Mục Lục
Lời nói đầu
Chơng I: Môi trờng văn hoá và tác động của nó đối với hoạt động
kinh doanh quốc tế
I. Khái quát về môi trờng kinh doanh quốc tế và sự cần thiết phải nghiên cứu
1. Khái quát về môi trờng kinh doanh quốc tế
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trờng kinh doanh
II. Khái quát môi trờng văn hoá
1. Khái niệm
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu môi trờng văn hoá
III. Tác động của môi trờng văn hoá đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
Chơng II: Môi trờng văn hoá Mỹ
I. Sơ lợc về lịch sử và nguồn gốc con ngời nớc Mỹ
II. Nền văn hoá Mỹ
1. Ngôn ngữ và bản săc dân tộc
2. Tôn giáo
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con ngời Mỹ
4. Quan niệm về kinh tế - xã hội của con ngời Mỹ
Chơng III: Đôi điều cần lu ý khi tiếp cận với các doanh nhân Mỹ
I. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng, phơng thức giao dịch kinh doanh của các
doanh nhân Mỹ
II. Đạo đức và văn hoá doanh nhân Mỹ
1. Quan niệm về đạo đức trong kinh doanh
2. Văn hoá doanh nghiệp Mỹ qua suy nghĩ của doanh nhân Mỹ
III. Quan hệ giao tiếp và đàm phán trong kinh doanh
1. Vấn đề giao tiếp và đối thoại
2. Danh thiếp và sự tôn trọng cấp bậc trong kinh doanh
3. Thoả thuận, mặc cả và đàm phán
4. Làm việc với phụ nữ
5. Kinh doanh ở cộng đồng ngời thiểu số
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Lời nói đầu
Sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới diễn biến phức tạp đầy biến động.
Trong tình hình đó nổi lên những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế: Hoà bình,
ổn định và hợp tác để cùng phát triển, ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các
quốc gia và dân tộc trên thế giới; xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh
tế, thơng mại, chính trị ngày càng tăng, ý thức độc lập tự chủ, ý thức về chủ quyền
và bản sắc dân tộc ngày càng đợc nâng cao, nổi bật là xu thế vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ chính trị xã hội khác nhau.
Trớc xu thế nh vậy, Tổng thống Bill - Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995) là phù hợp với xu thế phát triển của thế giới
hiện nay. Đó là một mốc quan trọng, chấm dứt 50 năm quan hệ bất bình thờng, mở
ra một trang sử mới trong quan hệ hai nớc.
Xuất phát từ nhận thức trên, việc nghiên cứu quan hệ Việt - Mỹ là rất cần
thiết vì đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, thời sự quan trọng đợc khu vực và
thế giới quan tâm nghiên cứu. Qua đó làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra
trong quan hệ giữa hai nớc, tiến tới đề xuất các kiến nghị, đóng góp vào chính
sách đối ngoại của Việt Nam đối với Mỹ.
Từ thực tiễn quan hệ Việt - Mỹ hơn 5 năm qua kể từ khi hai nớc bình th-
ớng hoá quan hệ ngoại giao cho thấy sự lựa chọn đề tài này là phù hợp và cần
thiết.
Thời gian 5 năm cũng mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình lâu dài còn đang
tiếp tục tiếp diễn trong tơng lai, nhiều vấn đề cha bộc lộ hết còn đang tiềm ẩn. Do
vậy đề tài chỉ đánh giá quan hệ Việt - Mỹ 5 năm qua để thấy rõ những biểu hiện
cụ thể của hai nớc. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết và đa ra những kiến
nghị mới.
Do hiểu biết và trình độ có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận đợc sự chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Chơng I
Môi trờng văn hoá và tác động của nó đối
với hoạt động kinh doanh quốc tế
I. Khái quát về môi trờng kinh doanh quốc tế và sự cần thiết
phải nghiên cứu
1. Khái quát về môi trờng kinh doanh quốc tế
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, trình độ
nhận thức, tập quán... nên mỗi quốc gia tồn tại môi trờng kinh doanh không giống
nhau. Môi trờng kinh doanh là sự tổng hợp và tơng tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây
ảnh hởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh
hởng không chỉ đối với các hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nớc
ngoài đang hoạt động tại nớc sở tại, mà còn ảnh hởng đến cả kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp kinh doanh nội địa. Vì vậy, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả,
các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am hiểu nhất định về môi trờng kinh
doanh nớc ngoài.
