Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thực tiễn quản lý dự trữ ngoại hối tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.52 KB, 20 trang )

Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế ngày một mang tính toàn cầu
hóa cao độ, sự xóa bỏ dần các hạn chế về ngoại hối đã khéo theo sù chu
chuyển các luồng ngoại tệ ngày càng gia tăng không chỉ về số lượng, tốc độ
mà còn cả về chiều sâu. Những biến động về lãi suất và tỷ giá ngày càng lớn
và khó có thể dự liệu trước được. Hơn thế nữa nền kinh tế thế giới cũng đang
ngày càng tham gia mạnh mẽ vào thương mại và đầu tư quốc tế. Việc quản lý
dự trữ ngoại hối được các nước coi trọng vì mục đích chính của dự trữ ngoại
hối là nhằm tài trợ cho sự mất cân đối của cán cân thanh toán quốc tế và ổn
định tỷ giá. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, các
quốc gia có thể sử dụng những chính sách kinh tế vĩ mô để điều chỉnh. Tuy
nhiên, tác động của những chính sách này có độ trễ về thời gian.Do vậy, dự
trữ ngoại hối chính là giúp một quốc gia có thể ổn định cán cân thanh toán
cho đến khi các biện pháp điều chỉnh phát huy tác dụng làm cán cân thanh
toán trở lại cân bằng.
Vì vậy, việc NHTƯ duy trì và quản lý một cách tích cực cũng như tăng
cường đa đạng hóa dự trữ ngoại hối đã trở thành một vấn đề nóng bỏng.
Nhiều nước đang cố gắng tìm một cơ chế chính thức, cũng như tính toán nhu
cầu dự trữ ngoại hối của minh và đề ra các mục tiêu cho việc quản lý dự trữ
ngoại hối.
1
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương

phần 1 :
Những vấn đề cơ bản về quản lý dự trữ ngoại hối
I Mục đích của quản lý dự trữ ngoại hối
1 Những khái niệm có liên quan đến quản lý dự trữ ngoại hối
1.1 Khái niệm về ngoại hối
Ngoại hối bao gồm tiền nước ngoài,vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có


giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng. Nó là phương
tiện để mua, dự trữ của cải, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế,
được các nước chấp nhận như là đồng tiền quốc tế, như Đôla, Yên Nhật Bản,
Euro Châu Âu.
1.2 Khái niệm về dự trữ ngoại hối
Do việc nắm dữ dự trữ ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến cán cân thanh toán
của một nước, nên dự trữ ngoại hối (international reserves) theo IMF, là các
công cụ tài chính mà NHTƯ có thể sử dụng bất cứ lúc nào đế tài trợ cho
những mất cân đối trong cán cân thanh toán hay đÓ can thiệp trên thị trường
ngoại hối nhằm tác động đến tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối cũng
được duy trì nhằm các mục đích khác nhau. Như để gây dựng lòng tin, để đáp
ứng yêu cầu về mặt luật pháp hay dùng nó như một khoản thế chấp khi vay nợ
nước ngoài.
2. Mục đích của quản lý dự trữ ngoại hối
Về cơ bản, dự trữ ngoại hối là toàn bộ các tài sản ngoại tệ hay các tài sản
ngoại tệ có tính thanh khoản cao của một quốc gia (thường được giao cho
2
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
NHTƯ trực tiếp điều hành và quản lý) nhằm mục đích ngăn ngừa những biến
động ngắn hạn quá lớn về tỷ giá, do hậu quả của một số nhân tố như biến
động trong thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu cũng như chu chuyển quá lớn
của luồng vốn quốc tế đối với một quốc gia. Nói cách khác, dự trữ ngoại hối
đóng vai trò như phương tiện thanh toán cuối cùng cho các giao dịch của một
quốc gia với phần còn lại của thế giới. Vì thế, mục đích của việc quản lý dự
trữ ngoại hối là để đảm bảo cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể
thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thÓ giải quyết những giao động về tỷ
giá trong ngắn hạn.
Ơ nhiều nước, cải thiện dự trữ ngoại hối là mục tiêu kinh tế chính. Dự trữ
ngoại hối còn là công cụ chính sách quan trọng. Việc quản lý DTNH có thể

