Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

vai trò và tác động của nhtw đối với tttt việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.08 KB, 51 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

BÀI THẢO LUẬN:

Vai trò và tác động của NHTW đối với TTTT Việt Nam
MƠN: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

NHĨM THỰC HIỆN: NHĨM 9-TTQTB-K10
1. Phạm Long Hải
2. Nguyễn Thanh Quân
3. Nguyễn Thanh Giang
4. Trần Thu Hường
5. Trần Thu Hà
6. Đỗ Thị Thanh Xuân
7. Lương Minh Tuấn
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:


MỤC LỤC
Phần 3. Giải pháp và kiến nghị chung cho toàn bộ TTTT Việt Nam.................................................................48

Phần 1: LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta có thể nhận thấy trong những năm qua, thị trường tiền tệ
(TTTT) Việt Nam đã được hình thành và từng bước hồn thiện gắn liền với tiến
trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù TTTT
Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trị quan trọng trong
việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc
biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hịa nguồn vốn giữa các
ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán,


hoạt động an tồn và hiệu quả. Thơng qua các hoạt động trên TTTT, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia. TTTT đóng vai trị quan trọng trong việc truyền tải các tác
động chính sách tiền tệ đến nền kinh tế, được xem như là cơ sở hạ tầng cho lưu
chuyển tiền tệ, cơ sở hạ tầng tốt thì ln chuyển tiền tệ mới thơng suốt và ít rủi
ro. Có thể khẳng định rằng, TTTT Việt Nam đã góp phần nhất định trong q
trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

2


Để làm rõ hơn về những diễn biến cũng như những tồn tại, hạn chế của
TTTT và vai trò, tác động của NHTW lên TTTT Việt Nam, chúng em xin trình
bày đề tài “Thị trường tiền tệ Việt Nam” trong đó tập trung đi sâu nghiên cứu
ba vấn đề: Thị trường nội tệ liên ngân hàng, Nghiệp vụ thị trường mở, Đấu thầu
tín phiếu Kho bạc.

Phần 2: Thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam từ năm 2007
đến nay
I. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
1.Các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
Thời hạn giao dịch:
Chủ yếu là vay qua đêm, hoặc ngắn hạn từ 3-5 ngày là phổ biến
Trong vài tuần trở lại đây, các ngân hàng cho vay trên thị trường liên ngân
hàng đã bắt đầu chấp nhận cho vay với kỳ hạn dài hơn, tối đa có thể lên tới ba
tháng so với kỳ hạn tối đa không quá một tháng trong tháng 5 và 6/2008, khi các
NHTM còn thiếu hụt vốn (do tâm lý "phòng thân" và ít nhiều lo ngại ngân hàng
đi vay khơng trả nợ đúng hạn).

Hình thức giao dịch: Gồm 2 hình thức giao dịch chính:
- Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau và giao dịch qua điện thoại, fax, mạng vi
tính về các khoản vay và thực hiện chuyển tiền
- Hoạt động mua bán lẫn nhau tại trung tâm thanh toán bù trừ tại NHNN
Hoạt động liên NH Việt Nam trước đây rất hạn chế do tính cạnh tranh
trong hoạt động NH chưa gay gắt, nguồn vốn huy động chủ yếu chỉ dùng để
hoạt động tín dụng nên phần lớn các NH có dự trữ vượt mức, ít phải đi vay từ

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

3


NH khác, hệ thống thanh toán cũng chưa đảm bảo việc xử lý các khoản vốn
trong ngày.
Tuy nhiên, sau năm 2000 đến nay, cùng với sự phát triển của công nghệ
thông tin, NH đã mở ra nhiều hoạt động kinh doanh, đầu tư, thậm chí cả đầu cơ
nên nhu cầu vốn luôn rất lớn, nhất là một số NHTM cổ phần năng lực huy động
vốn có hạn nhưng lại muốn tăng quy mô hoạt động, kiếm lợi nhuận thật nhanh
nên đã dựa quá nhiều vào vốn vay liên NH để mở rộng tín dụng và ỷ lại nguồn
vốn này trong các trường hợp đảm bảo thanh tốn. Năm 2007, có 10 NH từ 20%
đến trên 80% dư nợ cho vay là sử dụng vốn từ liên NH
Doanh số giao dịch
Từ năm 2002 đến nay doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
tăng khoảng 20%/năm đã phản ánh phần nào vai trò của thị trường liên ngân
hàng với tư cách là “kênh” dẫn vốn quan trọng của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước cho biết hệ thống thanh tốn điện tử liên ngân hàng
hiện đã có khả năng xử lý khoảng 35.000 giao dịch/ngày với giá trị gần 10.000 tỉ
đồng. Vào ngày cao điểm, hệ thống này thực hiện tới 50.000 giao dịch với giá trị
60.000-70.000 tỉ đồng.

