Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp bình xuyên, huyện bình xuyên, tỉnh vĩnh phúc đến sinh kế người dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.46 KB, 86 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN NGỌC TUẤN



ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT XÂY
DỰNG KHU CÔNG NGHIỆP BÌNH XUYÊN, HUYỆN BÌNH
XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN SINH KẾ NGƯỜI DÂN

Chuyờn ngành: Quản lý đất đai
Mó số: 60.62.16


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. Đỗ Thị Lan








Thỏi Nguyờn, năm 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn
này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn


Nguyễn Ngọc Tuấn










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các nhà khoa học, các thầy
cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá
nhân và tập thể để hoàn thành bản luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đỗ Thị Lan đã trực
tiếp hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo
Khoa Tài nguyên và Môi trường - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên;
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh
Phúc, Ban Quản lý các KCN và THĐT tỉnh Vĩnh Phúc; Sở Tài chính, Sở Kế
hoạch và Đầu tư; Sở Lao động- Thương binh và xã hội, Cục Thống kê tỉnh
Vĩnh Phúc; các phòng: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Nội vụ và Thống
kê của huyện Bình Xuyên;UBND xã Sơn Lôi, Đạo Đức, Thị trấn Hương Canh
, đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài
tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, cán bộ, đồng nghiệp và
bạn bè đã tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!


Tác giả Luận văn



Nguyễn Ngọc Tuấn




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BAH
:Bị ảnh hưởng
CNH, HĐH
:Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
KCN
:Khu công nghiệp
BT
:Bồi thường
GPMB
:Giải phóng mặt bằng
UBND
:Ủy ban nhân dân

:lao động


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất của huyện Bình Xuyên
tính đến 31/12/2010[16] 38
Bảng 3.2: Diện tích, dân số và mật độ dân số các xã thuộc huyện

Bình Xuyên tính đến ngày 31/12/2010[16] 39
Bảng 3.3: Cơ cấu sử dụng đất của KCN Bình Xuyên 42
Bảng 3.4: Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất xây dựng dự án KCN
Bình Xuyên 45
Bảng 3.5: Kết quả điều tra về thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ
của các hộ dân 49
Bảng 3.6: Phương thức sử dụng tiền bồi thường hỗ trợ của các hộ dân 50
Bảng 3.7: Tài sản sở hữu của các hộ trước thời điểm năm 2005
và sau khi thu hồi đất thời điểm năm 2010 53
Bảng 3.8: Đánh giá về tình hình tiếp cận cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội của
các hộ dân sau khi bị thu hồi đất 55
Bảng 3.9: Kết quả phỏng vấn về quan hệ trong nội bộ gia đình các hộ dân . 56
Bảng 3.10: Tự đánh giá của các hộ về tình hình việc làm 57
Bảng 3.11: Sự thay đổi ngành nghề của người lao động trước và sau khi
thu hồi đất 61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ


Hình 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Bình Xuyên năm 2010 37
Hình 3.2: Sự thay đổi về ngành nghề của hộ 64




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tƣ liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế, thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trƣờng sống, là địa bàn phân bố các khu dân cƣ, xây
dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng thì trong
thời kỳ hiện nay đất đai có thêm những chức năng có ý nghĩa quan trọng là
chức năng tạo nguồn vốn và thu hút đầu tƣ phát triển.
Trên con đƣờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc để đƣa đất đai
thực sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các đầu tƣ phát triển thì việc
thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công
nghiệp, khu đô thị tập trung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển
kinh tế là con đƣờng hết sức cần thiết và duy nhất. Hiện nay cả nƣớc có khoảng
trên 254 KCN đƣợc thành lập chiếm tổng diện tích đất tự nhiên gần 69 nghìn
ha, trong đó có 171 KCN đã đi vào hoạt động. Các Khu công nghiệp thu hút
trên 1,5 triệu lao động trực tiếp, nộp ngân sách năm 2010 khoảng 1,4 tỉ USD,
đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của đất nƣớc[29].
Tỉnh Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc,
cách Hà Nội hơn 50 km nằm trong vùng lan tỏa của tam giác kinh tế Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh với các điều kiện thuận lợi trong giao thông, từ khi tái
lập tỉnh năm 1997 đến nay đã trở thành một tỉnh có tốc độ CNH, HĐH đứng
đầu cả nƣớc, hàng năm chuyển mục đích hàng trăm ha đất nông nghiệp sang
các mục đích khác đã ảnh hƣởng lớn đến đời sống, việc làm của một bộ phận
lớn dân cƣ sau khi thu hồi đất đây là một vấn đề bức xúc của cả nƣớc và của
tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng cần phải giải quyết.
Nhằm tìm hiểu các tác động của việc thu hồi đất để xây dựng các khu
công nghiệp đến đời sống, việc làm của ngƣời dân bị thu hồi đất và đề xuất các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
giải pháp hợp lý cho khu vực và có thể nhân rộng áp dụng rộng rãi trên cả nƣớc
là mục tiêu của đề tài nghiên cứu “Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi
đất xây dựng Khu công nghiệp Bình Xuyên, huyện Bình Xuyên, tỉnh
Vĩnh Phúc đến sinh kế người dân”.
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thƣờng giải phóng mặt bằng
khi Nhà nƣớc thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu công nghiệp Bình
Xuyên - huyện Bình Xuyên.
- Đánh giá đƣợc các tác động của việc thu hồi đất đến ngƣời dân bị thu
hồi đất xây dựng khu công nghiệp Bình Xuyên.
- Phân tích những tồn tại và nguyên nhân của việc thu hồi đất xây dựng
Khu công nghiệp Bình Xuyên từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp và chính
sách hỗ trợ mới và hợp lý cho địa bàn nghiên cứu.
* Yêu cầu nghiên cứu
- Phản ánh đƣợc chính xác các tác động của việc thu hồi đất để xây dựng
các khu công nghiệp đến đời sống, việc làm và môi trƣờng của ngƣời dân ở địa
bàn nghiên cứu;
- Đánh giá một cách khách quan và đƣa ra đƣợc các biện pháp hợp lý
đƣợc ngƣời dân đồng tình trên cơ sở đầy đủ khoa học và thực tiễn.














