNN của các cơ quan, tổ
chức trong hoạt động và thực hiện chính sách tiền tệ
NHNN phải được chủ động thực sự, chịu trách nhiệm trước Chính
phủ, Quốc hội. Nếu có cơ quan hay tổ chức nào tác động vào cũng sẽ
làm sai lệch các tác động, hiệu quả của chính sách tiền tệ
Một ví dụ cụ thể là gần đây ngày 02/08, Bộ Tài chính đã họp báo
giới thiệu quyết định 453/QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ về việc
phát hành trái phiếu đặc biệt( TPĐB ) của chính phủ để cấp bổ sung
điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh từ 2002 - 2004
( hiện nay vốn điều lệ các ngân hàng này chỉ đạt 2,8 - 3% trên tổng tài
sản nợ mà chuẩn an toàn quốc tế là 8%) Việc làm này được xem là khá
đúng đắn giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và Bộ tài chính -
Chính phủ. Chính phủ chỉ phát hành TPĐB để tăng vốn điều lệ cho các
ngân hàng từ đó tăng khả năng huy động cho vay. đây là nguồn vốn
khả dụng của các ngân hàng nhưng Chính phủ không bán ra tiền mặt
để gây ra sự tăng trưởng quá nóng của tín dụng trong lưu thông( Tổng
giá trị của các TPĐB là 7.840 tỷ VNĐ, thời hạn là 20 năm, lãi suất cố

định 3,3%/năm)
3.2.1.2 Đối với ngân hàng nhà nước
18
- Cần thực hiện mạnh dạn và dức khoát hơn nữa trong việc chuyển
đổi điều hành các công cụ từ trực tiếp sang gián tiếp vì những ưu điểm
nổi bật của các công cụ này
- Xuất phát từ thực trạng hiện nay của thị trường nội tệ liên ngân
hàng , việc sớm huỷ bỏ các văn bản có liên quan được ban hành trước
2 pháp lệnh Ngân hàng ra đời mà nay không còn phù hợp với tình hình
thực tế sẽ gây chồng chéo ; không chủ động trong việc điều hành chính
sách tiền tệ
- Tăng cường thực hiện các biện pháp thu thập thống kê, dự đoán để
nắm bắt thông tin kịp thời đầy đủ về các hoạt động liên ngân hàng;
tình hình vốn khả dụng của các ngân hàng nhất là khi đẩy mạnh việc
sử dụng các công cụ dán tiếp . Thực tế hiện giờ khả năng dự báo của ta
cả về phía NHNN lẫn các ngân hàng thương mại rất yếu kém, dẫn tới
điều hành "mò", có ngân hàng tuần trước còn phải SWAPS ( hoán đổi
ngoại tệ) với NHNN với lãi suất lên tới 14% /năm thì tuần sau đã lại di
đấu thầu trái phiếu kho bạc với lãi suất chỉ có 5,4%/năm.
- NHNN cần sớm hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cần thiết cho
hoạt động thị trường nhất là các quy định về chứng khoán; tạo điều
kiện cho pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thực sự( được ban hành
từ 01/07/2000) để tạo ra nhiều hàng hoá hơn nữa trong thị trường thứ
cấp, từ đó hoạt động thị trường mở có hiệu quả.
Tóm lại là cần học hỏi kinh nghiệm của một số nước có thị trường
tiền tệ phát triển từ đó mà tạo điều kiện cho sự hoạt động đa dạng của
thị trường này ( hợp đồng mua lại CDs )
3.2.2 Những giải pháp cụ thể cho từng công cụ chính sách tiền tệ
3.2.2.1 Công cụ lãi suất và tỷ giá
Việc điều hành lãi suất cần tiếp tục gắn với điều hành tỷ giá