tác động đến các công cụ chính sách khác và ngược lại, nó cũng có thể bị tác
động bởi các công cụ này.
II. Nội dung cơ bản của Quản lý dự trữ ngoại hối
1. Nguyên tắc QLDTNH
Hầu hết ngân hàng TƯ các nước, đặc biệt là các ngân hàng TƯ của các quốc
gia thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước, đều cho rằng việc duy trì DTNH là hết sức cần thiết vì
nó ngắn với mục tiêu hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng TƯ. Đó là
đảm bảo ổn định đồng tiền trong nước (cả đối nội và đối ngoại); đảm bảo Ýt
nhất là nguồn can thiệp (nguồn can thiệp cuối cùng) để duy trì sự ổn định
ngắn hạn, không gây ra những hẫng hụt nghiêm trọng đến thị trương ngoại
hối, sau đó là đến toàn bộ thị trường tài chính và rộng hơn là đến nền kinh tế.
Tùy điêu kiện, hoàn cảnh riêng và trong từng giai đoạn cụ thể, mỗi ngân hàng
TƯ đều có chính sách và mục tiêu riêng về QLDTNH, tuy nhiên phải dựa trên
ba nguyên tắc cơ bản: an toàn, thanh khoản và sinh lời.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến QLDTNH
2.1 Mức độ linh hoạt của tỷ giá
Những nước theo đuổi chế độ tỷ giá cố định cần nắm giữ một lượng lớn các
DTNH để duy trì tỷ giá ở mức đã định. Nếu DTNH quá mỏng, khả năng ổn
3
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
định tỷ giá của NHTƯ trở nên khó khăn và xảy ra nguy cơ khủng hoảng tài
chính tiền tệ như cuộc khủng hoảng Châu A vừa qua. Những nước theo đuổi
chế độ tỷ giá thả nổi cần một lượng DTNH Ýt hơn. Trên thực tế sau sự sụp đổ
của hệ thống Bretton Wood vào đầu những năm 70, một số nước chuyển sang
chế độ tỷ giá thả nổi nhưng DTNH lại không giảm mạnh như những người
ủng hộ chế độ tỷ giá thả nổi mong đợi. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khi
chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi nhu cầu nắm giữ DTNH giảm
khoảng 30% đối với các nước công nghiệp, nhưng đối với các nước đang phát
triển, nhu cầu dự trữ khó có thể giảm.Theo họ mặc dù những nước này theo

chế độ tỷ giá thả nổi nhưng thực chất tỷ giá còn bị kiểm soát khá nhiều, do
vậy ngân hàng TƯ vẫn cần nắm giữ DTNH. Mặt khác, sự biến động cua tỷ
giá danh nghĩa cũng là một nhân tố không thể giảm nhu cầu nắm giữ DTNH
của những nước này.
2.2 Mức độ mở cửa của nền kinh tế
Các nhà phân tích kinh tế cho rằng, một nền kinh tế càng mở cửa càng cần
lượng DTNH lớn hơn. Đúng như vậy, trong bối cảnh hiện nay khi mà quan hệ
quốc tế ngày càng được mở rộng, một quốc gia không thể phát triển nếu như
chỉ bó hẹp hoạt động của mình trong phạm vi quốc gia mà phải thiết lập các
mối quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ngoại hối là một phương tiện thiết yếu trong các
quan hệ quốc tế đó, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Chính bởi vậy, các quốc gia
đều phải có dự trữ ngoại hối để đảm bảo thực hiện các quan hệ quốc tế. Trên
thực tế người ta tính dự trữ ngoại hối của một nước dựa trên quy mô thương
mại quốc tế của nước đó.
2.3 Mức độ tự do hóa thương mại và tự do hóa chu chuyển
Tợ do hóa thương mại càng cao càng đòi hỏi DTNH càng lớn, bởi vì khi môi
trường kinh tế bên ngoài thay đổi sẽ dễ gây ra những mất cân đối lớn trong
cán cân thương mại. Nhưng khi những kiểm soát về xuất nhập khẩu bị dỡ bỏ,
các nước cần phải duy trì một lượng DTNH nhằm mục đích dự phòng.Anh
hưởng của việc tự do hóa luồng vốn sẽ không rõ ràng bởi vì một mặt, tự do
4
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
hóa chu chuyển vốn có thể tăng khả năng tài trợ mất cân đối của cán cân vãng
lai của khu vực tư nhân và do vậy sẽ giảm nhu cầu tài trợ cán cân vãng lai của
khu vực chính phủ, do đó giảm nhu cầu nắm giữ DTNH. Mặt khác, khi tù do
hóa chu chuyển vốn, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vao trong nước
và các nhà đầu tư trong nước có thể chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong
điều kiện này, việc ổn định luồng vốn là việc khó khăn, NHTƯ có thể phải
nắm giữ một lượng DTNH lớn hơn để can thiệp khi cần thiết trong ngắn hạn.