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các vấn đề về Khu công nghiệp
1.1.1. Các khái niệm về KCN
Đối với khái niệm về KCN, ngay từ khi loại hình này ra đời cho đến
nay vẫn đang có những tranh cãi có tính học thuật về KCN, KCX. Có quan
niệm cho rằng KCN là một vùng đất đƣợc phân chia theo hệ thống nhằm cung
cấp mặt bằng cho các ngành công nghiệp. Một số các nhà nghiên cứu khác có
quan niệm rộng hơn coi KCN nhƣ một khu đô thị công nghiệp hay thành phố
công nghiệp, ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng, KCN còn
bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ hành chính, trƣờng học, bệnh viện, các khu
vui chơi giải trí, nhà ở cho ngƣời lao động,… nằm ngoài hàng rào KCN,
KCX. Hiện nay có một số khái niệm về KCN nhƣ sau:
1. KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp,
đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch
vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thƣơng mại, văn phòng, nhà ở Về thực
chất mô hình này là khu hành chính kinh tế đặc biệt nhƣ KCN Bata
(Indonesia) các công viên công cộng ở khu vực lãnh thổ Đài Loan và một số
nƣớc Tây Âu [13].
2. KCN là khu vực lãnh thổ hữu hạn ở đó tập trung các doanh nghiệp
công nghiệp và DV sản xuất công nghiệp, không có dân cƣ sinh sống. Mô
hình này đƣợc xây dựng ở một số nƣớc nhƣ Malaysia, Indonesia, Thái Lan ,

khu vực lãnh thổ Đài Loan [13].
3. Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy
định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế: “Khu công nghiệp là khu
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, đƣợc thành lập theo điều kiện,
trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này” [9].
Nhƣ vậy, xét về bản chất các định nghĩa không có sự khác biệt lớn,
tuy nhiên do yêu cầu của từng thời kỳ của phát triển kinh tế cũng nhƣ
các quan điểm khác nhau trong định hƣớng vĩ mô thì cũng các định
nghĩa này cũng có những điểm khác nhau.
1.1.2. Bản chất của xây dựng KCN
Bản chất của xây dựng KCN là quá trình phát triển các nhà máy xí
nghiệp một cách có quy hoạch tổng thể trên phƣơng diện toàn quốc gia hay
một vùng lãnh thổ nhất định nhằm tƣơng trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh
doanh công nghiệp cũng nhƣ xử lý chất thải. Mặt khác việc xây dựng các
KCN còn tạo điều kiện cho các địa phƣơng ứng dụng một cách nhanh nhất
các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhờ đó nâng cao đƣợc năng suất cũng nhƣ hạn
chế đƣợc vấn đề gây ra ô nhiễm môi trƣờng và nhờ đƣa tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất sẽ nâng cao trình độ cũng nhƣ tay nghề cho công nhân, cho cán bộ
kỹ thuật dẫn tới có đƣợc lực lƣợng lao động tay nghề cao trong sản xuất, đây
là điều hết sức cần thiết hiện nay.
1.1.3. Nguyên tắc và vai trò của xây dựng KCN
Trong thời kỳ CNH, HĐH việc xây dựng các khu cụm công nghiệp tập
trung là cần thiết và đƣợc nhà nƣớc khuyến khích. Từ năm 1994 các KCN
đƣợc xây dựng để cung ứng cơ sở hạ tầng thuận lợi, tạo điều kiện dễ dàng cho
đầu tƣ nƣớc ngoài và đặc biệt khuyến khích các DN nhỏ và vừa gia nhập các