Theo Ngân hàng Nhà nước, sau khi việc nâng cấp giai đoạn hai được
hoàn thành vào cuối năm 2009, năng lực xử lý trung bình của hệ thống có thể
tăng lên gấp 10 lần so với hiện nay và sẽ tăng lên 2 triệu giao dịch/ngày vào năm
2012.
Hệ thống chuyển tiền điện tử Ngân hàng Nhà nước được triển khai áp
dụng từ năm 1998 nhằm đáp ứng nhu cầu điều chuyển vốn nội bộ tại ngân hàng.
Hiện đã có 68 đơn vị của ngân hàng sử dụng hệ thống này với khoảng 1.500
giao dịch/ngày, đạt giá trị trung bình 8.100 tỉ đồng/ngày.
Hệ thống thanh toán bù trừ điện tử đã có mặt tại 62 trong tổng số 63 tỉnh,
thành phố và đang hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả, góp phần phát triển
thanh tốn khơng dùng tiền mặt, mệnh giá lớn.

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

4


2. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
2.1 Lãi suất liên ngân hàng 2008
Năm 2008 là một năm đầy biến động của nền kinh tế, trong đó câu
chuyện về lãi suất là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất Và một điều đặc
biệt trong việc nghiên cứu về những hoạt động của ngân hàng trung ương trong
việc điều hành chính sách tiền tệ, đó là việc khác với ngân hàng trung ương các
nước khác, ngân hàng trung ương Việt Nam thường điều khiển theo kiểu bị
động, tức là dựa vào diễn bíên thị trường mới đưa ra được các chính sách chữa
cháy, cịn ngân hàng trung ương các nước khác là thì họ có chính sách điều tiết
sao cho thị trường đi đúng hướng họ đã đề ra, tức là chính sách tiền tệ chủ động.
Nguyên nhân và diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong năm 2008

Những năm trước đây điều kiện kinh doanh cuả các ngân hàng thuận lợi,

tốc độ tăng trưởng cao, nguồn vốn dồi dào thì chuyện các ngân hàng đi vay
mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng cũng có nhưng khơng phổ biến và
không thực sự sôi động
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

5


Chỉ đến năm 2008, năm nền kinh tế đầy biến động, đặc biệt là trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, khi khó khăn chồng chất khó khăn, nhiều ngân hàng rơi
vào tình cảnh thiếu vốn trầm trọng thì lúc đó thị trường liên ngân hàng mới thực
sự phát huy hết hiệu quả của nó và diễn biến trên thị trường này trở nên hết sức
sôi động.

Thời kỳ 4 tháng đầu năm 2008
Nguyên nhân và bối cảnh nền kinh tế
- Lạm phát tăng với mức độ chóng mặt => NHTW quyết định thực hiện
CSTT thắt chặt
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc => cầu vốn khả dụng tăng mạnh
+ Bắt buộc các Ngân hàng mua 20300 tỷ đồng tín phiếu NHNN để rút
tiền về => giảm mạnh dự trữ của các Ngân hàng, thu hẹp tín dụng ngân hàng để
làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông.
+ Thông báo rút 50000 tỷ đồng tiền gửi của Kho bạc Nhà nước gửi tại
các NHTM về NHTW=> nguy cơ làm giảm mạnh dự trữ của hệ thống Ngân
hàng
+ Tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu để hạn
chế các ngân hàng vay vốn, làm giảm cung vốn khả dụng và tăng cầu vốn khả
dụng.
Biểu đồ 1: Diễn biến các lãi suất chủ chốt


Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

6


Thêm vào đó là việc trong năm 2006, 2007, điều kiện kinh doanh thuận
lợi dẫn đến tăng trưởng tín dụng quá nóng,các ngân hàng ồ ạt cho vay và tăng
trên 30%, trong khi chất lượng tín dụng thấp làm cho nhiều khoản vay không
thu hồi được.Trong năm này, các Ngân hàng đã đổ nhiều vốn vào để các nhà
đầu tư mua chứng khoán và bất động sản, và đến đầu 2008 thì 2 thị trường này
dần tụt dốc khơng phanh, làm gia tăng nợ khó địi
Tất cả các lý do trên khiến NH thiếu vốn khả dụng trầm trọng, mất khả
năng thanh khoản cộng thêm yếu tố tâm lý =>Cầu VKD tăng mạnh=> Lãi suất
LNH tăng cao( 43%/ năm vào T2/08)
⇒ Lúc này, TT liên ngân hàng có vai trị rất quan trọng trong việc giải
quyết nhu cầu về VKD
Biểu đồ 2: Lãi suất cho vay qua đêm 4 tháng đầu năm 08