Môi trờng kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trờng thành phần, nh môi trờng
luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá, cạnh tranh, tài chính... Nó là toàn bộ các điều
kiện bên trong và bên ngoài nớc có ảnh hởng trực tiếp đến các hoạt động của doanh
nghiệp, chi phối bình quân hoạt động tức là sự thành công hoặc thất bại đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp ở nớc ngoài. Chúng ta tác động và chi phối mạnh
mẽ đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp
phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động của mình cho thích
ứng, nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong kinh
doanh. Trong những điều kiện mở cửa xu hớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và khu vực
hoá nền kinh tế thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh quốc tế
ngày càng đợc mở rộng và phát triển. Thích ứng với xu hớng này, các doanh nghiệp
đang từng bớc tăng dần khả nănghoà nhập, thích ứng của mình với điều kiện mới của
môi trờng kinh doanh trong nớc và ngoài nớc nhằm tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn
chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trờng kinh doanh
Tại mỗi quốc gia cũng nh từng khu vực lãnh thổ của quốc gia mà doanh nghiệp
đang và sẽ hoạt động đều có những đặc trng khác nhau về môi trờng kinh doanh. Các
nhân tố, điều kiện của môi trờng kinh doanh rất phong phú, đa dạng và luôn biến đổi
khá phức tạp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am hiểu
về môi trờng kinh doanh và đa ra cách ứng xử cho phù hợp, nhằm đạt đợc hiệu quả cao
trong kinh doanh.
Sự thành công nhiều hay ít trong hoạt động kinh doanh quốc tế của các nhà kinh
doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức và hiểu biết của họ về môi
trờng kinh doanh mà họ vận hành các hoạt động của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu
môi trờng kinh doanh quốc tế là sự cần thiết cho mọi ngời, trớc hết là cho những ai
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Nó trang bị kiết thức cơ bản để các cán
bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh quốc tế có thể đa ra đợc những quyết định tác
nghiệp hợp lý nhằm tối đa hoá mong muốn của họ.
Môi trờng kinh doanh quốc tế tác động chi phối đến mục đích, hình thức và kết
quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiểu biết tốt về môi trờng kinh doanh mà mình hoạt
động sẽ cho phép các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có đợc những đánh giá một
cách hệ thống các ý tởng kinh doanh. Kiến thức về địa lý, về sự phân bố dân c, hiểu
biết về lịch sử sẽ gợi mở cho các nhà kinh doanh quốc tế hiểu rõ hơn chức năng hoạt
động cuả mình. Kiến thức chính trị, luật pháp trong nớc và quốc tế, những đánh giá về
kinh tế đang có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc nghiên cứu môi trờng cạnh tranh cũng hết sức cần thiết, môi trờng này
đang tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, buộc doanh
nghiệp phải có sự điều chỉnh linh hoạt, thay đổi các biện pháp, các chức năng hoạt
động... của mình cho thích ứng với các điều kiện mới.
I. Khái quát môi trờng văn hoá
Môi trờng kinh doanh với t cách là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các môi tr-
ờng thành phần là những bộ phận không tách rời, giữa chúng có sự tác động qua lại và
ảnh hởng lẫn nhau. Nếu đứng trên góc độ thực tế, tức là xem xét môi trờng ở trạng thái
tĩnh ít thay đổi có thể chia môi trờng kinh doanh thành môi trờng địa lý, chính trị,
luật pháp, kinh tế, văn hoá, thể chế...
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, em chỉ xin trình bày về môi trờng văn
hoá.
1. Khái niệm
Theo định nghĩa văn hoá của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hoặc một nhóm ngời trong xã hội. Văn hoá bao
gồm nghệ thuật và văn chơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngời,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngỡng.
Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nó
cung cấp những định hớng cho các thành viên trong xã hội. Những định hớng này cung
cấp những giải pháp cho những vấn đề mà xã hội cần giải quyết.
Văn hoá đợc hiểu nh một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả khả năng khác mà con ngời có đợc. Văn
hoá quy định hành vi của mỗi con ngời, thông qua mối quan hệ giữa ngời với ngời
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các
nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở
môi trờng đó. Điều này trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của
doanh nghiệp đối với môi trờng văn hoá nớc ngoài. Sự khác nhau về văn hoá dẫn đến
sự khác nhau trong mô hình quản lý của các doanh nghiệp.
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
Để tăng khả năng thành công của hoạt động kinh doanh quốc tế, các nhà kinh
doanh quốc tế cần phải am hiểu về môi trờng văn hoá mà mình hoạt động. Việc thuê
mớn nhân công, buôn bán của doanh nghiệp đều đợc điều chỉnh và sở hữu của con ng-
ời. Con ngời chính là chủ thể trong quan hệ kinh tế đó mà con ngời lại bị tác động
bởi cái văn hoá trong môi trờng họ sinh sống. Vì vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc, dự
đoán, am hiểu về văn hoá của nớc sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế giới. Có nh
vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh đó mới có khả quan.