3. Các chỉ tiêu đánh giá mức dự trữ ngoại hối của một quốc gia
3.1 Dự trữ quốc tế tính theo tuần hoặc theo tháng nhập khẩu
Đây là cách đo lường truyền thống về lượng dự trữ ngoại hối. Theo đó, mức
dự trữ ngoại hối phù hợp là mức dự trữ đáp ứng được từ 3 đến 4 tháng nhập
khẩu ( hàng hóa và dịch vụ ). Tuy nhiên, tiêu chí này còn nhiều hạn chế bởi
nó chưa tính đến biến động của cán cân thương mại, dịch vụ. Hơn nữa, cán
cân thương mại, dịch vụ chỉ là một bộ phận của cán cân vãng lai do vậy cần
xem xét đến những biến động của cán cân vãng lai trong tương lai. Đặc biệt,
khi sù chu chuyển vốn giữa các nước ngày càng gia tăng và tình trạng đầu cơ
tiền tệ trở thành hiện tượng phổ biến thì tiêu chí này trở nên không còn tin cậy
nữa.
3.2 Tỷ lệ giữa M2 và dự trữ quốc tế
Người thanh tra ngân hàng sử dụng tiêu chí này bởi khi khủng hoảng tỷ giá
hoặc các cơn hoảng loạn tài chính do tù do chu chuyển vốn và đầu cơ tiền tệ
gây ra, tất cả tài sản tiền tệ có tính thanh khoản cao có thể được chuyển đổi ra
ngoại tệ.
3.3 Tỷ lệ giữa nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối
Nếu như tỷ lệ giữa tổng nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối quá thấp thì trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng về vốn, các ngân hàng không thiện chí cho
gia hạn nợ ngắn hạn, dự trữ ngoại hối sẽ không đủ để thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn chứ không nói là trả được các khoản nợ lãi và gốc đến hạn của các
khoản vay trung và dài hạn trong kỳ đó. Do vậy, vấn đề quan trọng là phải
duy trì dự trữ ngoại hối ở mức phù hợp trong mối liên hệ với nợ nước ngoài
5
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
ngắn hạn. Điển hình như trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa
qua cho thấy đây là cuộc khủng hoảng cán cân vốn chứ không phải khủng
hoảng cán cân vãng lai. Thái Lan đã thu hút một lượng vốn nược ngoài để tài
trợ thâm hụt cán cân vãng lai nhưng cơ cấu tài trợ tỏ ra không hợp lý, vốn
ngắn hạn chiếm khoảng trên 30% tổng luồng vốn vào và ra vì vậy rủi ro của

việc rút vốn đột ngột đã đặt NHTƯ Thái Lan trong tình thế phải dùng dự trữ
để ổn định tỷ giá hối đoái. Nhưng do dự trữ ngoại hối quá mỏng nên không đủ
để thanh toán.
Ngoài các chỉ tiêu trên, mức dự trữ ngoại hối còn phụ thuộc vào chi phí của
việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Chi phí của việc nắm giữ dự trữ ngoại hối
được tính bằng chênh lệch lãi suất giữa lãi suất thu được trên dự trữ và lãi
suất thu được khi đầu tư vào tài sản khác. Nếu một nước nắm giữ dự trữ ngoại
hối ở mức quá lớn có thể là một sự lãng phí nguồn lực.
III. Hoạch định chính sách quản lý ngoại hối của một quốc gia
1 Nội dung của hoạch định chính sách quản lý dự trữ ngoại hối
Việc hoạch định chính sách QLDTNH được coi là một khâu hết sức quan
trọng, nó là nhân tố chủ yếu quyết định thành công hay không thành công của
Ngân hàng TƯ trong hoạt động QLNH. Thông thường, quá trình này gồm ba
bước chủ yếu sau:
Thứ nhất: đề ra một chiến lược đầu tư vừa thích hợp vừa an toàn, đảm bảo
khả năng vừa thanh toán vừa sinh lời ở mức có thể.
Thứ hai: lựa chọn các đồng tiền để đầu tư dự trữ ngoại hối.
Thứ ba: lựa chọn các công cụ đầu tư dự trữ ngoại hối thích hợp trên thị trường
vốn và thị trườngtiền tệ khác nhau theo chiến lược QLDTNH thích hợp cho
từng thời kỳ.
2. Các bước của công tác hoạch định chính sách quản lý dự trữ ngoại hối
2.1 Chiến lược đầu tư DTNH của một NHTƯ
Chiến lược đầu tư DTNH của một NHTƯ về cơ bản là một đề án đưa ra các
mục tiêu QLDTNH (an toàn, thanh khoản, sinh lời) và các biện pháp để đạt
được các mục tiêu đó.
6
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
Để đạt được các mục tiêu của QLDTNH, đồng thời tránh được hậu quả khi có
những xáo trộn, mỗi NHTƯ cần có những mối quan hệ đại lý rộng rãi nhất là
với các NHTƯ ( hoặc các cơ quan quản lý tiền tệ của những nước có đồng