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

7


Vào thời điểm đó:
Các biện pháp mạnh tay của NHTW trong việc thực hiện CSTT thắt chặt
đã đẩy mặt bằng lãi suất lên rất cao, các Ngân hàng không đủ vốn để thực hiện
các nghĩa vụ về DTBB, mua tín phiếu... nên đã lao vào cuộc đua tăng lãi suất,
không chỉ là lãi suất huy động tiền gửi tăng lên từng ngày để huy động trong dân
mà còn là tăng mạnh lãi suất đi vay trên thị trường liên ngân hàng
Cuộc đua lãi suất huy động VND nhằm đáp ứng nhu cầu tiền đồng căng

như dây đàn của các ngân hàng đã khiến lãi suất VND vay qua đêm trên thị
trường liên ngân hàng ngày 19/2 đã leo lên mức khơng tưởng 43%. Cuối tuần
trước đó, mức lãi suất này mới chỉ 25% và mức cao nhất trong cả năm 2007
cũng chỉ là 17%.
Các NH thường vay mượn lẫn nhau dưới 2 hình thức: Nhận tiền gửi của
các TCTD khác và vay các TCTD khác. Để tránh phải làm những thủ tục chặt
chẽ của một hợp đồng vay vốn, các NH thường dùng hình thức tiền gửi. Tuy
nhanh gọn, nhưng hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt trong những
thời điểm trong hệ thống có dấu hiệu mất khả năng thanh khoản. Tháng 2 vừa
rồi đã có tình trạng NH A khơng địi được NH B, vì B khơng địi được NH C, C
khơng trả được nợ vì người vay của C là NH D đang thiếu vốn khả dụng để đáp
ứng lập tức nhu cầu thanh toán của khách hàng… cứ thế phạt lẫn nhau lãi suất

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

8


40%/năm, cùng lơi nhau vào “vịng xốy” đua tăng lãi suất. Đó quả là một vịng
luẩn quẩn mà các ngân hàng bị xoáy vào trong giai đoạn này.
Trong những ngày căng thẳng về vốn như vậy rất nhiều ngân hàng thiếu
vốn đã chấp nhận vay với mức lãi suất cắt cổ nhưng lại xảy ra tình trạng là lãi
suất cao mà vẫn không vay được, các ngân hàng “ép giá” nhau, đặc biệt là các “
đại gia “ trên thị trường
Chiều 20/2/08 tình trạng căng thẳng về tiền đồng trên thị trường đang ở
mức rất cao, khi nhiều ngân hàng cần tiền để đảm bảo thanh khoản, thực hiện
các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước (chẳng hạn như việc mua 20.300 tỉ tín
phiếu bắt buộc vào ngày 17/3), với khách hàng...
Tuy nhiên, ngay cả ở mức lãi suất kỷ lục này, nhiều ngân hàng nhỏ phải
chấp nhận nhưng cũng không vay được vốn để cải thiện khả năng thanh khoản,

bởi nguồn cho vay hạn chế. Chính từ nguồn cho vay hạn chế đã nảy sinh tình
trạng đầu cơ, tích trữ và khiến cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng khơng
ngừng

tăng

cao.

Vì vậy, yếu tố tâm lý của những người trong cuộc chíên giữa các ngân hàng sẽ
đem đến khó khăn lớn hơn rất nhiều.
Cùng một lúc phải giải quyết rất nhiều vấn đề mâu thuấn như vậy, Chính
phủ và NHNN vẫn xác định mục tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát, vì vậy đi
đơi với việc thực hiện CSTT thắt chặt, NHNN đã hỗ trợ cho các NHTM, khơng
để các NH rơi vào tình trạng mất thanh khoản nghiêm trọng. Tại Công điện 02
ngày 26/2/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các NHTM Nhà
nước tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở và các kênh tái cấp vốn khác
của Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo khả năng thanh toán và hỗ trợ vốn cho các
NHTM trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất tối đa bằng lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở tại phiên giao dịch gần nhất cộng với (+) 1,0%/năm. Điều này là
do các NHTMNN trường vốn hơn.

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

9


• Diễn biến tiếp theo là vào đầu tháng 4/2008 khi các NHTM buộc phải
áp dụng trần lãi suất huy động, cụ thể là thực hiện thỏa thuận giảm trần lãi
suất huy động từ 12%/năm xuống còn 11%/năm đối với kỳ hạn năm và còn thấp
hơn nữa đối với kỳ hạn ngắn hơn.