Tuy nhiên, một số vấn đề mà nhà kinh doanh quốc tế nên u tiên nghiên cứu, đó là
ngôn ngữ, lối sống, thông tin, tín hiệu, tín ngỡng, phong tục, tập quán, lễ hội... Các
nhân tố này đợc coi là hàng rào chắn các hoạt động giao dịch kinh doanh. Mỗi quốc
gia, thậm chí trong từng vùng của mỗi quốc gia, các dân tộc khác nhau cũng có tập
quán, lối sống và ngôn ngữ riêng. Do đó, các nhà kinh doanh cần phải biết rõ và hành
động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trờng mới.
a. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của t duy và phong cách t duy. Nó là sản phẩm
của văn hoá và là một nhân tố cấu thành của văn hoá. Nó cung cấp cho các nhà sản
xuất kinh doanh một phơng tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh
quốc tế. Đối với các công ty đa quốc gia, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trớc
hết đòi hỏi phải thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ. Thông thờng hoạt động kinh doanh
quốc tế tất yếu liên quan hoặc đòi hỏi sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Để giải
quyết tình trạng sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong giao tiếp kinh doanh, chúng
ta có thể thuê phiên dịch và nhà giao dịch hoặc thuê cố vấn hay các chuyên gia.
b. Tôn giáo:
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày
của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiịep kinh doanh quốc tế
cần phải hiểu biết về các tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà các doanh
nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh. Thông thờng, các doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế phải quan tâm đến bốn vấn đề và tôn giáo, đó là:
+ Tôn giá thống trị.
+ Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội.
+ Mức độ thuần nhất của tôn giáo.
+ Sự tự do tín ngỡng trong xã hội.
Tôn giáo có thể ảnh hởng đến hoạt động hàng ngày của con ngời và do đó ảnh h-
ởng dến hoạt động kinh doanh. Ví nh thời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ, kỳ
nghỉ, lễ kỷ niệm... Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đợc tổ chức
cho phù hợp với từng loại tôn giáo.
c. Lối sống và suy nghĩ của con ngời
Tính cách và suy nghĩ của con ngời Mỹ quyết định phần lớn đến hành vi của họ.
Đặc biệt, trong quan hệ kinh doanh quốc tế, hiểu biết về đối tác của mình là vấn đề cần
thiết cho bất kỳ thơng gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các đối tác nớc ngoài. Nó
không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
d. Thị hiếu, tập quán của ngời tiêu dùng
Thị hiếu, tập quán của ngời tiêu dùng có ảnh hởng rất lớn đến nhu cầu vì hàng
hoá dù có chất lợng tốt nhng nếu không đợc ngời tiêu dùng a chuộng thì cũng khó đợc
họ chấp nhận. Ví nh nếu nhà kinh doanh nào đó mang các sản phẩm chế biế từ thịt lợn
đến tiêu thụ ở irắc, Xiri... hoặc đem thịt bò đến bán ở ấn Độ thì đó là một điều nguy
hiểm, vì những sản phẩm đó theo tập quán, tôn giáo thì các quốc gia này không tiêu
dùng. Nếu nắm bắt đợc thị hiếu, tập quán của ngời tiêu dùng, doanh nghiệp kinh doanh
có điều kiện mở rộng khối lợng cầu một cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán
của ngời tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng châu lục, từng dân tộc và
chịu ảnh hởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo.
3. Mục đích nghiên cứu môi trờng văn hoá
Kinh doanh ở nớc ngoài, các doanh nghiệp phải cố gắng thích nghi với môi trờng
văn hoá của các nớc sở tại nhằm nâng cao dần vị thế của mình trên thơng trờng quốc
tế. Chỉ trên cơ sở đó họ mới có thể mở rộng và nâng cao sự hiểu biết của mình về văn
hoá tơng ứng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh ở nớc ngoài. Nh vậy, tuỳ thuộc
vào nhu cầu và trình độ hiểu biết về văn hoá mà công ty sẽ có hoạt động thích ứng và
hiệu quả. Nếu nhu cầu và trình độ hiểu biết văn hoá đối với nớc sở tại còn ở mức thấp
thì công ty chỉ nên kinh doanh với một công ty nớc ngoài và một nớc mà chức năng
hoạt đọng của công ty đó còn hạn chế. Ngợc lại, nếu nhu cầu và trình độ am hiểu nền
văn hoá nớc sở tại ở mức cao, thì khi đó công ty có thể tiến hành kinh doanh với nhiều
nớc, nhiều công ty khác nhau và công ty có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng các
chức năng và biện pháp hoạt động của mình.
Vì thế, nghiên cứu môi trờng văn hoá mà mình hoạt động nhằm giúp các doanh
nghiệp cá nhân và tổ chức kinh doanh có hiệu quả, phòng tránh rủi ro và tối đa hoá
mong muốn của mình.
II. Tác động của môi trờng văn hoá đối với hoạt động kinh
doanh quốc tế.