tiền trong cơ cấu dự trữ ), các ngân hàng thương mại được các tổ chức chuyên
xếp hạng quốc tế đánh giá là có độ tín nhiệm cao trên thị trường quốc tế.
2.2 Cơ cấu dự trữ ngoại hối
Cần lựa chọn một cơ cấu hợp lý cho mỗi thời kỳ. Để có được một cơ cấu
DTNH hợp lý, phải tính tới các nhân tố như phương thức thương mại và
thanh toán, đặc biệt là tính đến tỷ trọng của các loại ngoại tệ được sử dung
trong thanh toán và trả nợ nước ngoài, xu hướng biến động của các loại đồng
tiền chủ chốt. Phân tích cho cùng thì dự trữ ngoại hối được sử dụng để thanh
toán nhập khẩu. Do vậy, phân chia cơ cấu các đồng tiền trong dự trữ ngoại hối
cần phải được thực hiện sao cho có khả năng bảo vệ được sức mua thực tế của
các đồng tiền đó.
Ngoài ra, hiện nay các NHTƯ còn rất “nhạy cảm” với các chỉ số ngoại hối,
chính sách tỷ giá, chính sách QLDTNH của các NHTƯ khác nhất là việc mua,
bán, can thiệp vào thị trường của các ngân hàng TƯ lớn, vì đó cũng là các
nhân tố gây ảnh hưởng tới việc lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại hối của các
NHTƯ.
Việc QLDTNH có liên quan đến rủi ro tỷ giá đối với đồng bản tệ, cho nên đa
dạng hóa cao độ các đồng tiền, gồm các đồng tiền chủ chốt trên thế gới là hết
sức cần thiết. Hiện nay, DTNH của các nước đều bao gồm: USD, YÊN, GBP,
EURO trong đó đồng USD luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất vì tình thống trị và
tính ưu việt của nó.
Theo kinh nghiệm của NHTƯ các nước, đÓ xác định được cơ cấu DTNH hợp
lý chỉ nên đưa ra khung cho phép tỷ lệ mục tiêu hơn là Ên định tỷ lệ phần
trăm một cách cứng nhắc. Phương thức này sẽ tạo ra sù linh hoạt trong thưc
hiện cũng như trong quản lý DTNH và tránh được tình trạng luôn phải điều
chỉnh quá nhiều. Quan điểm chung khác cần chú trọng và nhấn mạnh, đó là:
“sẽ là không khôn ngoan nếu người ta bỏ tất cả trứng vào trong một cái rổ”
7
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
3.3 Lựa chọn các công cụ đầu tư.

Việc lựa chọn các công cụ đầu tư sẽ quyết định đến rủi ro tổng thể tiềm năng.
Nếu ưu tiên cho tính an toàn trong đầu tư thì tại mỗi thị trường của đồng tiền
cần phải giới hạn vào một số công cụ như trái phiếu chính phủ hoặc các công
cụ nợ được phát hành bởi các cơ quan khác được chính phủ bảo lãnh, hay một
tổ chức đa quốc gia được xếp hạng tín nhiệm cao theo tiêu chuẩn đánh giá của
các công ty chuyên xếp hạng quốc tế. Mở tài khoản tiền gửi tại các ngân
hàng, ủy thác đầu tư… ngoài ra, các công cụ phái sinh cũng được sử dụng
trong hoạt động quản lý. Tuy nhiên, cần hết sức thận trọng đối với các loại
công cụ này.
phần 2 :
Thực tiễn Quản Lý Dự Trữ Ngoại Hối tại Việt Nam
8
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
I. Các quy định chung của chính phủ về QLDTNH Nhà nước
1. Các quy định chung
-Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được thể
hiện trên bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà nước
là cơ quan QLDTNH nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia,
bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn DTNH Nhà nước.
-Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồm:
a. Ngoại tệ, tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài
b. Hối phiếu và các giấy chứng nhận nợ của nược ngoài bằng ngoại tệ
c. Các chứng khoán nợ do chính phủ, ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ
hoặc Ngân hàng quốc tÕ phát hành và bảo lãnh.
d. Vàng tiêu chuẩn Quốc tế
e. Các loại hối phiếu khác . . .
-Dự trữ ngoại hối được hình thành từ các nguồn : ngoại hối hiện có thuộc sở
hữu nhà nước do NHNH quản lý. Ngoại hối mua từ NSNN và mua từ thị
trường ngoại tệ, thị trường vàng. Vay các ngân hàng và TCTD quốc tế, từ các
nguồn khác.

-Dự trữ ngoại hối được quản lý theo nguyên tắc: bảo toàn dự trữ; đảm bảo khả
nắng sẵng sàng thanh toán, đáp ứng nhu cầu khi cần thiết; sinh lời qua các
nghiệp vụ đầu tư.
-Dự trữ ngoại hối nhà nước được lập thành hai qũy: Qũy dự trữ ngoại hối và
qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng.
2. Thẩm quyền quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước
a. Thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
-Mức dự trữ ngoại hối Nhà nước dự kiến hàng năm do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước trình
-Hạn mức ngoại hối của qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng
-Điều chuyển từ qũy dự trữ ngoại hối sang qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng theo
đề nghị của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
9
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
-Tạm ứng từ qũy DTNH cho ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu đột
xuất, cấp bách của nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình
-Các hình thức, nghiệp vụ đầu tư dự trữ ngoại hối mới.
b. Thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng.
-Ban hành quyết định thực hiện việc trích tạm ứng từ QDTNH cho ngân sách
ngoại hối nhà nước theo quyệt định của Thủ tướng Chính phủ.
-Quyết định việc xuất nhập khẩu vàng theo tiêu chuẩn quốc tế thuộc DTNH
nhà nước.
-Quyết định phương án can thiệp thị trường ngoại hối trong nước.
-Quyết định cơ cấu của qũy DTNH.
-Quyết định tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH nhà nước.
-Duyệt và ký trình các cấp có thẩm quyền.
c.Thẩm quyền của Trưởng ban điều hành.
-Quyết định cơ cấu của qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng.
-Quyết định cơ cấu của QDTNH trong từng thời kỳ theo ủy quyền của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước.