khu vực công nghiệp. Lợi ích của việc sản xuất tập trung tại các khu cụm
công nghiệp so với phát triển công nghiệp tản mạn là đảm bảo tiết kiệm về kết
cấu hạ tầng, quản lý hành chính và quản lý môi trƣờng mặt khác cung cấp các
dịch vụ thuận lợi hơn.
Các KCN, KCX đƣợc hình thành cũng nhằm tránh sự phân tán các cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
sở sản xuất trong khu dân cƣ sinh sống, vừa không thuận lợi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa gây ô nhiễm môi trƣờng xung
quanh khu dân cƣ, làm ảnh hƣởng lớn đến đời sống của công đồng dân cƣ
trong vùng, nhất là ảnh hƣởng đến sức khỏe ngƣời dân. Do đó, phát triển và
phân bố các KCN đƣợc thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
- Có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng, thuận lợi về giao thông vận tải,
cung cấp điện, cấp nƣớc và thải nƣớc. Xử lý môi trƣờng bảo đảm có hiệu quả
và phát triển bền vững lâu dài, có đủ mặt bằng để mở rộng và phù hợp với
những tiến bộ khoa học kỹ thuật của nền văn minh công nghiệp, hậu công
nghiệp của thế giới;
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu tƣơng đối thuận tiện, hoặc trực tiếp
với nguồn nguyên liệu. Đôi khi do cự ly vận tải và yêu cầu bảo quản nguyên
liệu, quy mô xí nghiệp công nghiệp phải thích hợp để đảm bảo hiệu quả;
- Có nguồn lao động cả số lƣợng và chất lƣợng đáp ứng đƣợc yêu cầu
sản xuất với chi phí tiền lƣơng thích hợp;
- Có khả năng giải quyết thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm cả trong nƣớc và
nƣớc ngoài;
- Tiết kiệm tối đa đất sản xuất nông nghiệp đặc biệt là đất trồng trọt
trong việc sử dụng đất để xây dựng KCN;
- Kết hợp với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng trong những điều
kiện cụ thể ở từng khu vực và từng giai đoạn;

Theo các chuyên gia Nhật, chìa khóa cho sự thành công của các KCN
là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Với các mục tiêu cụ thể, KCN
có những vai trò sau:
- Thu hút và tạo nguồn vốn cho đầu tƣ phát triển kinh tế xã hội của đất
nƣớc, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tƣ phát triển hạ tầng, góp phần tạo ra môi
trƣờng đầu tƣ hấp dẫn trong quá trình thu hút đầu tƣ trong và ngoài nƣớc;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
- Góp phần tăng trƣởng kinh tế, tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo
nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH, tạo điều kiện phát
triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh manh mún, phân tán và tự phát góp
phần tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả ngồn vốn đầu tƣ, tiết kiệm chi phí
sản xuất;
- KCN là hình thức hữu hiệu thực hiện chiến lƣợc lâu dài về tạo việc
làm và chuyển đổi cơ cấu lao động cũng nhƣ sử dụng lao động một cách hiệu
qủa, nhất ở các nƣớc đang phát triển so với thực tế về giá nhân công ở các khu
vực dƣ thừa về lao động khác;
- Du nhập các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản
lý của các công ty tƣ bản nƣớc ngoài để tránh bị tụt hậu về kinh tế nhất là trong
sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh trên thị trƣờng hàng xuất khẩu;
- Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc
độ đô thị hoá và tác động lan toả tích cực trong việc CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn;
- Có điều kiện thuận lợi trong kiểm soát, bảo vệ và xử lý sự cố môi
trƣờng. KCN là địa điểm tốt nhất để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ
các đô thị, thành phố lớn phục vụ mục đích phát triển công nghiệp bền vững;
- KCN còn có vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của quốc

gia, KCN là nơi thử nghiệm các chính sách kinh tế mới đặc biệt là chính sách
kinh tế đối ngoại và thƣờng thể hiện xu hƣớng của chính sách đối ngoại của
toàn bộ nền kinh tế;
- KCN đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển kinh tế quốc dân.
KCN sẽ là đầu tàu trong phát triển kinh tế kéo theo sự phát triển ở những
vùng lân cận và các vùng khác của đất nƣớc;
Qua các vai trò KCN nêu trên cho ta thấy sự khác biệt và nổi trội cả về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
chất và lƣợng của hình thức KCN so với cụm công nghiệp và doanh nghiệp
công nghiệp độc lập phân tán đƣợc thể hiện qua các tiêu chí tác động của nó
nhƣ sau:
- Đối với các nhà đầu tƣ vào KCN: Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội
sẵn có, nhà đầu tƣ vào KCN có thể xây dựng đƣợc nhà máy, xí nghiệp của
mình một cách nhanh chóng, trong khi đó nếu đầu tƣ ngoài KCN nhà đầu tƣ
sẽ mất thời gian và tài chính trong quá trình Bồi thƣờng - GPMB, đặc biệt là
thời gian và các thủ tục trong quá trình kết nối các đầu mối kỹ thuật cho sản
xuất nhƣ: điện, nƣớc, viễn thông, giao thông;
- Đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài: Khi các dự án có công nghệ hiện
đại đòi hỏi chất lƣợng cơ sở hạ tầng ở mức độ cao nên khi đầu tƣ ngoài KCN
khó có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu. Vì vậy, hầu hết các dự án sản xuất công
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tập trung chủ yếu ở các KCN;
- Về cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý bằng các Ban quản lý KCN trong
các KCN tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tƣ trong việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến các thủ tục trong sản xuất nhƣ: xuất nhập khẩu vật tƣ, thủ
tục thuế, hải quan, tuyển dụng và đào tạo lao động so với các doanh nghiệp đầu
tƣ ngoài KCN;
- Đối với tăng trƣởng và phát triển kinh tế vĩ mô việc xây dựng KCN