Mỗi nớc đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng đợc hình thành
theo truyền thống văn hoá của mỗi nớc và có ảnh hởng to lớn đến tập tính tiêu dùng
của khách hàng nớc đó. Tuy sự giao lu văn hoá giữa các nớc đã làm xuất hiện khá
nhiều tập tính tiê dùng chung cho mọi dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền thống
vẫn còn rất bền vững, có ảnh hởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Có
những thị trờng với bản sắc văn hoá thuần nhất (nh Trung Quốc, Nhật Bản...) song
cũng có những thị trờng hết sức pha tạp Về văn hoá (Hoa Kỳ) vì thế môi trờng văn hoá
mà doanh nghiệp nghiên cứu sẽ giúp cho việc kinh doanh ấy có hiệu quả.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hởng đến cách thức giao dịch đợc tiến hành, loại
sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuếch trơng có thể đợc chấp
nhận.
Giữa các nền văn hoá cũng có sự khác biệt về quản lý nhân lực, chính sách
Marketing và phơng thức đàm phán giao tiếp. Nhân tố văn hoá có ảnh hởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh quốc tế bởi nó tác động trực tiếp đến suy nghĩ và tính cách của
doanh nhân - chủ thể của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Chơng II
Môi trờng văn hoá Mỹ
I. Sơ lợc về lịch sử và nguồn gốc con ngời nớc Mỹ.
Đất nớc của những ngời nhập c
Khi Côlông đặt chân lên lục địa châu Mỹ, ông ta đã tìm ra một thế giới với những
ngời dân sinh sống. Về nguồn gốc, có nhiều khả năng họ là những ngời da vàng có
cùng chủng tộc với các dân tộc châu á. Họ đã từ lục địa châu á, khoảng từ 20.000
năm đến 40.000 về trớc, qua mũi Bêring đã di c sang lục địa châu Mỹ.
Những chuyến đi khám phá ra châu Mỹ của Côlông đợc Vơng quốc Tây ban nha
bảo trợ, và những ngời da trắng đầu tiên đến định c ở thế giới mới này đều là những ng-
ời gốc Tây ban nha theo Đạo Thiên chúa ở Rôma. Họ định c tập trung ở các vùng miền
Nam nớc Mỹ ngày nay.
Ngời Anh đến Mỹ vào thời điểm muộn hơn ngời Tây ban nha, nhng họ lại giữ vai
trò nòng cốt của xã hội thuộc địa Mỹ. Trong tổng dân số da trắng là 3,2 triệu ngời
trong cuộc điều tra dân số năm 1790, có tới 60 đến 80% là ngời Anh.
Một nớc Mỹ mới: từ năm 1783 đến nay
Sau khi giành đợc độc lập, số dân Mỹ tăng nhanh chóng. Từ năm 1790 đến năm
1835, số dân tăng lên chủ yếu là do sự nhân giống của ngời Mỹ chính gốc. Nhng từ
năm 1830 đến năm 1860, thì chủ yếu là do ngời di c từ Bắc Âu sang.
Cũng trong thời gian này, lãnh thổ nớc Mỹ đợc mở rộng ra rất nhiều. Đến năm
1860, công việc định c đã vợt khỏi sông Mítsisipi sang Minêsôta, Kandát, Mítsuri,
áckansa, và miền đông Tếchdát. Việc di c đến Ôrigơn để tìm các vùng đất tự do và tới
Caliphoócnia để tìm vàng đã là nhân tố thúc đẩy hai bang này gia nhập liên bang.
Vào khoảng năm 1860, những đặc điểm của xã hội Mỹ đã trở nên rõ ràng hơn.
Trong hơn 80 năm từ khi giành đợc độc lập, tốc độ tăng dân số kể cả ngời chính gốc
và ngời mới di c tới sánh kịp với tốc độ mở rộng lãnh thổ. Cũng nh ở thời kỳ thuộc
địa, sự tăng trởng của ngời da đen và ngời di c từ Bắc Âu sang đã làm cho da màu của
ngời Mỹ thay đổi dần. Tính cách của ngời Mỹ về cơ bản vẫn nh ở thời kỳ thuộc địa:
cần cù, chăm chỉ, độc lập, táo bạo, dân tộc chủ nghĩa... Tuy nhiên, cho đến năm 1860,
dân tộc Mỹ vẫn bị chia rẽ. Chỉ sau khi nội chiến kết thúc thì quyền thống trị của nhà n-
ớc liên bang đối với các bang mới đợc thiết lập, và chế độ nô lệ ngời da đen mới đợc
bãi bỏ.
Từ năm 1860 đến nay, số dân nớc Mỹ có những thay đổi đáng kể. Cùng với tốc độ
tăng của số dân khá nhanh, một xu thế rất quan trọng là cộng đồng ngời di c trong tổng
số dân nớc Mỹ lớn dần lên và gốc ngời nhập c đến Mỹ cũng thay đổi. Những ngời di c
từ các nớc Bắc và Tây Âu giảm, từ Đông và Nam Âu tăng lên. Đồng thời, luồng di c từ
châu á đến Mỹ cũng tăng lên, bắt đầu là ngời Trung Quốc, sau đến ngời Nhật... Chính
những thayđổi này đã có tác động lớn đến sự hình thành về sau này, một dân tộc Mỹ
tuy phức tạp, không đồng nhất nhng sáng tạo và năng động.
ii. Nền văn hoá Mỹ
Nền văn hoá của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thật đa dạng, phong phú, cũng giống
nh một cây xanh cao to, gồm nhiều cành, nhánh và dĩ nhiên là chúng mọc xúm xít
chung quanh thân hình chính, làm nên diện mạo đầy đủ cho vây xanh đó.