-Quyết định phương án đầu tư, các khoản đầu tư có giá trị tương đương từ 20
triệu đôla trở lên.
-Quyết định việc mua bán ngoại tệ hàng ngày của Ngân hàng nhà nước trên
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
-Chỉ đạo các vụ chức năng có liên quan và sở giao dịch tổ chức thực hiện tiêu
chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước.
-Quyết định điều chuyển ngoại hối từ qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng sang qũy
DTNH trong trường hợp mức ngoại hối của qũy bình ổn tỷ giá và giá vàng
vượt hạn mức đã được thủ tướng chỉnh phủ phê duyệt.
d. Quyết định về DTNH nhà nước.
-Đối với những nội dung thuộc thẩm quyền phê duyệt hoặc quyết định của
Thống đốc:
10
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
Các vụ chức năng có liên quan và sở giao dịch chuẩn bị nội dung theo nhiệm
vụ được giao theo quy định trong quy chế này thông qua ban điều hành để
trình Thống đốc phê duyệt hoặc quyết định.
-Đối với những nội dung thuộc thẩm quyền của Trưởng ban điều hành:
Các vụ chức năng có liên quan và sở giao dịch chuẩn bị nội dung theo
nhiệm vụ được giao trình Trưởng ban điều hành quyết định.
II. Quản lý dự ngoại hối ở Việt Nạm hiện nay
1.Tình hình hoạt động của qũy dự trữ ngoại hối
ở Việt Nam hiện nay theo điều 9 luật NHNNVN quy định “ dữ trữ quốc tế là
dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN quản lý và dự trữ ngoại hối của các
TCTD được phép hoạt động ngoại hối ”. Nghị định của chính phủ số
86/1999NĐ-CP về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước ngày 30/8/99 quy định
cụ thể “ Dự trữ ngoại hối Nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của nhà nước được
thể hiện trên bảng cân đối tiền tệ của NHNN. NHNN là cơ quan quản lý dự
trữ ngoại hối Nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo

khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước”. Như vậy,
định nghĩa DTNH của Việt Nam đồng nghĩa với định nghĩa của IMF. Tuy
nhiên, Luật NHNN chưa nói rõ NHTƯ có thể sử dụng tài sản dự trữ bất cứ
khi nào, mà lại quy định viếc sử dụng DTNHNN theo quy đinh của chính
phủ. Điều 3 của Nghị định 86 quy định rằng DTNHNN được hình thành từ
các nguồn: Ngoại hối hiện có thuộc sở hữu nhà nước do NHNN quản lý;
ngoại hối mua từ NSNN và mua từ thị trường ngoại tệ và thị trường vàng
trong nước; ngoại hối từ các khoản vay ngân hàng và các tổ chức tài chính
quốc tế; vàng tiêu chuẩn quốc tế; ngoại hối từ các nguồn khác. Trên thực tế,
NHTƯ nắm giữ một lượng tài sản Có nước ngoài bao gồm tiền mặt ngoại tệ,
SDR, vàng tiền tệ và dưới các hình thức khác, trong đó có những tài sản do
NHTƯ sở hữu và những nguồn ngoại tệ không do NHTƯ sở hữu mà chỉ để
kiểm soát, nó được hình thành từ các nguồn như tiÒn gửi của Chính phủ và
ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tại NHTƯ, và gần đây
còn bao gồm ngoại tệ theo các thỏa thuận hoán đổi với các NHTM. Trước
11
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
đây, lượng ngoại tệ này thường được tình toán trong dự trữ quốc tế của Việt
Nam. Trên thực tế, do không thuộc sở hữu của mình, việc sử dụng những
nguồn ngoại tệ này như một tài sản DTNH được tài trợ cho những mất cân
đối trong cán cân thanh toán và can thiệp vào thị trường ngọai hối, bình ổn tỷ
giá còn nhiều hạn chế. Có thể vì lý do đó mà trong một số năm gần đây, như
IMF trình bày, khi tính toán DTNH cần loại bỏ những khoản ngoại tệ này để
thực hiện đúng bản chất của tài sản DTNH là NHTƯ có thể sử dụng bất cứ
lúc nào. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam được nâng dần trong các năm và nếu
tính theo tuần nhập khẩu thì trong 2 năm 1999 và 2000, DTNT của Việt Nam
đã đảm bảo được 12 tuần nhập khẩu. Một mức dự trữ được cho là tương đối
an toàn. Trong hai năm 2000 và 2001, tổng dự trữ ngoại hối quốc gia tăng
nhanh. Quỹ DTNH năm 2001 là 3601 triệu USD tăng 18,84% so với năm
2000. Đây là kết quả của chính sách nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng của