Nguyên nhân của việc áp dụng trần lãi suất đó là do NHNN muốn:
+ Ngăn chặn cuộc đua lãi suất huy động của các NH như thời kỳ tháng 2
+ Bình ổn lãi suất trên thị trường, giảm lãi suất huy động để không cho lãi
suất cho vay trên thị trường tăng quá cao, gây ảnh hưởng lớn đến các doanh
nghiệp. Một thực tế cho thấy trong năm 2008 rất nhiều doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ điêu đứng vì thiếu vốn, tìm đến ngân hàng thì lãi suất
cho vay q cao( có lúc lên tới 21%, đó là cịn chưa kể đến các khoản phí). Với
lãi suất cao như vậy thì dù doanh nghiệp làm ăn hiệu quả cũng chưa chắc đã đủ
để trả lãi ngân hàng, huống chi năm 2008 lại còn là năm lạm phát cao, giá cả
nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, nền kinh tế biến động, rất khó khăn cho sản
xuất kinh doanh. Khơng ít doanh nghiệp đã phá sản.
Một nghịch lý lại xuất hiện ngay từ ngày đầu thực hiện thỏa thuận mới về
trần lãi suất huy động.Tình hình người dân gửi/rút tiền diễn ra vẫn tương đối
bình thường. Tuy nhiên, đã xuất hiện dấu hiệu thị trường nội tệ liên ngân
hàng “nóng” lên với số lượng và lãi suất các khoản vay tăng khá mạnh so một,
hai hôm trước. Nhiều ngân hàng thừa vốn nhưng hạn chế cho các ngân hàng
khác vay, các ngân hàng nào cho vay thì đưa ra mức lãi suất khá cao. Trước
ngày thực hiện thỏa thuận mới về trần lãi suất huy động một tuần, lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng qua đêm mới từ 5-7%/năm, kỳ hạn một tuần từ 77,5%/năm, kỳ hạn một tháng cao nhất cũng chỉ 10%/năm! Nhưng đến ngày 2.4 ngày đầu tiên thực hiện thỏa thuận mới về trần lãi suất - lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng qua đêm đã vọt lên 12%/năm; ngày hôm sau (3.4) lại vọt tiếp lên
mốc 15%/năm, cao gấp đơi, gấp ba tuần trước đó!
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

10


Sự tăng vọt của lãi suất liên ngân hàng cho thấy nhiều ngân hàng thương
mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại cổ phần mới chuyển từ ngân hàng nông thôn lên ngân hàng đơ thị,
vẫn thiếu tính thanh khoản.

Tính thanh khoản gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân:
+ Do các ngân hàng đang phải thực hiện mức dự trữ bắt buộc đầu tháng
nên tăng nhu cầu vay thanh khoản. Bên cạnh đó, thơng thường vào những ngày
đầu tháng thường là thời gian đáo hạn tiền gửi tiết kiệm các kỳ hạn ngắn, cộng
thêm việc ngày 2/4, thành viên VNBA thực hiện đồng thuận điều chỉnh giảm
lãi suất huy động nên hầu hết các ngân hàng tạm thời chưa cho vay trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng để nghe ngóng diễn biến thị trường.
+ Khi giảm lãi suất trần huy động tiền gửi từ dân cư, ngân hàng không thể
khai thác nguồn vốn nhiều từ kênh tiền gửi huy động (do áp dụng trần lãi suất
khiến cho lãi suất huy động không thể tăng quá cao, do lãi suất thực âm không
hấp dẫn người gửi tiền, lượng tiền huy động từ dân cư sẽ giảm) nên các ngân
hàng thiếu vốn, thiếu thanh khoản phải quay sang thị trường liên ngân hàng để “
vay nóng”
+ Việc huy động tiền gửi dồn dập với lãi suất cao đột biến trước đó, nay
đã đến kỳ đáo hạn.
+ Yêu cầu giải ngân các khoản cho vay các nhà đầu tư trên các thị trường,
nhất là thị trường chứng khốn (đã có dấu hiệu phục hồi và ngừng giải chấp cầm
cố cổ phiếu); do thị trường nhà đất có thơng tin về việc sẽ mở rộng Thủ đô Hà
Nội, sự trở lại của thông tin thành phố hai bên bờ sông Hồng, giảm thuế suất
thuế giao dịch bất động sản xuống còn một nửa,...
+ Trong khi đó về phía cung, những ngân hàng dư vốn khả dụng (chủ yếu
là các ngân hàng thương mại nhà nước và có một vài ngân hàng thương mại cổ
phần lớn) đã không sẵn sàng cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Những NH
thừa tiền trước đây đẩy mạnh cho NH khác vay thì nay lại rút vốn về.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

11


Một mặt, do bản thân các ngân hàng này dư dả vốn khả dụng cũng chỉ

mang tính tạm thời, họ vẫn phải có sự phịng vệ cần thiết; nhất là các ngân hàng
thương mại nhà nước còn phải chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước về
Ngân hàng Nhà nước. Mặt khác, các Ngân hàng chưa thực sự chia sẻ khó khăn
với nhau
Tuy vậy, vấn đề khơng thể giải quyết theo "tình cảm" nữa, mà phải thực
hiện theo quy định tại Công điện 02 ngày 26/2/2008 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước. Lãi suất thị trường mở vào thời điểm đó ở mức 9%/năm, thì lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng đã cao gấp rưỡi, thậm chí cịn có thể cao hơn nữa.
VNBA và các chi nhánh ngân hàng thương mại Nhà nước TPHCM và Hà
Nội đề nghị Ngân hàng Nhà nước điều hành hoạt động của thị trường mở một
cách nhịp nhàng, phù hợp với hoàn cảnh để hỗ trợ các ngân hàng thương
mại đảm bảo khả năng thanh khoản và đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng thời có
biện pháp xử lý nghiêm các ngân hàng cho vay trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng với lãi suất cao, vi phạm Công điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/2/2008 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Tuy nhiên, diễn biến này có thể tác động đến tâm lý: dưới mắt người dân,
doanh nghiệp và nhà đầu tư, một số NH vẫn chưa vượt qua khó khăn về thanh
khoản dù NH Nhà nước đã cam kết "đứng sau lưng" để hỗ trợ. Họ chưa yên tâm
khi một số NH vẫn phải đánh vật với chuyện cân đong vốn liếng hơn là chú tâm
cho vay, phục vụ khách hàng.
Không phải NH nào cũng có thể vay tiền từ NH Nhà nước. Trong đó có
NH khơng có tài sản đủ chuẩn để vay tiền. Không vay được từ NH Nhà nước,
những NH này phải vay từ các NH khác và chấp nhận bị "chặt" LS cao. Muốn
bình ổn thị trường thì phải mạnh tay hơn, kể cả phải đa dạng hơn hình thức cho
vay hỗ trợ đối với các NH thương mại.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