theo quy hoạch phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia,
chiến lƣợc phát triển công nghiệp, chiến lƣợc thƣơng mại quốc tế, tạo đƣợc
bƣớc đi phù hợp với khả năng của đất nƣớc về tài chính, thu hút đầu tƣ, phát
triển hạ tầng của từng thời kỳ, đảm bảo phân bố lực lƣợng sản xuất trên lãnh
thổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo vệ môi trƣờng sinh thái, đây
cũng là bài học đƣợc rút ra từ thời kỳ phát triển các cụm công nghiệp Việt Trì,
Đông Anh của những năm 60, 70 của thế kỷ trƣớc và hiện nay vẫn chƣa thể
khắc phục đƣợc hoàn toàn;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Đối với phát triển KT-XH vùng: trên cơ sở lợi thế vùng, xây dựng
KCN vừa khai thác lợi thế của vùng vừa tránh đƣợc đầu tƣ phân tán, phát huy
đƣợc hiệu quả của vốn đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển KCN là phát
triển công nghiệp theo quy hoạch, bảo vệ môi trƣờng, tiết kiệm và phát huy
hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực khác, hình thành đô thị mới, thực hiện
văn minh, tiến bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành
thị. Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
giữa các vùng;
- Đối với hội nhập kinh tế quốc tế: Nhƣ đã phân tích ở trên, hàng hoá
trong KCN một mặt cung cấp thị trƣờng nội địa để đảm bảo đủ sức cạnh tranh
và ngăn chặn hàng nhập lậu từ các nƣớc khác, mặt khác KCN là khu sản xuất
hàng hoá xuất khẩu (thƣờng chiếm 65% - 70% tổng doanh số hàng hoá do
KCN sản xuất ra) đƣợc coi là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nƣớc
với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới;
Nhƣ vậy, KCN là một hình thức tổ chức công nghiệp tiên tiến, hữu
hiệu, phù hợp và khả thi cho các nƣớc đang phát triển nói chung và Việt Nam
nói riêng, có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt giai đoạn đổi mới và xây dựng

cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở nƣớc ta.
1.1.4. Tình hình xây dựng các KCN trên thế giới và Việt Nam
1.1.4.1. Tình hình xây dựng các KCN trên thế giới
Việc hình thành và xây dựng các KCN đã và đang trở thành một trong
những mô hình phát triển kinh tế quan trọng ở các nƣớc đang phát triển và cả
những nƣớc phát triển. Mô hình kinh tế này ra đời nhằm thúc đẩy nhanh quá
trình hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp và công nghiệp nông
thôn, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
mỗi quốc gia.
Sự ra đời của các KCN có thể nói bắt đầu từ khi các nƣớc quan tâm nới
rộng thƣơng mại quốc tế và bắt đầu dùng các loại thuế truyền thống và hàng
rào thuế quan khắt khe đối với những sản phẩm hàng hoá vào lãnh thổ của
mình. KCN phát triển mạnh vào nửa thế kỷ 20. Tuy có thể nói loại hình này
bắt đầu từ thế kỷ 18 song trong thời điểm đó mới chỉ ở bƣớc sơ khai, chỉ xác
định cho một khu vực làm ăn kinh tế đƣợc tự do và có nhiều ƣu đãi.
Xét trên phạm vi toàn thế giới thì loại hình KCN mới thực sự bắt đầu
hình thành từ sau thế chiến thứ 2 (giữa những năm 50) về cả quy mô, số
lƣợng, loại hình và từng bƣớc hoàn chỉnh qua các thập kỷ 60, 70 của thế kỷ
20. Đây là khoảng thời gian mà loại hình KCN phát triển mạnh mẽ ở nhiều
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. KCN đầu tiên trên thế giới đƣợc thành
lập năm 1896 ở Trandford Park Manchester (Anh), vùng công nghiệp
Clearing Chicago, bang Ilinois đƣợc coi là KCN đầu tiên của Mỹ và năm
1940 Italia cũng thành lập một KCN ở Napoli, đến thập kỷ 50 - 60 ở Mỹ có
452 vùng công nghiệp và gần 1000 KCN, sau đó tăng lên 2400 KCN vào năm
1970, ở Pháp có 230 KCN năm 1963 và Canada có 21 vùng công nghiệp năm

1965. Ở các nƣớc đang phát triển bắt đầu vào cuối thập kỷ 60 mới có 9 KCN ở 9
nƣớc thì đến đầu thập kỷ 70 có 34 KCN, đến giữa thập kỷ 80 có 35 nƣớc thành
lập đƣợc 79 KCN, sau 2 năm (1987) theo số liệu thống kê đã đạt 111 KCN ở 40
nƣớc, nhìn chung mô hình KCN đã trở thành làn sóng phát triển mạnh mẽ ở
nhiều nƣớc trên thế giới và trở thành mô hình tiến bộ đối với chƣơng trình phát
triển công nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các nƣớc đang phát triển vào
những năm 1960 - 1970 nhƣ Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Trung Quốc, Thái
Lan, Đài Loan, Hiện nay, trên thế giới có hàng ngàn KCN đƣợc thành lập, tuy
nhiên sự phát triển các KCN các nƣớc không đều, thậm chí ở một số nƣớc không
thành công nhƣng số lƣợng loại hình này vẫn không ngừng tăng lên[30].
Đến nay, việc xây dựng phát triển các KCN có nhiều thay đổi. Các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
nƣớc tập trung đi sâu vào quản lý chất lƣợng hiệu quả, tạo môi trƣờng thuận
lợi, dịch vụ, chính sách và đặc biệt là cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện,
nhằm hƣớng tới lợi nhuận cao hơn cho các nhà sản xuất, KD đến đầu tƣ nhờ
giảm chi phí sản xuất về nhân công, thuế, giao thông vận tải, dịch vụ, phục vụ
nhanh chóng trên cơ sở khuyến khích từ các chính sách của nƣớc chủ nhà
dành cho các nhà đầu tƣ ở trong KCN làm cho các sản phẩm hàng hoá ở đây
giá rẻ, chất lƣợng cao lại có khả năng cạnh tranh với các nơi khác trên thị
trƣờng thế giới và khu vực. Với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào KCN của
nƣớc sở tại còn có điều kiện thuận lợi để thâm nhập vào thị trƣờng nƣớc đó có
điều kiện đƣợc cung cấp nguyên liệu tại chỗ tạo sự ổn định về nguyên liệu và
thị trƣờng mở rộng hơn.
1.1.4.2. Tình hình xây dựng các KCN ở Việt Nam
Năm 1957, Việt Trì là nơi đầu tiên đƣợc chọn để xây dựng KCN của
nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đến năm 1962 KCN Việt Trì tỉnh Vĩnh
Phú (cũ) nay là Phú Thọ đƣợc khánh thành. Tính đến tháng 9 năm 2010 cả