NHNN. Tuy nhiên, theo ước tính của IMF để cân bằng cán cán thanh toán,
đến năm 2006, Việt Nam cần 6341 triệu USD, gần gấp đôi so với tồn qũy
ngoại hối năm 2001.
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng tăng,
những thay đổi của môi trường kinh tế thế giới sẽ tác động đáng kể tới cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Trong những năm 90, nguồn thu cán
cân vãng lai của Việt Nam không mấy ổn định bởi cơ cấu xuất khẩu còn
nhiều bất cập. Những mặt hàng có kim nghạch xuất khẩu cao chưa nhiều. Một
số mặt hàng xuất khẩu truyền thống còn chịu nhiều biến động về giá như dầu
thô. Trong khi đó, mặt hàng gạo, hải sản phụ thuộc vào thiên nhiên cung gây
ra tính bất ổn trong nguồn thu ngoại tệ. Hơn nữa, luồng vốn vào chủ yếu là
đầu tư trức tiếp nước ngoài và vay nợ nước ngoài nên phụ thuộc nhiều vào tốc
độ giải ngân và diễn biến tài chính quốc tế. Trong điều kiện nguồn vốn nước
ngoài còn hạn chế, vai trò dự trữ quốc tế trở nên quan trọng và việc tăng
cường DTQT là yêu cầu bức xúc hiện nay.
Hàng năm, Việt Nam có nguồn thu ngoại tệ khá lớn.Tuy nhiên, việc phân bổ
nguồn thu ngoại tệ giữa các khu vực của nền kinh tế đang còn bất hợp lý chưa
12
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
được tập trung vào hệ thống ngân hàng. Khu vực dân cư nắm một lượng lớn
ngoại tệ (khoảng 20% tổng phương tiện thanh toán dưới dạng tiền gửi tiết
kiệm ngoại tệ và khoảng vài tỷ USD dưới dạng ngoại tệ tiền mặt trong lưu
thông). Do lượng ngoại tệ này vẫn thuộc sở hữu của khu vực dân cư nên khả
năng sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ của các khu vực khác trong nền
kinh tế còn nhiều hạn chế. Mặt khác, Chính phủ cũng là khu vực có nguồn
ngoại tệ khá lớn thu từ xuất khẩu dầu thô và hiện do Bộ Tài chính quản lý.
Nhưng trong nhiều thời điểm , việc bán lại cho NHNN không kịp thời . Bởi
vậy, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế cần có
các chính sách khuyến khích người dân bán hẳn số ngoại tệ này cho hệ thống
ngân hàng để sử dụng trong việc đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ của nền kinh tế

cũng như tăng dự trữ quốc tế
Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 1993-2006
Đơn vị tính: triệu
USD
199
3
199
4
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
Tổng dự trữ
ngoại hối
404 876 1376 1798 2260 1350 2711 3030 3601 397
1
455
7
510
1
569
2
634
1

Tương
đương
tuần NK
5 7 8 9 10,1 6,1 8,1 8,6 9,4 9,1 9,5 9,6 9,8 10
2. Tình hình hoạt động của công tác quản lý ngoại hối
Từ đầu năm 1999 các quy định mới ra đời phù hợp với tình hình mới và phù
hợp với hai luật ngân hàng đã được thực hiện. Các doanh nghiệp phải thực
hiện kết hối, thay vì chỉ được để số dư tối thiểu tiền gửi ngoại tệ trên tài
khoản, đó là phải bán ngay cho ngân hàng số ngoại tệ có được trong một
khoảng thời gian xác định cho các TCTD. Tỷ lệ kết hối thời gian đầu quy
định là 100%, sau giảm xuống còn 80%, rồi xuống 40% và hiện nay còn 0%.
13
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
Quy định về giới hạn tối đa ngoại tệ cá nhân mang theo khi xuất cảnh không
phải khai báo được điều chỉnh xuống còn 3000USD.
Để khuyến khích thu hút nguồn kiều hối về nước, những quy định về vấn đề
này cũng dần dần được sửa đổi và hoàn thiện. Từ chỗ người nhận kiều hối
trong nước bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng theo tỷ giá quy định, chỉ
được nhận nội tệ, đã được sửa đổi bằng việc họ tự chủ được nhận ngoại tệ hay
bán cho ngân hàng lấy đồng tiền Việt Nam. Người nhận kiều hối không phải
nộp thuế thu nhập. Từ tháng 9/2002, Chính phủ cho phép mở rộng đối tượng
được làm dịch vụ chi trả kiều hối, trong đó có cả các NHTM được làm đại lý
cho các công ty kiều hối về nghiệp vụ này. Mới đây, NHNN đã ban hành quy
định về việc thành lập và hoạt động của các công ty kiều hối trực thuộc ngân
hàng thương mại… Những chính sách và biện pháp đó đã có tác động tích
cực đến lượng tăng kiều hối chuyển về nước qua con đường chính thức. Số
kiều hối tăng từ 35 triệu USD năm 1991 lên 1,1 tỷ USD trong 6 tháng đầu
năm 2003. Xu hướng này không những đã tạo nguồn thu nhập cho cá nhân
mà còn góp phần cải thiện cán cân vãng lai. Tạo nguòn vốn ngoại tệ đáng kể
cho đất nước.