Ngời ta thờng coi văn hoá Mỹ bắt đầu từ năm 1607 khi mà sự nhập c của ngời
Anh đã tơng đối ổn định. Rồi muộn hơn năm 1668, Wiliam Stoughton một học giả
gốc Anh đã thành công ở xứ sở Hoa Kỳ đã viết Chúa đã sàng lọc cả một dân tộc từ n-
ớc Anh để có thể chuyển thành những hạt giống tốt nhất tới mảnh dất hoang dã là Mỹ
quốc này. Văn hoá Mỹ nhìn chung chủ yếu thừa hởng một số kinh nghiệm và địa
danh của ngời bản xứ (Inđiô), còn hầu hết các mặt nh ngôn ngữ, thể chế, tôn giáo, văn
học, kiến trúc, âm nhạc... đều có xuất xứ từ châu Âu nói chung và nớc Anh, Tây Âu
nói riêng.
Tuy bắt nguồn từ văn hoá Tây Âu là chính nhng khi hình thành phát triển thì văn
hoá Mỹ thể hiện là một nền văn hoá đa dạng phức tạp do gần 300 năm hấp thụ đợc
ở những ngời nhập c và tỵ nạn từ khắp thế giới, tức là xã hội Mỹ có nhiều nền văn hoá
và các nhánh văn hoá phụ.
1. Ngôn ngữ và bản sắc dân tộc
Theo số liệu của Bộ lao động và thơng mại nêu trong cuốn sách một thế kỷ tăng
trởng dân số, cho biết: Khi ngời Anh đến Mỹ nhập c ngày một gia tăng chiếm 60 đến
80% dân số Mỹ thì 13 thuộc địa đầu tiên là do ngời Anh cai trị. Luật pháp, cơ cấu tổ
chức chính quyền, đời sống văn hoá xã hội thuộc địa Mỹ chủ yếu mang đặc điểm
Anglo saxon. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức đợc sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ
những cộng đồng nớc ngoài biệt lập.
Cho đến tận ngày nay, nớc Mỹ vẫn cha có ngôn ngữ chính thức, 1/3 số bang lấy
tiếng Anh làm ngôn ngữ chích thức, 2/3 số bang còn lại coi tiếng Mỹ hoặc khôing coi
ngôn ngữ nào là chícnh thức. Riêng bang đảo Hawai lại tuyên bố có hai ngôn ngữ
chính thức tiếng Anh và tiếng Hawai. Việc ủng hộ tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức
cũng khác nhau, tuy nhiên, trong kinh doanh quốc tế, tiếng Anh là ngôn ngữ chính đợc
sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ những cộng đồng nớc ngoài biệt lập.
Trớc đây, sự phân rẽ cổ điển là giữa ngời da trắng và ngời da đen. Những ngời
Cộng hoà có xu hớng phân biệt hơn. Còn những ngời Dân chủ lại muốn thử tiến hành
hội nhập. Cùng với việc gia tăng nhiều dân tộc, các chiến lợc này đều đã quá thời và
cần đợc thay thế bằng t tởng chia sẻ những giá trị dân tộc, những khả năng tài chính và
các kết quả của nền kinh tế mới.
Giữa những năm 20, Mỹ đã thông qua một chính sách hạn chế sự nhập c. Chính
sách này kéo dài 40 năm. Năm 1965, chính sách này thay đổi hoàn toàn, nó cho phép
tiếp nhận những ngời nhập c mới, trớc hết là những ngời từ châu Mỹ la tinh và châu á
tới. Chính sách này đa lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ ngời Mỹ sinh ở ngoài nớc Mỹ đã tăng
gấp đôi từ những nam 60. Gần 11% dân số có nguồn gốc Tây ban nha, 12% ngời Mỹ
gốc Phi và 3% gốc châu á. ở New York, những ngời gốc Tây ban nha đã tạo ra nhóm
thiểu số quan trọng nhất. Năm 1997, lần đầu tiên số lợng trẻ em gốc Tây ban nha vợt
quá số lợng trẻ em Mỹ gốc Phi.
Sự phát triển này sẽ tăng tốc độ trong nửa đầu thế kỷ tới. Ngay từ năm 2005,
những ngời Tây ban nha sẽ trở thành nhóm thiểu số đầu tiên của Mỹ. Năm 2050, họ sẽ
chiếm 1/4 dân số Mỹ và những ngời châu á chiếm 8% (ngời Mỹ gốc Phi chiếm
13,5%). Tỷ lệ ngời da trắng không phải gốc Tây ban nha tụt xuống còn 53%, và ở
nhiều bang họ trở thành thiểu số.