a- Đối với cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận
- Làm tốt việc giải thích tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng để mọi người dân mà đặc biệt là các tổ chức kinh tế hiểu sự
cần thiết và tính ưu việt của nó, từ đó mà vay được vốn với lãi suất
phù hợp. Cần phải lưu ý đến khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn
thiếu vốn nhưng tài sản thế chấp nhiều khi không được chấp nhận ; lãi
19
suất thoả thuận chỉ nên được áp dụng cho các hoạt động tín dụng
thương mại mà không vận dụng cho người nghèo, còn các loại tín
dụng khác Chính phủ quy định.
- Chủ động dự báo chiều hướng biến động của lãi suất , các tình
huống có thể xảy ra và áp dụng các biện pháp thích hợp để định
hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ
mô. Điều 2 của quyết định 456 có ghi” NHNN Việt nam tiếp tục công
bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo và định hướng lãi suất thị
trường phù hợp với quy định của luật NHNN, đồng thời chủ động áp
dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường,
đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ”
- Quy định này có ý nghĩa rằng: NHNN sẽ không để lãi suất thả nổi
hoàn toàn mà luôn theo dõi để điều chỉnh phù hợp bằng các cách
riêng của mình. Và để đề ra chóng NHNN cần:
- Củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ để có quy mô đủ lớn, phản
ánh đúng tình hình cung cầu vốn thị trường từ đó có được thông tin
chính xác tác động kịp thời tới thị trường tiền tệ
b- Điều hành tỷ giá:
Có thể xem xét gắn tỷ giá chính thức với rổ tiền tệ( gần USD và các
đồng tiền khác của các bạn hàng lớn như: Nhật, EU…) và tiếp tục
thực hiện các giảI pháp phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định

Trong thời gian gần đây xuất hiện một xu hướng là đồng nội tệ rất
khan hiếm mặc dù lãi suất huy động của đồng nội tệ đã tăng lên liên
tục. Lý giảI cho hiện tượng này có nhiều cách khác nhau nhưng một
trong những nguyên nhân đó là do tỷ giá VNĐ/USD tăng lên liên tục
với mức độ biến động cao hơn mức chênh lệch lãi suất nội tệ và ngoại
tệ ( hiện là ≈ trên dưới 4% ) đã làm cho thu nhập kỳ vọng của tiền gửi
VNĐ và tạo nên tâm lý mong đợi tỷ giá tăng hơn trong tương lai. Rõ
ràng là với tình trạng như vậy thì mức độ " đô la hoá" nền kinh tế của
Việt nam sẽ ngày một sâu sắc và sẽ " rất nguy hiểm" cho việc điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN , lúc đó các công cụ của NHNN có
thể sẽ mất đi các tác dụng to lớn của nó.
20
Chấp nhận cơ chế điều hành tỷ giá theo tỷ giá giao dịch bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt nam với đồng đô
la Mỹ với biên độ dao động 0,25% cùng với lãi suất ngoại tệ thả nổi
thì mức độ linh hoạt của lãi suất nội tệ phải được nới lỏng hơn nữa
nhằm cân bằng mức sinh lời dự tính của 2 loại tiền gửi. Hiện nay với
lãi suất thoả thuận thì kiến giải trên đã được thực hiện nhưng lại xuất
hiện một nguy cơ là khả năng kiểm soát của NHNN bị triệt tiêu. Rõ
ràng điều này sẽ không xảy ra Ýt nhất là theo cam kết từ phía NHNN
theo điều 2 quyết định 546 đã nói ở trên
Như vậy việc điều hành tỷ giá của NHNN đã dần theo kịp , theo sát
với diễn biến thị trường. Điều này là thực sự cần thiết nhưng cũng cần
chú ý những " tác động chủ quan" từ phía Chính phủ có thể gây ra một
" sự cố không hay " nào đó
3.2.2.2 Công cụ dự trữ bắt buộc
Như đã phân tích ở phần lý luận, đây là một công cụ có tác động rất
mạnh và bình đẳng đều mọi chủ thể tổ chức tín dụng ngân hàng. Chính
vì vậy khi sử dụng công cụ này phải lưu ý lường trước những kết quả,
phạm vi chi phí mà mỗi ngân hàng phải gánh chịu vì nếu tính toán