3. Tình hình các hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN
Thị trường liên ngân hàng đã được NHNN vận hành một cách linh hoạt và
tương đối hiệu quả trong thời gian qua. NHNN đóng vai trò là người mua bán
cuối cùng, sẵn sàng can thiệp trên thị trường để hình thành tỷ giá hợp lý theo
mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngoài việc mua bán can thiệp trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN còn mua bán ngoại tệ trực tiếp theo nhiệm vụ
được giao, như mua ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô, bán ngoại tệ cho bộ tài
chính để đáp ứng nhu cầu chiến lược quốc gia, bán ngoại tệ cho một số
NHTM để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu xăng dầu… Đặc biệt là, NHNN
còn thực hiện quản lý có hiệu quả quỹ dự trữ ngoại hối và vàng của quốc gia,
quỹ bình ổn thị trường ngoại hối. Theo ước tính của quỹ dự trữ ngoại hối đến
nay đã đạt 4,5 tỷ USD, tương đương khoảng 10 tuần nhập khẩu.
14
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
Với các chính sách quản lý ngoại hối như trên, các luồng ngoại tệ thu hút vào
và chu chuyển qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ổn định và không ngừng
tăng lên trong các năm qua, quỹ dự trữ ngoại hối được tăng cường, nguồn
kiều hối được tăng nhanh
4. Một số điểm còn hạn chế trong công tác quản lý dự trữ ngoại hối
-Về việc đánh giá tồn Qũy dự trữ ngoại hối hối: Hiện nay, quỹdự trữ được xác
định theo tuần nhập khẩu. Nói cách khác nguồn ngoại hối dự trữ chỉ dừng lại
ở mức sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu ngoại tệ để cân bằng cán cân thương
mại. Điều này chỉ phù hợp khi Việt Nam thường xuyên ở tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại và dịch vụ. Trong tương lai, cách tính này không an toàn
do nó không bao quát hết nhu cầu ngoại tệ quốc gia
-Về vấn đề thu hút nguồn kiều hối: Nguồn kiều hối về Việt Nam thông
thường qua hai cách. Cách công khai, hợp pháp là chuyển qua ngân hàng.
Cách thứ hai không công khai, không thông qua ngân hàng, thường hay gọi là
“kiều hối chui”. Cách này thực hiện chủ yếu bằng tiền mặt USD là do Việt
kiều mang trực tiếp về, bao gồm số kiều hối thu gom ở nước ngoài, người

mang hé giao tận tay người nhận trong nước với hoa hồng thoả thuận từ
trước, thu từ người gửi nước ngoài.
Các quy định pháp luật vệ ngoại hối hiện hành không cấm đoán kiều hối đưa
vào Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào miễn là người mang khi nhập cảnh
khai báo đầy đủ với cơ quan hải quan theo quy định. Tuy nhiên đối với nguồn
“kiều hối chui” rất Ýt khi được bán cho ngân hàng mà chủ yếu bán trên thị
trường chợ đen, vì tỷ giá cao hơn… Trong khi đó theo ước tính lượng ngoại
hối này không dưới 1tỷ. Như vậy vô tình đã làm thất thoát một lượng ngoại tệ
tương đối lớn trong hệ thống ngân hàng, hạn chế sự kiểm soát của NHTƯ về
lượng ngoại tệ quốc gia, giảm khả năng đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ trong
các hoạt động xuất nhập khẩu.
-Chính phủ cũng là khu vực có nguồn thu ngoại tệ lớn từ hoạt động xuất khẩu
dầu thô. Nguồn thu này hiện do Bộ tài chính quản lý. Nhưng trong nhiều thời
điểm, việc bán lại cho NHTƯ không kịp thời. Bởi vậy, ngoài việc thúc đẩy
15
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế cần có các chính sách khuyến
kích người dân bán hẳn số ngoại tệ này cho hệ thống ngân hàng để sử dụng
cho việc đáp ứng nhu cầu thu chi ngoại tệ của nền kinh tế cũng như tăng
DTNH.
5. Một số giải pháp gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.
-NHNN tiếp tục đưa tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ làm dồi dào Qũydự
trữ ngoại hối. Đồng thời phối hợp với bộ Tài chính trong việc quản lý và sử
dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ do bán dầu thô - mặt hàng xuất khẩu chiến lược
của quốc gia; tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá
nhân bán ngoại tệ .
-Cán cân vãng lai luôn ở trong tình trạng thâm hụt, trong khi đó cán cân vốn
cũng tạo ra một áp lực lớn về ngoại hối. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi
mới ngồn vồn nước ngoài chảy vào không ngừng gia tăng. Cán cân vốn luôn
thặng dư và mức thặng dư gia tăng theo thời gian. Ngày nay, đã hơn 10 năm