nƣớc có 254 KCN đƣợc thành lập chiếm tổng diện tích đất tự nhiên gần 69
nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 45 nghìn
ha. Trong đó số 254 KCN có 171 KCN đã đi vào hoạt động và 83 KCN đang
trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng. [29].
1.1.4.3. Tình hình xây dựng các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay có 20 khu công nghiệp đƣợc Thủ
tƣớng chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển đến năm 2015 và định hƣớng
đến năm 2020, với tổng diện tích quy hoạch là 5.965ha, trong đó: có 07 KCN
đã thành lập, gồm: 04 KCN đang hoạt động (Kim Hoa, Bình Xuyên, Bình
Xuyên II, Bá Thiện) và 03 KCN đang thực hiện bồi thƣờng, giải phóng mặt
bằng và xây dựng hạ tầng kỹ thuật (Bá Thiện II, Bình Xuyên II và Phúc Yên);
có 05 KCN đang đƣợc các nhà đầu tƣ hoàn thiện các thủ tục đầu tƣ xây dựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
gồm KCN: Chấn Hƣng, Sơn Lôi, Hội Hợp, Tam Dƣơng I, Nam Bình Xuyên;
có 8 KCN mới đƣợc phê duyệt chủ trƣơng đầu tƣ trong giai đoạn từ năm
2015-2020 bao gồm các KCN: Tam Dƣơng II, Vĩnh Tƣờng, Vĩnh Thịnh, Lập
Thạch I, Lập Thạch II, Sông Lô I, Sông Lô II, Thái Hòa-Liễn Sơn-Liên
Hòa[1].
1.1.5. Những tác động của việc xây dựng các KCN
1.1.5.1. Tác động về kinh tế
* Tích cực:
Quá trình CNH trong các KCN đã làm thay đổi về phƣơng thức sản
xuất cũ, đã có sự chuyên môn hoá cao hơn trong sản xuất. Do vậy sản xuất
phát triển nhanh chóng về số lƣợng và chất lƣợng, lợi nhuận đƣợc tăng lên.
Mặt khác sự phát triển KCN làm tăng nhu cầu tiêu thụ về số lƣợng và chất
lƣợng làm cho các ngành sản xuất khác có thêm thị trƣờng tiêu thụ nên các
ngành này cũng có cơ hội phát triển hơn. Đối với phát triển kinh tế của địa

phƣơng có KCN thì KCN làm tăng GDP cho địa phƣơng và quan trọng hơn là
tăng giá trị sử dụng đất. Việc phát triển các KCN làm cho các địa phƣơng hầu
hết đƣợc thay đổi về bộ mặt kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển, các ngành nghề
phụ trợ phát triển qua đó đời sống kinh tế đƣợc nâng cao hơn.
* Tiêu cực:
Bên cạnh các mặt tích cực đã nêu, việc xây dựng KCN cũng có những
tác động tiêu cực trong việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, nó sẽ phát triển
theo hƣớng xấu đi nếu không có sự kiểm soát, định hƣớng có quy hoạch của
các cấp thẩm quyền. Đặc biệt là vấn đề của ngƣời nông dân bị mất đất sản xuất,
một số hộ nông dân do quá tuổi lao động, không có trình độ theo yêu cầu của
nhà tuyển dụng đã không chuyển đổi đƣợc việc làm dẫn đến tình trạng thất
nghiệp và giảm thu nhập nên kinh tế những hộ này ngày càng đi xuống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
1.1.5.2. Tác động về xã hội
* Tích cực
Xây dựng KCN dẫn tới nhu cầu về lao động vào các ngành công nghiệp
tại KCN sẽ tăng nên lực lƣợng lao động ở độ tuổi còn trẻ trong vùng sẽ có cơ
hội học tập để đáp ứng đƣợc công việc. Từ đó sẽ có công việc ổn định và thu
nhập cao hơn lao động nông nghiệp trƣớc đây. Ngoài ra, việc xây dựng KCN
kéo theo nhiều loại hình dịch vụ phát triển vì vậy, những ngƣời dân trong
vùng có thêm các cơ hội về các loại hình việc làm mới nhờ đó nâng cao thu
nhập. Xây dựng các KCN là cơ hội để phát triển các ngành nghề truyền thống,
những hộ nông dân mất đất không đáp ứng đƣợc công việc mới có tính chất
công nghiệp cao sẽ chuyển hƣớng tham gia vào để phát triển các ngành nghề,
làng nghề truyền thống để tận dụng đƣợc sức lao động của nhiều độ tuổi lao
động cũng nhƣ thời gian nhàn rỗi (nghề thêu, mây tre đan, ). Đối với vấn đề
phát triển xã hội, CNH hoá tại các KCN góp phần phát triển xã hội một cách