Do đó các dữ kiện bầu cử sẽ bị thay đổi sâu sắc. Các nhà có trách nhiệm về chính
sách bắt đầu quan tâm đến điều đó. Vì vậy, những ngời của đảng Cộng hoà - họ từng
xem ngời Mỹ gốc Phi, ngời Tây ban nha ở Caliphoócnia, ở Tếchdát và Florida nh kẻ
thù sẽ xem xét lại đờng lối của họ trong những năm tới.
Một chính sách tập hợp các dân tộc khác nhau lại không thể chỉ đợc khẳng định
trên nguyên tắc. Nó cũng cần phải vạch ra giải pháp cụ thể cho các vấn đề nâng cao đời
sông cho mọi ngời.
2. Tôn giáo
Mỹ là một nớc đa chủng tộc, gần nh không thiếu một màu da nào, một dân tộc
nào trên đất nớc này. Góp vào bức tranh xã hội đầy màu sắc, tôn giáo Mỹ hết sức đa
dạng, phong phú, mang một bản sắc riêng không thấy ở bất cứ quốc gia nào khác.
Các nhà nghiên cứu về xã hội Mỹ nêu lên một nhận xét rằng, khi thấy ngời Mỹ đi
ghi tên tham gia vào các đoàn thể thì có thể ớc đoán với độ chính xác khá cao là họ
đăng ký gia nhập một tổ chức tôn giáo nhiều hơn tất cả các hội tự nguyện khác gộp lại.
Khoảng 60% tổng số ngời dân Mỹ là thành viên các hiệp hội tôn giáo, đông hơn nhiều
so với các nớc Tây Âu và Canađa.
Tính đến năm 1989, có 145.384 triệu ngời Mỹ theo tôn giáo, trong đó khoảng 79
triệu ngời theo Đạo Tin lành, 55 triệu ngời theo Đạo Thiên chúa La mã, 6 triệu ngời
theo các giáo hội phơng Đông, 100.000 ngời theo Đạo Phật, v.v...
Tôn giáo có một vai trò quan trọngtrong xã hội, và đa số ngời Mỹ cho rằng nhà
thờ phải tách khỏi nhà nớc. Thuy nhiên, vị trí của tôn giáo trong xã hội đã có những
thay đổi to lớn so với những thời kỳ đầu tiên của lịch sử nớc Mỹ. Những ngời di c đến
lập nghiệp ở nớc Mỹ đều mang trong mình tâm niệm là làm theo ý Chúa, và là quá
trình xây dựng những bậc thang lên thiên đàng. Họ coi tôn giáo là nền tảng của kỷ c-
ơng trong xã hội. Khuôn mặt của một vị linh mục (do mọi ngời trong thị trấn bầu ra,
chứ không phải chỉ những ngời trong họ đạo) là hiện thân của điều thiện và phúc lợi xã
hội; đồng thời năng lực, phẩm chất của ông ta là cơ sở cho trật tự kỷ cơng trong thị trấn
đó. Tuy nhiên, đến nay ta không còn thấy đợc chuyện đó nữa, thậm chí ở cả những
vùng xa xôi, hẻo lánh. Tôn giáo đã hoàn toàn trở thành một công việc mang tính chất
cá nhân. Đa số ngời Mỹ coi việc theo đuổi tín ngỡng là việc riêng của mình, chẳng có
liên quan đến ai cả. Chẳng thế mà có ngời nói mỉa mai rằng trong tơng lai, đời sống tôn
giáo nớc Mỹ sẽ phân chia thành 249 triệu loại tín ngỡng, cứ mỗi ngời có một loại tín
ngỡng cho riêng mình.
Nhng hiện nay, ở Mỹ có khoảng 219 tôn giáo nhỏ phân chia thành 341 nghìn tổ
chức địa phơng. Tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất nớc này là Christmas (còn gọi là
đạo KiTô hay Cơ Đốc Giáo) có khoảng 76,8 triệu tín đồ; Protestant (Tân Giáo), 52
triệu tín đồ; Roman Catholics (Thiên chúa La Mã), 3,9 triệu tín đồ; Judaism (Do Thái),
4 triệu tín đồ; tiếp theo là Eastern Othodox Church (Chính giáo phơng Đông); rồi Hồi
giáo, Phật giáo, Quaker, Mormons... Hàng năm có khoảng 45 triệu trẻ em, cha kể ngời
lớn, theo học ở các lớp do các tổ chức tôn giáo mở. Với một nền tôn giáo đa giáo phái
và với một số lợng khổng lồ ngời tham gia các hoạt động tôn giáo nh vậy mà trên nớc
Mỹ hiện nay không hề xảy ra các cuộc tàn sát hay xung đột tôn giáo. Trong khi hiện
nay tôn giáo và sắc tộc là hai vấn đề rất tế nhị và đã là khởi điểm của nhiều cuộc xung
đột hoặc khủng bố đẫm máu.