sai lầm có thể sẽ gây thiệt hại cho toàn bộ hệ thống. Cũng như những
biện pháp áp dụng đối với các công cụ khác , công cụ này đòi hỏi phải
luôn theo sát diễn biến thị trường, trình độ dự báo, vốn khả dụng của
các ngân hàng phải rất tốt
Trước mắt một số nội dung cần được sửa đổi điều chỉnh là việc xem
xét trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc ( tại NHNN), mở rộng diện
tiền gửi phải thực hiện dự trữ bắt buộc từ 12 đến 24 tháng và suy cho
cùng hiện nay, công cụ này không còn mang những chức năng truyền
thống cổ điển của nó nữa mà nó ( thậm chí ở nhiều nước ) được coi
đơn thuần chỉ là một công cụ CSTT của NHNN thực hiện điều tiết
lượng vốn khả dụng, khối lượng tiền bơm ra hay hút vào
Và cũng như đã phân tích, công cụ này chỉ có tác dụng thực sự khi
nó được phối hợp mềm dẻo , linh hoạt với các công cụ khác: Tái cấp
vốn, thị trường mở cũng giống như một nhà ngoại giao khôn khéo
biết dùng " một tay đấm, một tay xoa"
Ngân hàng nhà nước tiến tới cần tiếp tục phát huy cơ chế điều hành
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thoáng linh hoạt của mình với từng loại
21
hình tổ chức tín dụng, cách tính số tiền dự trữ bắt buộc theo phương
pháp bình quân ; phối hợp với các công cụ khác như: tỷ giá với việc
quy định dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là việc cần phải nghiên cứu đề
ra những phương án cụ thể .
3.2.2.3 Công cụ tái chiết khấu
Trên cơ sở bước đầu đã hạn chế và xoá bỏ dần cơ chế cho vay chỉ
định. Từ 1997 đến nay ta xác định cụ thể lãi suát tái cấp vốn và để
nâng cao hơn nữa vai trò của công cụ này để nó thực sự đóng vai trò là
công cụ cấp tín dụng ngắn hạn, NHNN cung ứng phương tiện thanh
toán cho các ngân hàng thương mại, đóng vai trò là "người cho vay
cuối cùng" thì cần phải làm những việc sau:
- Hình thức tái chiết khấu phải cung cấp nguồn vốn có tính chất

thường xuyên hơn nữa cho các ngân hàng với mức lãi suất thấp, có thể
thấp hơn lãi suất liên ngân hàng tạo nên mức sàn trên thị trường .
Thông qua kênh này NHNN thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ, giảm áp
lực ngắn hạn về dự trữ trên thị trường, tránh các đột biến vế lãi suất.
Có như vậy NHNN mới chứng tỏ mình là "người cho vay cuối cùng".
- Nếu đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu, NHNN cần tạo điều kiện
cho các ngân hàng thương mại vay bảo đảm bằng các giấy tờ có giá
ngắn hạn cho vay theo hồ sơ tín dụng. Lúc này lãi suất có thể sẽ cao
hơn lãi suất chiết khấu
- Tạo điều kiện cho vay qua cửa số chiết khấu đặc biệt, hoặc cho vay
thẩm chi có tài sản đảm bảo nhằm bù đắp thiếu hụt vốn tạm thời ngắn
hạn trong thanh toán. Thời hạn vay có thể rất ngắn ( thường là qua
đêm) với mức lãi suất có thể là mức trần trên thị trường tiền tệ
- Có cơ chế quản lý vốn chính xác tránh tình trạng điều hành "mò".
Xác định rõ chủ thể nào thiếu vốn và cần vốn; chủ thể nào có thể lợi
dụng đầu cơ lợi dụng việc lãi suất hạ xuống thấp để trục lợi ( dùng tiền
đâù tư trên thị trường mở)
3.2.2.4 Nghiệp vụ thị trường mở
Mặc dù mới ra đời nhưng với vị trí và tầm quan trọng của nó, công
cụ này xứng đáng được quan tâm đầu tư sử dụng có hiệu quả hơn nữa,
tiến tới trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu
a- Về mặt khuôn khổ pháp lý
22
Cần phổ biến và thực hiện nghiêm túc các văn bản về các vấn đề liên
quan đến nghiệp vụ thị trường mở ( OMO) đã được ban hành như:
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở, quy trình OMO, quy định đăng ký
giấy tờ có giá, quy chế quản lý vốn khả dụng, quy trình đấu thầu tín
phiếu NSNN
b- Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ
- Lãi suất giao dịch trên thị trường mở hay là giá của các giấy tờ có