toàn diện: nâng cao dân trí; cuộc sống văn minh; mở rộng và phát triển nền
văn minh nhân loại và các KCN đã thúc đẩy sự phát triển của công đồng.
Cùng với sự phát triển đô thị, các khu vực ven đô, ngoại thành, các khu vực
khác đều trở thành nơi cung cấp lao động, cung cấp thực phẩm, lƣơng thực,
nguyên liệu cho KCN nhờ vậy mà sản xuất cộng đồng phát triển. Thêm vào
đó sự phát triển các KCN làm thay đổi bộ mặt văn hoá của địa phƣơng, thay đổi
theo hƣớng tốt hơn của nếp sống cộng đồng, có cơ hội tiếp xúc và hƣởng thụ
phƣơng tiện thông tin đại chúng, văn hoá mới hiện đại, có tiêu chuẩn tốt hơn.
* Tiêu cực:
Nhƣ đã nêu trên, việc xây dựng các KCN đối với vấn đề xã hội gây ra
tình trạng phổ biến là thất nghiệp mùa vụ và dƣ thừa lao động, tình trạng này
gây không ít những tác động tiêu cực cho xã hội. Ở các khu vực có KCN các
tệ nạn xã hội nhiều hơn, tỷ lệ thất nghiệp, mù chữ cao hơn và cũng mất dần các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
phong tục tập quán tốt trƣớc đây do nhiều thành phần xã hội tập trung đến để
làm việc và mƣu sinh, kiếm sống.
1.1.5.3. Tác động đến việc làm của người dân
Vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất dẫn đến chuyển dịch lao động
cũng đang diễn ra mạnh mẽ cả tự phát và trong quy hoạch. ''Đất xây dựng kết
cấu hạ tầng phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị tăng tƣơng đối
nhanh'' điều này tất yếu dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp
không còn tƣ liệu sản xuất rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Ở Vĩnh Phúc trong những năm gần đây có tốc độ phát triển các KCN,
khu đô thị mới tăng nhanh mặc dù trong những năm qua Tỉnh uỷ, Hội đồng
nhân dân nhân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các tổ chức xã hội, ngƣời lao động đã
triển khai nhiều hoạt động để giải quyết việc làm (xây dựng đề án giải quyết
việc làm cho lao động, tổ chức các hội chợ việc làm, ) hàng năm giải quyết

cho hàng vạn lao động nhƣng tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức khá cao (ở đô thị là
2%). Với tốc độ thu hồi đất trong những năm vừa qua rõ ràng việc làm cho
lao động sau khi giao đất là một vấn đề rất lớn khi lực lƣợng lao động này đại
bộ phận chƣa qua đào tạo và độ tuổi cao (35-55-60 tuổi), nhất là lao động nữ,
vì vậy để tìm đƣợc việc làm trong các cụm công nghiệp, KCN, phù hợp với
yêu cầu của các nhà tuyển dụng là rất khó khăn.
1.1.6. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và Việt Nam về giải quyết
việc làm cho người dân khi bị thu hồi đất.
Để giải quyết vấn đề việc làm và lao động dƣ thừa trong quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa ở một số nƣớc trên thế giới, các quốc gia đã có nhiều giải
pháp khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi nƣớc. Kết quả đạt đƣợc
của mỗi quốc gia là bài học quý báu đối với vấn đề giải quyết việc làm cho
ngƣời dân trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam.
1.1.6.1. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Công tác khuyến khích phát triển kinh tế đô thị là một trọng tâm đƣợc ƣu
tiên ở tất cả các đô thị của nƣớc Đức. Công tác lãnh đạo và quản lý các KCN
đều chú ý tập trung khai thác các tiềm năng kinh tế địa phƣơng tạo điều kiện
thuận lợi để nó phát triển. Việc này liên quan đến hàng loạt các nhân tố nhƣ tác
động vào hoạt động của các doanh nghiệp thông qua chính sách tài chính thuế,
duy trì khuyến khích các doanh nghiệp mới, chuẩn bị mặt bằng và cơ sở hạ
tầng, marketing đô thị, khuyến khích đổi mới công nghệ, xây dựng chính sách
việc làm cho địa phƣơng. Nƣớc Đức hiện nay đang ở trong thời kỳ “phi công
nghiệp hoá” nên đã giải thể các nhà máy xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 để chuyển
sang các dây chuyền sản xuất hiện đại có công nghệ cao và sạch, tạo năng suất
lao động cao và giảm ô nhiễm môi trƣờng. Các dự án phát triển kinh tế ở các
KCN đƣợc chuẩn bị một cách nghiêm túc, dân chủ và hƣớng vào phục vụ lợi