Vậy vì lý do gì mà nớc Mỹ có thể duy trì đợc sự ổn định cho một nền tôn giáo đa
dạng nh vậy? Tai sao ở Mỹ lại có hiện tợng cùng một nhà thờ có thể dùng làm nơi hành
lễ của hai giáo phái? Tại sao cùng một bang, một thành phố, thậm chí cùng một quận
tồn tại nhiều trung tâm của các tôn giáo khác nhau? Phải chăng tôn giáo luôn đợc
chính phủ quan tâm chăm sóc hay ngời Mỹ là những ngời hiền lành, yêu hoà bình,
nhân ái?
Lời giải đáp chính xác và đầy đủ nhất đó chính là nền tôn giáo Mỹ với tính cách
đặc biệt của nó. Nhận xét về nền tôn giáo Mỹ ngày nay, nhà nghiên cứu văn hoá Esther
Waming đã viết trong cuốn Culture Shock (Sốc văn hoá) nh sau: Rất có thể ít nhiều do
tình cảm tôn giáo truyền lại từ khuynh hớng tôn giáo của nớc Mỹ lúc ban đầu.
Càng về giai đoạn cuối của thế kỷ XVII, khi những đợt di c ồ ạt từ khắp nơi đổ về,
nớc Mỹ thực sự trở thành nớc đa tôn giáo. Thanh giáo từ Anh, Do Thái giáo từ Đức,
Phật giáo từ ấn Độ, Trung Quốc, Hồi giáo theo chân những nô lệ châu Phi... Hơn thế,
Hoa Kỳ còn nh bà đỡ khéo tay cho sự ra đời hàng loạt tôn giáo mới nh Quaker,
Mormons... Đó là cha kể đến sự phân tách của các giáo hội thành các giáo phái mới.
Các giáo phái dến Mỹ hay đợc thành lập ở Mỹ đều chung một ý tởng coi đây là Tân
Thế Giới, một miền đất hứa, thậm chí coi nơi đây chỉ là lãnh đậo của giáo phái họ thôi.
Tất cả các ý tởng nhằm đa một tôn giáo lên thành quốc giáo hay dùng tiền của, quyền
lực áp đặt buộc ngời dân phải theo một tôn giáo nào đó đều bị loại bỏ. Nếu có một giáo
hội nào dám đi ngợc với tiêu chí, với khuynh hớng tôn giáo Mỹ đã hình thành từ buổi
ban đầu thì đều phải trả giá. Nó sẽ bị cô lập, bị phản dối hoặc bị trục xuất khỏi mảnh
đất đang sinh sống.
Theo thời gian, những tình cảm hoà đồng tôn giáo Mỹ trở nên bình thờng, mọi
cộng đồng tôn giáo vừa độc lập, vừa cùng nhau sinh sống. Những điều đó có đợc là
nhờ 3 yếu tố cơ bản là Nhà nớc, gia đình và t tởng ngời dân.
ở Mỹ, hiện tợng trong một gia đình có năm ngời mà có ba, bốn quốc tịch là
chuyện bình thờng. Nh một gia đình có ngời bố là ngời Anh theo Tân giáo, ngời mẹ là
ngời Ireland theo phái Calvin, các ngời con mỗi ngời theo một tôn giáo. Nh vậy, sự hoà
đồng trong tôn giáo chỉ có ở một đất nớc nh Mỹ khi mà quyền tự do cá nhân đợc tôn
trọng: Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do điều trần... và không ngoại trừ tự do tín
ngỡng, không ai có thể ép buộc ai phải theo tôn giáo mình đã theo: chồng không thể ép
vợ, bố không thể ép con... nhng vợ chồng con cái vẫn cùng chung sống trong một mái
nhà. Từ những hạt nhân nh vậy mà tính hào đồng trong tôn giáo đợc kế tục và phát
triển. Ngoài ra, các phán quyết của Toà án tối cao ban hành khi xét xử các vụ án tôn
giáo đã tăng cờng tính pháp lý cho việc tự do tinh ngỡng.
Chính quyền các bang cũng trợ cấp cho các giáo hội tiền bạc hoặc đất đai trên
tinh thần thận trọng và công bằng. Nói chung, ở thời điểm hiện nay, khi các cuộc xung
đột và khủng bố mang tính chất tôn giáo ngày càng gia tăng, tính hoà đồng trong tôn
giáo Mỹ tỏ ra có nhiều mặt tích cực trong cuộc sống.