giá là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị
trường nói chung, nó cần trở thành lãi suất tham chiếu cho các lãi suất
khác. Vì vậy lãi suất khác mục tiêu mà NHNN cần quan tâm khi quết
định phương thức đấu thầu thị trường mở
- Khi đấu thầu nghiệp vụ OMO tùy thuộc vào mục tiêu của chính
sách tiền tệ mà chọn đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng. Ví dụ
muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì đấu thầu khối lượng khi đó lãi
suất được cố định bởi NHNN ; còn khi mục tiêu của chính sách tiền tệ
muốn nắm được lượng bán ra hay rút tiền vào theo một lượng xác định
mong muốn thì sẽ tiến hành đáu thầu lãi suất ; lúc này lãi suất được thả
nổi ; lãi suất trúng thầu là lãi suất được xác định tại đIểm đạt được
mục tiêu
- Trong nghiệp vụ thị trường mở không chỉ có phương thức mua
bán hẳn mà còn có phương thức giao dịch có kỳ hạn điều này sẽ giúp
NHNN chủ động về thời hạn của các chứng khoán mà không phụ
thuộc vào ngày đáo hạn ghi trên chứng khoán. Vì vậy trên thực tế các
loại chứng khoán trung và dài hạn hoàn toàn có thể tham gia làm
phương tiện trên OMO. Phân tích rõ hơn đIều này ta thấy rằng: hành
vi mua vào bán ra các loại giấy tờ có giá là hoạt động thường xuyên
trên thị trường mở. Lúc này mua vào thì khi khác bán ra, Ví dụ:
NHNN có thể thay hành vi mua ngay lập tức thành hành vi bán nếu
phát hiện mình đã cung ứng tiền quá nhiều ra lưu thông và ngược lại
khi cảm tháy sự bế tắc của các hoạt động kinh tế vì nguyên nhân
không đủ cơ số tiền tệ thì NHNN tiến hành cung tiền ra bằng cách mua
giấy tờ có giá vào. Chính hành vi mua bán trao đổi thường xuyên các
loại chứng khoán đã tạo ra khả năng nối kết nhiều nguồn vốn ngắn hạn
thành nguồn trung và dài hạn thỏa mãn nhu cầu các chủ thể tham gia;
bản chất của nguồn vốn dài hạn chính là một chuỗi nguồn vốn ngắn
23
hạn tạo thành . Vì lý do này ta không phải lo rằng việc mua chứng