ích của cộng đồng.
Thành phố Nordhorn và Lingen là những thành phố để lại bài học bổ
ích về chuyển đổi công nghệ, tạo việc làm mới, khuyến khích các công ty phát
triển đa ngành, mở thêm các công ty mới. Doanh nghiệp dệt đã phát triển sớm
cách đây hơn 100 năm. Thời kỳ năm 1960 đã có 11.000 công nhân, đến
những năm gần đây chỉ còn 1.000 chỗ làm. Từ khi công nghiệp dệt đi xuống
thành phố đã tạo đƣợc 10.000 chỗ làm mới. Từ ngành dệt độc tôn này đã
chuyển sang đa ngành, bắt buộc phải có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh
mẽ. Quá trình cải tạo công nghiệp dệt cũng là quá trình CNH-HĐH. Thành
phố còn tập trung đầu tƣ vào phát triển hệ thống giao thông để phát triển kinh
tế, kết quả đạt đƣợc là tạo 18.000 chỗ làm mới. Nƣớc Đức còn giải quyết việc
làm cho lao động bằng cách lập ra qũy bổ sung do nhà nƣớc tài trợ, mục đích
tạo thêm việc làm, trợ cấp thất nghiệp và phân tích cơ cấu thất nghiệp, để xây
dựng các chƣơng trình bồi dƣỡng nâng cao tay nghề, tạo việc làm thay thế
đáp ứng nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hạn chế tình trạng thất nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Đây là kinh nghiệm có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp nhà nƣớc đang
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và CNH-HĐH ở các vùng ngoại vi thành phố, đòi
hỏi chuẩn bị nguồn nhân lực từ con em nông dân để họ bƣớc vào làm việc ở
các khu liên doanh và các KCN mới [23].
1.1.6.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới. Tốc độ CNH-HĐH
cũng đang diễn ra rất nhanh chóng. Diện tích đất canh tác hạn chế trong khi
dân số đang tăng làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn ngày càng
tăng. Hiện nay, ƣớc tính Trung Quốc có từ 100 - 120 triệu lao động nông thôn
không có việc làm, hàng năm lại tăng thêm 6-7 triệu lao động. Với lực lƣợng
lao động nông thôn dƣ thừa này, hàng năm có hàng triệu ngƣời nhập cƣ vào

các vùng thành thị. Thực trạng này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác
quản lý đô thị về các mặt nhƣ: quản lý dân cƣ, lao động việc làm, an ninh, sức
khoẻ và nhiều vấn đề khác. Trong những năm qua, mặc dù vẫn còn tình trạng
di cƣ đến các đô thị lớn nhƣng với các biện pháp hữu hiệu Trung Quốc đã đạt
đƣợc những thành công trong việc hạn chế sức ép về việc làm. Giải pháp chủ
yếu mà Trung Quốc áp dụng để giải quyết việc làm cho các KCN là:
+ Phát triển các xí nghiệp địa phƣơng để thu hút việc làm. Các giai
đoạn phát triển của xí nghiệp địa phƣơng ở Trung Quốc bao gồm:
Giai đoạn đầu tiên là từ khi tiến hành đổi mới đến năm 1984. Trong
giai đoạn này, nhờ vào chủ trƣơng đổi mới của Trung Quốc về nông thôn, đặc
biệt là hệ thống hợp đồng trách nhiệm với các hộ gia đình đã tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, các nhân tố cho sản xuất đã bắt đầu xuất
hiện và những ngƣời nông dân bắt đầu tham gia vào các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp. Các đội sản xuất đƣợc đổi tên thành các xí nghiệp địa phƣơng.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1985 đến năm 1988 khi sản xuất nông nghiệp có
những biến động lớn và có sự giảm sút thì các xí nghiệp địa phƣơng lại rất phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
triển giúp cho kinh tế nông thôn phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Nhờ
vào các chính sách khuyến khích phát triển của nhà nƣớc đối với xí nghiệp địa
phƣơng. Năm 1988 tổng giá trị sản lƣợng của các xí nghiệp địa phƣơng này đạt
tới 645,9 tỷ nhân dân tệ; tăng gấp hơn 6 lần so với năm 1983. Các xí nghiệp này
hàng năm đã thu hút đƣợc lực lƣợng lao động dƣ thừa lên đến 10 triệu ngƣời và
đến năm 1988 số lao động làm trong các xí nghiệp này lên tới 95,45 triệu ngƣời,
xấp xỉ với số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nƣớc.
Giai đoạn thứ ba từ năm 1989 đến năm 1991: Đây là giai đoạn có nhiều
biến đổi trong sự phát triển của các xí nghiệp địa phƣơng. Nhờ vào các chính
sách mở cửa của Trung Quốc, do đặc điểm của địa lý gần với Hồng Kông, Ma