12



Thời kỳ giữa năm:Lãi suất liên ngân hàng giảm dần
Biểu đồ 3: Lãi suất liên ngân hàng và các lãi suất khác thời kỳ từ tháng 7
đến hết năm

(nguồn:NHNN)
• Ngày 14 và 15-5, lãi suất liên NH có xu hướng giảm dần. Lãi suất tuần
từ mức 22-24%/năm giảm còn 19%/năm. Lãi suất qua đêm dao động ở mức
20%/năm.
Lãi suất liên NH có xu hướng giảm dần là do:
+ NH Nhà nước bàn các biện pháp nhằm tiến tới bỏ trần LS huy động.
Khi bỏ trần lãi suất huy động, những NH đang phải vay vốn trên thị
trường liên NH với LS rất cao có thể mạnh tay tăng lãi suất để huy động vốn từ
dân cư và doanh nghiệp,từ đó khơng bị khó khăn về vốn và khơng phải đi vay
nóng trên thị trường liên ngân hàng. Trước kia các NH này chỉ có thể trả cho
người gửi tiền với LS cao nhất là 12%/năm, trong khi đi vay liên NH lãi suất lên
đến 19-20%/năm.
Các TCTD đã điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay trên cơ sở lãi suất
cơ bản của NHNN; do vậy đã thu hút thêm được nhiều nguồn tiền trong xã hội,
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

13


đáp ứng vốn vay cho nền kinh tế, tổng phương tiện thanh toán tháng 5-2008 ước
tăng 1,18% so với tháng trước và tăng 3,37% so với cuối năm 2007
+ Để hỗ trợ vốn khả dụng cho các ngân hàng, ổn định thị trường, đồng
thời kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, từ đầu tháng 6 , NHNN
tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp như: Mua giấy tờ có giá với khối lượng tương
đối lớn (từ 8.000-15.000 tỷ đồng/phiên), tái cấp vốn cho các NHTM cổ phần
nhỏ.

Vốn khả dụng của các NH khơng căng thẳng như trước
• Ngày 19/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số
1849/QĐ-NHNN về lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đối với các ngân hàng.

Theo đó, kể từ ngày 19/8/2008, mức lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù
trừ

được

điều

chỉnh

từ

mức

0,03%/ngày

(10,8%/năm)

lên

0,0417%/ngày(15%/năm).
Cùng ngày, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Cơng văn số
7585/NHNN-CSTT hướng dẫn việc áp dụng lãi suất vay vốn bằng đồng Việt
Nam giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng.Theo công văn

trên, từ ngày 19/8/2008, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động và lãi
suất cho vay bằng đồng Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên
ngân hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố để áp dụng trong từng thời kỳ.
• Từ đầu tháng 9.2008 đến tháng 10, lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng có xu hướng giảm dần, đặc biệt sau khi NHNN quyết định tăng lãi suất tiền
gửi dự trữ bắt buộc từ 3,6%/năm lên 5%/năm và cho phép sử dụng tín phiếu
NHNN bắt buộc như công cụ trên thị trường mở.

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

14


Ngày 30.9, lần đầu tiên trong năm 2008, lãi suất cho vay VND kỳ hạn 1
ngày trên thị trường liên ngân hàng thấp nhất, chỉ còn 8%/năm (giảm hơn 30%
so mức lãi suất thời điểm cao nhất trong những tháng đầu năm 2008).
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là lãi suất cho vay kỳ hạn 30 ngày và 61 ngày vẫn ở
mức khá cao - từ 16,4%-17%/năm. Điều này cho thấy các ngân hàng khơng cịn
thiếu các khoản tiền hỗ trợ thanh khoản, nhưng vẫn thận trọng với diễn biến tiền
gửi trong những tháng cuối năm.