mở cửa nền kinh tế thời gian ân hạn của một số khoản vay đã hết thời gian trả
nợ đến gần, khoản lãi và nợ gốc của các doanh nghiệp đầu tư trược tiếp nước
ngoài đã đến kỳ thanh toán, nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoái kinh doanh
của các doanh nghhiệp Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng. . . Đây là
những nhu cầu ngoại tệ chính đang cần được thỏa mãn. Nói cách khác, để
tránh tình trạng căng thẳng về ngoại tệ trong tương lai, NHNN cần phải thay
đổi cách tính luồng ngoại tệ dự trữ bằng cách cộng thêm khoản dự phòng cho
các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân vốn. Đồng thời gia tăng nguồn ngoại
hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chính trong nước và quốc tế
biến động.
6. Bài học kinh nghiệm rót ra
Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế từ năm 1991. Do đó nền kinh tế còn rất
nhiều yếu kém, chưa thể đối đầu với các nước lớn. Chúng ta vẫn còn đang
phải nhờ sự giúp đỡ tài trợ từ các nước phát triển, các tổ chức kinh tế thế giới.
Tuy nhiên theo kinh nghiệm cho thấy một nước nhỏ không thể dựa hoàn toàn
vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để bù đắp cán cân thâm hụt tổng thể đồng thời
16
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
cũng không thể dễ dàng tiếp cận vốn từ thị trường tiền tệ và thị trường vốn
quốc tế và rất dễ bị loại khỏi các thị trường này vì những lý do chính trị, xã
hội. Để đảm bảo có mức dự trữ phù hợp, Việt Nam phải có tài sản dự trữ của
riêng mình mà không phải là tài sản đi vay.
-Khi cán cân thanh toán thâm hụt, một nước có thể sử dụng dự trữ ngoại tệ
của nước mình nhưng cũng có thể đi vay các tổ chức quốc tế như IMF. Tuy
nhiên, những khoản tín dụng của IMF có thể hạn chế nhưng không thể tránh
khỏi điều chỉnh cán cân thanh toán bắng các chính sách kinh tế vĩ mô phù
hợp.
-Một nức dự trữ phù hợp (an toàn) là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ nước nào
muốn dựa vào nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế của mình. Như vậy,
một nước phải có nguồn dự trữ quốc tế từ khả năng sản xuất của chính nền

kinh tế đó và phải được tích luỹ từ chính nguồn tiết kiệm của quốc gia trước
khi tiếp cận nguồn vốn bên ngoài. Mức dự trữ quốc tế phải được duy trì theo
những biến động của cán cân thanh toán, bao gồm cán cân vãng lai và cán cân
vốn. Dự trữ quốc tế phải đủ lớn để gây dựng lòng tin đối với nhà đầu tư nước
ngoài.
-Trên thực tế, NHTƯ có trách nhiệm chính và trước hết là bảo vệ giá trị của
đồng bản tệ. Bởi vậy, dự trữ quốc tế chủ yếu sử dụng để can thiệp những biến
động tỷ giá trong ngắn hạn và hỗ trợ tỷ giá thực của đồng bản tệ trong mối
tương quan với một rổ tiền tệ của các nước đối tác thương mại chính về dài
hạn.
-Ngay cả khi theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, quyết định can thiệp trên
thị trường ngoại hối của NHTƯ thường mâu thuẫn với mục tiêu của chính
sách tiền tệ. Ví dụ, vào thời gian cán cân thanh toán tổng thể thặng dư quá
mức, mong muốn duy trì một tỷ giá ổn định buộc NHTƯ phải can thiệp để
mua ngoại tệ vào và bản đồng bản tệ ra. Tuy nhiên, điều này có thể mâu thuẫn
với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng. Trong trường hợp này,
công cụ mà NHTƯ có thể sử dụng được chính là thông qua thị trường mở để
17
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
trung hoà ảnh hưởng của việc tăng cung tiền do can thiệp trên thị trường
ngoại hối.
Như vậy, việc quản lý dự trữ ngoại hối không thế xem xét một cách độc lập
nà phải là một bộ phận không thể tách rời của chính sách kinh tế vĩ mô dưới
một chế độ tỷ giá nhất định, luôn gắn với mục tiêu kinh tế tổng thể của nền
kinh tế và những lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ
KẾT LUẬN
Như vậy từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, công tác quản lý dự trữ
ngoại hối đã đạt được những thành tích đáng kể trong việc góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu của chính sách tiền tệ, khuyến khích xuất khẩu. . . Dự trữ
ngoại hối của nước ta dự kiến trong những năm tới sẽ còn tiếp tục tăng. Chính

ví thế trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta mới đủ sức đáp ứng nhu cầu
ngoại hối của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động QLDTNH của chúng t a mới
bắt đầu có những bước khởi sắc nên không tráng khỏi những hạn chế không
nên có. Nhưng chúng ta đã và đang cố gắng khắc phục những khuyết điểm để
hoàn thiện hơn nữa chính sách quản lý dự trữ ngoại hối, đồng thời nhận thức
đúng đắn vai trò hết sức quan trọng của công tác này.
18
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu giảng dạy môn nghiệp vụ ngân hàng trung ương.
2. Tạp chí ngân hàng số 11 năm 2001.
3. Tạp chí ngân hàng số 8 năm 2002.
4. Tạp chí ngân hàng số 11 năm 2002.
5. Tạp chí ngân hàng số 1+2 năm 2003.
6. Tạp chí ngân hàng số 13 năm 2003.
7. Tạp chí ngân hàng số chuyên đề.
8.Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng sè 1+2 năm 2003
19
Đỗ Thị Thu Hiền - lớp 4031 Tiểu luận ngân hàng trung ương
.

20

×