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con ngời Mỹ
a. Chủ nghĩa cá nhân cốt lõi của nền văn hoá Mỹ
Khi nói đến tính cách con ngời và nền văn hoá Mỹ, điều không thể không nhắc
đến là chủ nghĩa cá nhân. Ngời Mỹ tin tởng ở năng lực và đạo đức thánh thiện của
từng nhân cách cá nhân. Trong hoài bão và hy vọng của họ, điều cao cả nhất và hoà
hiệp nhất đều liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. Mặc dù chủ nghĩa cá nhân đã làm nảy
sinh nhiều vần đề xã hội phức tạp, nhng các nhà nghiên cứu về văn hoá Mỹ đèu cho
rằng không thể làm cho dân Mỹ mất đi tích chất cá nhân chủ nghĩa, vì nh thế là tớc bỏ
một đặc điểm chủ yếu của ngời Mỹ với t cách là một dân tộc.
Điều quan trọng nhất để hiểu ngời Mỹ là biết rằng họ là những ngời rất sùng bái
chủ nghĩa cá nhân. Sự kết hợp giữa tự do cá nhân và tính độc lập đợc đánh giá cao ở
Mỹ. Họ coi những công việc hoàn thành của cá nhân và những cuộc chiến để giành đợc
nhiều tự do. Họ có thể làm theo sở thích hoặc thay đổi lối sống của mình, cho dù có
phải từ bỏ mọi cam kết với gia đình, với cộng dồng. Quan điểm này đã bị phản ứng
mạnh mẽ của những ngời thuộc trờng phái văn hoá cho rằng, mỗi cá nhân là một thành
viên của gia đình, xã hội và nhấn mạnh vai trò gắn kết với cộng đồng, đặt sức mạnh
của tổ chức cộng đồng lên trên cá nhân, phản đối chủ nghĩa cá nhân. Thực tế, nhiều
thành tựu đạt đợc ở Mỹ là nhờ phát kiến của những nhóm ngời, mỗi ngời thực sự là một
cầu thủ trong đội hình. Hiện nay, một số công ty Mỹ, có xu hớng sử dụng sức mạnh
của mỗi cá nhân bằng cách kết hợp các nhóm thành viên có năng lực khác nhau để
thực hiện những mục tiêu nhất định.
Hơn nữa, họ cho rằng sau một thời gian sống ở Mỹ ngời ta sẽ cảm thấy thoát khỏi
những ràng buộc bên ngoài và sẽ cảm thấy biết ơn nếu để yên cho họ làm mọi thứ
theo cách của họ hay đạt đợc điều gì đó theo cách của họ.
Theo quan niệm này, ít nhất một số ngời Mỹ không nhận ra thực tế là họ đang
chia sẻ một nền văn hoá với nhau. Nh đã đề cập ở trên, họ có ý tởng rằng họ hoàn toàn
độc lập để quyết định về những giả định hay giá trị riêng của họ. Quan niệm rằng các
nhân tố xã hội bắt họ trở thành nh những ngời khác và trong trờng hợp này đã làm cho
họ có cảm giác tính tự chủ bị tổn thơng.
Nh vậy, ngời Mỹ xem mẫu ngời lý tởng phải là một ngời độc lập, tự chủ và riêng
biệt. Còn quan điểm về chủ nghĩa cá nhân - đó là phải tự đứng bằng đôi chân của
mình và tự quyết định thì có thể nói rằng, ngời Mỹ rất khác biệt. Ví dụ nhiều ngời
Mỹ xem các cá nhân là anh hùng, bởi họ nổi bật trong một đám đông do tiên phong
làm một điều gì đó, lâu và thờng xuyên, hay nói cách khác là làm những điều tốt nhất,
chẳng hạn nh các phi công lừng danh: Charles Lindberg và Amelia Earhart... Ngời Mỹ
thán phục những ai có thể vợc qua khó khăn nh nghèo khổ hay tàn tật để thành công
trong cuộc sống. Nhà giáo dục da đen Brooker T. Washington, một tác giả vừa bị mù
vừa bị điếc là một ví dụ.
Sự tôn sùng chủ nghĩa cá nhân vẫn thờng thể hiện qua việc ngời Mỹ sử dụng
các câu nh Hãy làm cái gì đó theo cách của mình, Tôi làm cái gì đó theo cách của
tôi, Hãy tự quyết định điều đó, Mình làm mình chịu, Đừng trông cậy vào sự giúp
đỡ của ngời khác và Hãy cố gắng là điều tốt nhất...
Mối liên hệ chặt chẽ vốn có tầm quan trọng lớn mà ngời Mỹ gắn liền với chủ
nghĩa cá nhân là sự riêng t. Ngời Mỹ cho rằng, con ngòi ta cần có những lúc ở một
mình hoặc để trầm tĩnh lại để nghĩ lại mọi sự hoặc hồi phục năng lợng, tâm lý đã
hao tổn. Ngời Mỹ thực sự không hiểu những ngời nớc ngoài mà thờng thích có ai đó để
bầu bạn và họ dờng nh không thích ở một mình. Thái độ của ngời Mỹ về riêng t có vẻ