khoán trung dài hạn sẽ làm cho vốn bị ứ đọng, vốn “chết”.
Từ những phân tích trên để làm cho hoạt động của OMO trở nên
sôi động nhộn nhịp hơn cần phải có các quy chế pháp lý để tạo thêm
hàng hóa trên thị trường, tạo đIều kiện cho các loại chứng khoán trung
và dài hạn được chấp nhận và biện pháp gián tiếp là phát triển thị
trường chứng khoán thứ cấp . trong quá trình xem xét thì các cơ quan
chức năng cũng cần chú ý là đưa các loại chứng khoán nào vào đi
chăng nữa thì chúng phải có tính lỏng cao
- Giải pháp tiếp theo là cần phải hiện đại hóa hệ thống thanh toán.
cần phải xây dựng được mô hình mạng máy tính nối kết giữa NHNN
với các thành viên tham gia OM O; Phát triển được các phần mềm
chuyên dụng tạo điều kiện cho các nghiệp vụ trao đổi đấu thầu trên thị
trường diễn ra nhanh chóng chính xác với khối lượng lớn. Cụ thể là
phải đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận
thành viên, đăng ký chữ ký điện tử , thông báo mời thầu ; đăng ký giấy
tờ có giá; xét thầu; tạo lập và ký hợp đồng mua lại đến thanh toán
chuyển khoản và thông báo, báo cáo…( Hiện nay NHNN đã cải thiện
thời gian thanh toàn từ việc 2 ngày sau ngày đấu thầu xuống còn trong
phạm vi ngày đấu thầu đã được thanh toán luôn
- Thực tế hiẹn nay các thành viên tham gia vào OMO chủ yếu là các ngân
hàng thương mại quốc doanh lớn và qua các phiên đấu thầu thì đa số là họ trúng
thầu. Do đó tiềm lực tài chính mạnh hơn nhiều và được sự bảo hộ của nhà nước
so với các tổ chức tín dụng khác. điều này làm cho hoạt động của OMO thiếu đi
tính cạnh tranh lành mạnh vì vậy NHNN cần phải rà soát nghiên cứu các văn
bản pháp lý ; các cơ chế và quy chế về nghiệp vụ thị trường mở để kịp thời điều
chỉnh sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường ;
tiếp tục tuyên truyền , bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ này cho các tổ chức tín
dụng.
KẾT LUẬN
Với mục đích nghiên cứu là xem xét nhìn nhận hoạt động thực tế

của các công cụ chính sách tiền tệ đã và đang được sử dụng ở Việt
24
nam. Từ đó phát hiện ra những thiếu sót bất cập.; hạn chế và đề ra các
biện pháp khắc phục. Đề án “Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ
chính sách tiền tệ ở Việt nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu
thế kỷ XXI”đã đạt được những kết quả như sau:
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ và
các công cụ của nó
- Đánh giá được thực trạng hoạt động của từng loại công cụ đã và
đang được sử dụng bằng nguồn thông tin khá phong phú, cập nhật. từ
đó đã rót ra được những nhận xét đánh giá tương đối đúng đắn về các
vấn đề còn bất cập
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề án đã đưa ra được hệ thống các
giải pháp và kiến nghị mang tính khả thi, từ những đề xuát với các cơ
quan có liên quan như: Chính phủ, Ngân hàng đến các biện pháp tương
đói cụ thể đối với từng công cụ. Em nghĩ rằng nếu những giải pháp
này được thực hiện thì các công cụ CSTT có thể được cải thiện nhiều
hơn
Với kết quả nêu trên, đề án môn học này của em muốn đóng góp
một phần nào đó về các giải pháp cho các cơ quan chức năng mà cụ
thể là NHNN để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công cụ CSTT.
Đó là mong muốn lớn nhất, tuy nhiên do trình độ của một sinh viên
vừa kết thúc 2 năm học đại cương, còn rất nhiều hạn chế. Mong muốn
của em với đề án chỉ là giới thiệu phân tích đánh giá , đề xuất một số
phương án trong việc xem xét các công cụ CSTT cho các đối tượng
học sinh – sinh viên bước đầu muốn làm quen tìm hiểu về chính sách
tiền tệ
Em xin cảm ơn các thày cô trong bộ môn tiền tệ thuộc khoa “ Tiền
tệ và thị trường vốn” mà đặc biệt là cô giáo TRẦN THỊ LỘC đã tận
tình hướng dẫn sửa đề cương đầu tiên cho em hoàn thành đề án này.

Hà Nội Ngày 16 Tháng 9 Năm 2002
Sinh viên lớp 3012
TRẦN HỒNG HÀ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
25

×