Thời kỳ cuối năm
Trong những tháng cuối năm khi lạm phát đã được khống chế, cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Mỹ đã có dấu hiệu lan ra khắp toàn cầu, NHNN đã chỉ
đạo theo hướng nới lỏng chính sách tiền tệ, bơm vốn cho hệ thống ngân hàng và
hỗ trợ các doanh nghiệp để kích cầu nền kinh tế
• Ngày 3/11/2008, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục có loạt quyết định quan
trọng theo hướng nới lỏng hơn


chính sách tiền tệ

, tập trung hỗ trợ hoạt động tín dụng

của các ngân hàng thương mại và tiếp vốn cho nền kinh tế.
Lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại có

dấu hiệu dư thừa

, từ

30.000 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng và sau đó là 50.000 tỷ đồng. Ngồi 50.000 tỷ
đồng nói trên, lượng vốn khả dụng của các ngân hàng còn được tiếp thêm từ
20.300

tỷ

Lượng vốn khả dụng

đồng

tín

phiếu

bắt

buộc

giải


phóng

trước

hạn.

dư thừa thời gian tới của các ngân hàng thương mại có thể lên tới

trên con số 100.000 tỷ đồng. Đây cũng là sự sung sức chưa từng có kể từ đầu
năm 2008 đến nay
Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cống bố các Quyết định điều chỉnh
giảm các mức lãi suất (biểu đồ 1) và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các Ngân hàng
thương mại (NHTM) đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho vay; thị
trường phản ứng khá tích cực đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
của NHNN.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

15


Trong năm 2008 có 4 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng
VND: từ 11% ->10% ->8% ->6%
Như vậy, các động thái của NHNN như:
+ Giảm liên tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc=> cầu vốn khả dụng giảm
+ Giảm liên tiếp lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản=> cung vốn khả
dụng tăng và lãi suất liên ngân hàng giảm( do không được vượt quá 150% lãi
suất cơ bản)
+ Bơm vốn qua kênh nghiệp vụ thị trường mở, giải phóng 20300 tỷ tín
phiếu trước hạn=> tăng cung vốn khả dụng

Tất cả các yếu tố đó đã làm giảm lãi suất liên ngân hàng
Phản ứng bước đầu của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng là khá
tích cực đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam:
Ngày 5/12/2008, lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm và kỳ hạn dưới 1
tháng từ 9,5-10,5%/năm, giảm khoảng 1-1,5%/năm so với ngày 4/12/2008; Thị
trường tiền tệ tiếp tục dư cung vốn khả dụng, NHNN Việt Nam tiếp tục điều
hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các NHTM quản trị tốt
vốn khả dụng
4.2 Lãi suất thị trường liên ngân hàng đầu năm 2009
Tình hình lãi suất trên thị trường nội tệ nói chung 3 tháng đầu năm 2009
Đối với lãi suất bằng VND, NHNN cho biết, so với cuối năm 2008, mặt
bằng lãi suất huy động giảm từ 0,5-1,5%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 2,54%/năm. Tuy nhiên từ giữa tháng 02/2009 đến nay, một số ngân hàng thương
mại (NHTM) đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động với mức tăng từ 0,3-1%/năm.
Đến ngày 12/3/2009, lãi suất huy động bằng VND kỳ hạn 12 tháng của
các NHTM nhà nước ở mức khoảng 7,58%/năm, của các NHTM cổ phần ở mức
khoảng 7,74%/năm. Lãi suất cho vay bằng VND của khối NHTM Nhà nước phổ
biến ở mức 8,5-10%/năm đối với cho vay ngắn hạn, 10-10,5%/năm đối với cho
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

16


vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay được hỗ trợ lãi
suất là 4-5%/năm (riêng các doanh nghiệp xuất khẩu có cam kết bán lại ngoại tệ
cho ngân hàng lãi suất chỉ còn 0,5-1,5%/năm); lãi suất cho vay bằng VND của
khối NHTM cổ phần phổ biến ở mức 10-10,5%/năm, lãi suất cho vay phục vụ
nhu cầu đời sống và cho vay thông qua thẻ tín dụng phổ biến ở mức 1215%/năm.
Từ đầu tháng 2/2009 đến ngày 13/3/2009, 85 NHTM thuộc đối tượng
tham gia thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã triển khai kịp thời, có hiệu quả các
biện pháp và đã giải ngân được 144.312 tỷ đồng số tiền vay, trong đó NHTM

nhà nước 114.537 tỷ đồng, NHTM cổ phần 26.837 tỷ đồng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh 2.938 tỷ đồng
Hiện nay, mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 6,87,5%/năm, lãi suất cho vay ở mức 8-10,5%/năm. Riêng lãi suất cho vay đối với
các khoản cho vay được hỗ trợ lãi suất chỉ còn 4-6%/năm; lãi suất cho vay phục
vụ nhu cầu đời sống và cho vay thơng qua thẻ tín dụng là 12-14%/năm.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng :
Lãi suất thị trường liên ngân hàng trong thời gian qua cũng có xu hướng
giảm (tháng 9/2008 là 15%/năm, đến tháng 12/2008 chỉ còn 9.5%/năm, cho đến
2 tháng đầu năm 2009 chỉ là 8%/năm). Số lượng giao dịch trên thị trường ít đi,
tính năng động của thị trường liên ngân hàng giảm.
Tuy nhiên, kể từ sau khi chính phủ đưa ra gói kích cầu 1700 tỷ VND
nhằm chống lại ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu, thị trường tiền tệ
liên ngân hàng đã có dấu hiệu khởi sắc.
1/01/2009:

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

17


Theo số liệu báo cáo nhanh của NH Nhà nước (NHNN), lãi suất (LS) giao
dịch bình quân bằng VND trên thị trường liên NH ở hầu hết các kỳ hạn đều có
xu hướng giảm, ngoại trừ LS giao dịch kỳ hạn 6 tháng tăng nhẹ so với LS giao
dịch tuần trước đó.
Trong đó, LS giao dịch bình qn kỳ hạn qua đêm và 3 tháng có mức
giảm tương đối lớn, cụ thể: LS bình quân cho vay qua đêm là 5,64%/năm, 1 tuần
là 6,75%/năm, 2 tuần là 7,07%/năm, 1 tháng là 7,82%/năm, 3 tháng là
8,50%/năm, 6 tháng là 11,73%/năm và kỳ hạn 1 năm là 8,00%/năm.
10/2/2009:
Theo số liệu báo cáo nhanh của các tổ chức tín dụng (TCTD) đến ngày

10/2, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng kỳ hạn 1 tháng có mức giảm nhiều nhất lên tới 1,09%/năm, các kỳ hạn cịn
lại nhìn chung mức biến động khơng nhiều so với tuần trước đó.
Các giao dịch phát sinh chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn, trong tuần không phát
sinh các giao dịch kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng.
Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần qua cụ thể như sau (đơn
vị: %/năm):

Kỳ hạn

Qua đêm

1 tuần

2 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng

VND

6.20

7.08


7.35

6.78

8.04

-

-

21/02/2009
Số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng, trong tuần, lãi suất giao dịch
bình quân bằngVND liên ngân hàng có xu hướng tăng nhẹ.Và chủ yếu tăng ở
các kỳ hạn ngắn.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

18


Lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng ở hầu hết các kỳ hạn đều tăng chủ yếu dưới 0,1%/năm. Riêng kỳ hạn 1
tháng có mức tăng nhiều nhất lên tới 0,85%/năm. Lãi suất giao dịch bình quân
kỳ hạn 12 tháng cao nhất, lên tới 8,17%/năm.
24/2/2009
Theo số liệu báo cáo nhanh của các tổ chức tín dụng đến ngày
24/02/2009, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng có xu hướng tăng nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn, tuy nhiên mức tăng
không nhiều (chủ yếu dao động trong khoảng trên dưới 0,5%/năm), trong đó lãi
suất kỳ hạn 6 tháng có mức tăng cao nhất lên tới 1,09%/năm. Riêng lãi suất giao
dịch bình quân kỳ hạn 12 tháng là 8%/năm, giảm 0,17%/năm so với tuần trước

đó.
Đơn vị: %/năm
Kỳ hạn

Qua đêm

1 tuần

2 tuần

1 tháng

VND

7,00

7,59

7,85

8,00

3 tháng
8,25

6 tháng

12 tháng

8,93


8,00

Từ 5/3-11/3:
Lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng tuần từ 5/3 đến 11/3 có xu hướng giảm ở hầu hết các kỳ hạn và không phát
sinh giao dịch kỳ hạn 12 tháng.
Theo số liệu báo cáo nhanh của các tổ chức tín dụng, mức giảm trong giao
dịch bình quân liên ngân hàng bằng VND không nhiều, chủ yếu dao động trong
khoảng từ 0,1%/năm đến 0,4%/năm.
Riêng lãi suất giao dịch bình quân kỳ hạn 6 tháng là 8,78%/năm, tăng
0,33%/năm so với tuần trước đó. Đáng chú ý, trong tuần không phát sinh giao
dịch kỳ hạn 12 tháng.
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

19


Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần qua (từ 5/3 đến 11/3) cụ
thể như sau:
Đơn vị: %/năm
Kỳ hạn Qua đêm 1 tuần 2 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng


VND

7,65

8,36

8,78

-

6,31

7,06

7,53

Căn cứ vào diễn biến lãi suất liên ngân hàng từ đầu năm 2009 đến nay
chúng ta có một số biểu đồ thể hiện sự thay đổi lãi suất qua các kỳ hạn như sau:

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

20


Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

21



Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

22


Tuy nhiên, từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền
kinh tế, điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày
26/11/2009 tăng thêm 5,4% so với ngày 25/11/2009; lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng thêm 1% kể từ tháng
12/2009.
Trong các thời điểm khác nhau trong năm 2009, NHNN đã linh hoạt điều
chỉnh giảm và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khấu tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm và tăng lãi suất huy động
và cho vay phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay tín dụng
theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
Từ đầu tháng 12/2009 trước những biến chuyển mới của thị trường trong
nước và thế giới, NHNN đã chủ động và linh hoạt điều chỉnh lãi suất cơ bản lại
lên mức 8%/năm sau 10 tháng liên tiếp giữ ở mức 7%/năm (kể từ tháng 2/2009);
lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng tăng từ 7% lên mức 8%/năm và
lãi suất tái chiết khấu của NHNH đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm lên
Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

23


mức 6%/năm; biên độ tỷ giá mới giảm từ +/- 5% xuống còn +/-3%, tỷ giá sàn
nâng lên là 17.422 và tỷ giá trần là 18.500 VND/USD; tỷ giá bình quân liên
ngân hàng cũng sẽ được tăng lên mức 17.961 VND/USD và kịp thời cấp giấy
phép tái nhập khẩu vàng …
Cuối tháng 12, các ngân hàng gặp khó khăn trong kênh huy động vốn

trên thị trường 1, các ngân hàng thương mại đổ mạnh vào kênh tìm kiếm
nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng khiến doanh số giao dịch cũng
như lãi suất thị trường này lại tăng nóng.
Tiếp nối xu thế tăng mạnh của các tuần trước đó, theo tính tốn của
NHNN, tuần qua lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên NH tiếp tục
tăng mạnh và mức lãi suất bình quân của tất cả các kỳ hạn đã tăng lên mức trên
10%/năm. Với mức dao động của các kỳ hạn khoảng 0,24% đến 1,08%/năm, kỳ
hạn 6 tháng tuần qua chứng kiến mức tăng lớn nhất và lãi suất cho vay VND cao
nhất trên thị trường tiếp tục đạt đỉnh quy định 12%/năm.
Một điểm đáng lưu ý là lãi suất bình quân qua đêm hiện cũng lên mức
10,71%/năm, tăng tới 0,66%/năm so với kỳ trước trong lúc lãi suất bình qn
các kỳ hạn cịn lại đều từ mức 11,3%/năm trở lên. Riêng lãi suất bình quân kỳ
hạn 1 tuần hiện cũng đạt tới 11,66%/năm và đây là kỳ hạn có doanh số phát sinh
lớn nhất trong tuần qua.
Trong một tuần thôi, doanh số giao dịch VND tuần qua tăng thêm 8.507 tỉ
đồng và đạt tổng 120.350 tỉ đồng (tương đương 24.070 tỉ đồng/ngày) cho thấy
nhu cầu vốn của các NHTM vẫn đang ở mức cao. Khi mà phần lớn các kỳ hạn
đều có mức lãi suất trên 11,3%/năm, dễ hiểu nguồn vốn tìm kiếm trên thị trường
liên NH sẽ chỉ dùng đáp ứng các khoản vay phục vụ đời sống với lãi suất cho
vay hiện đang phổ biến quanh mức 15-17%/năm.

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

24


Việc tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường liên NH với doanh số giao dịch
lớn và lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm – gửi tiền, vốn trái với thông lệ thị
trường như đánh giá của nhiều chuyên gia cho thấy khoảng chênh lệch giữa nhu
cầu vay và khả năng cung tiền của các NHTM là rất lớn. Một con số được đưa ra

từ Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia cho thấy, trong lúc dư nợ cho
vay tăng trưởng khoảng 35%, nhưng cung tiền chỉ tăng được 25%.
Với “trần” lãi suất huy động VND tối đa 10,49% theo chỉ định của
NHNN, biểu lãi suất huy động VND của hàng loạt NHTM chứng kiến sự biến
dạng chưa từng có với chính sách áp dụng một lãi suất cho hầu hết các kỳ hạn.
Có đến gần 20 kỳ hạn gửi tiền từ 3 tuần đến 60 tháng tại nhiều NHTM như
Oceanbank, SCB, VietABank hay GP.Bank đồng loạt được áp dụng một mức lãi
suất 10,49%/năm và không phân biệt số tiền gửi.
Chưa dừng ở đây, các NHTMCP vẫn không “từ bỏ” kỳ vọng đẩy mạnh
nguồn vốn huy động từ nhóm khách hàng dân cư, tổ chức với hàng loạt các
chính sách tặng tiền và tặng thêm lãi suất thưởng.
Những diễn biến trên đây, theo đánh giá của một số chuyên gia, phản ánh
thực tế căng thẳng nguồn vốn và NHNN theo đó cần can thiệp mạnh với việc tái
cấp vốn cho các NHTM với lãi suất 8%/năm, giúp làm giảm nhiệt lãi suất trên
thị trường liên NH.
Kết thúc năm 2009, tổng mức tín dụng tăng 37,73%, nguồn vốn huy động
vốn tại các tổ chức tín dụng tăng 28,7%, tổng phương tiện thanh toán tăng
28,67%, lạm phát được kiềm chế ở mức 6,88%.
Tóm lại, trong năm 2009, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một
cách linh hoạt và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế,
góp phần duy trì các chỉ số tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở mức hợp lý.

Thị trường tiền tệ - Nhóm 9-TTQTB-K10

25


×