Cao và có sự góp mặt của nhiều Hoa Kiều thông qua đầu tƣ nƣớc ngoài làm
cho các xí nghiệp địa phƣơng phát triển mạnh mẽ ở các khu vực duyên hải.
Các hoạt động đầu tƣ về vốn, kỹ thuật trong các ngành chế biến, các ngành
đặc trƣng có thế mạnh khác rất phát triển. Năm 1991, tổng giá trị sản lƣợng
của các xí nghiệp địa phƣơng đạt 11000 tỷ nhân dân tệ, trong đó tổng giá trị
sản lƣợng công nghiệp đạt 850 tỷ nhân dân tệ, chiếm 1/3 tổng giá trị công
nghiệp quốc gia, thu hút hàng trăm triệu lao động.
Giai đoạn thứ tƣ bắt đầu từ năm 1992: Trong giai đoạn này các chính sách
cải cách và mở cửa ra bên ngoài đƣợc thúc đẩy tạo ra một nền kinh tế hƣớng
ngoại trên toàn quốc. Giá trị xuất khẩu của các xí nghiệp này đạt 190 tỷ nhân dân
tệ vào năm 1993. Năm 1994, số lƣợng các xí nghiệp địa phƣơng có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài mới thành lập đã tăng gấp hai lần và có sự mở cửa rộng từ vùng
duyên hải vào trong đất liền và biên giới của các tỉnh. Các công ty nƣớc ngoài
đến từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Châu Âu, Bắc Mỹ và các nƣớc Đông
Nam Á với sự tăng trƣởng cả quy mô lẫn số dự án. Các doanh nghiệp địa
phƣơng đã trở thành một động lực mới cho nền kinh tế và góp phần quan trọng
vào giải quyết công ăn việc làm, giảm sức ép lao động cho các đô thị lớn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
+ Thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp địa phƣơng, tạo điều kiện thu
hút lao động dƣ thừa. Cho đến nay, các doanh nghiệp địa phƣơng đóng vai trò
chính trong việc thu hút lực lƣợng lao động dôi dƣ. Các chính sách khuyến
khích đầu tƣ của nhà nƣớc đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa
phƣơng. Trong những năm đầu tiên có tới 20% tổng số thu nhập của ngƣời
dân nông thôn là từ các doanh nghiệp địa phƣơng. Ở những vùng phát triển
hơn tỷ lệ này lên tới 50%. Năm 1992, tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp nông
thôn lần đầu tiên chiếm trên 50% tổng giá trị xã hội, số lƣợng lao động làm
việc trong khu vực này cũng tăng lên đáng kể. Tốc độ tăng trƣởng cao của các

doanh nghiệp địa phƣơng đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm cho lực lƣợng lao
động dôi dƣ ở khu vực nông thôn. Trung Quốc đã xuất hiện hai mô hình công
nghiệp hoá nông thôn là mô hình cá nhân ở phía nam tỉnh Giang Tô và mô
hình tập thể ở thành phố Giang Châu. Khuyến khích xây dựng các doanh
nghiệp địa phƣơng là một trong những giải pháp quan trọng của Trung Quốc
nhằm giải quyết vấn đề việc làm nông thôn.
+ Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cƣ
ở các thành phố lớn. Sự phát triển các đô thị nhỏ ở các vùng nông thôn cùng
với công nghiệp hoá nông thôn sẽ là một giải pháp để thu hút lao động dƣ thừa,
góp phần tối đa hoá việc phân bổ các nguồn lực ở các khu vực và thu hẹp
khoảng cách giữa các thành phố và vùng nông thôn. Những ngƣời nông dân có
kỹ năng sẽ có cơ hội tham gia vào các ngành công nghiệp và dịch vụ mà không
phải tham gia sản xuất nông nghiệp. Nhƣ vậy, qua bài học kinh nghiệm của
Trung Quốc về giải quyết vần đề dƣ thừa lao động nông thôn trong quá trình
CNH-HĐH trong từng giai đoạn phát triển là một bài học bổ ích cho nƣớc ta,
nhất là đối với giai đoạn đô thị hoá mạnh đang diễn ra hiện nay [23].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.1.6.3. Kinh nghiệm ở Nhật Bản:
Những năm 40 và 50 của thế kỷ XX, đời sống của nông dân Nhật Bản
gặp rất nhiều khó khăn, ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, nông dân thiếu
việc việc trầm trọng. Để giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở
nông thôn chính phủ Nhật Bản đã tiến hành :
+ Cải cách ruộng đất và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp.
Cải cách ruộng đất đã khuyến khích ngƣời nông dân đầu tƣ thêm nhiều lao
động vào ruộng đất chính họ sở hữu. Để tăng sản lƣợng, số ngày làm việc
bình quân một vụ trên diện tích gieo trồng đƣợc tăng lên. Bên cạnh đó, thâm
canh tăng vụ, hợp lý hoá cơ cấu cây trồng đã hạn chế đƣợc tình trạng thiếu

việc làm theo thời vụ.
+ Các chính sách và chƣơng trình hỗ trợ nông thôn khác nhau nhƣ:
Chƣơng trình tƣới tiêu, cung cấp tín dụng và trợ giá nông nghiệp, đƣa giáo
dục nông học vào trƣờng phổ thông, hình thành các trung tâm nghiên cứu và
trạm ứng dụng thử nghiệm phục vụ nông dân. Những chƣơng trình này đã tạo
thêm việc làm và thu nhập cho nông dân. Sức mua ở các khu vực nông thôn
tăng lên, tạo điều kiện để phát triển kinh tế phi nông nghiệp, từ đó thu nhập
của các hộ nông dân đã không ngừng tăng lên. Một nguyên nhân thành công
của Nhật Bản trong việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp là mở rộng các dịch vụ
ngành nông nghiệp, bán lẻ và phân phối các lĩnh vực, nền kinh tế thoát khỏi
áp lực của di dân và cạnh tranh quốc tế [13].
1.1.6.4. Kinh nghiệm của Việt Nam về giải quyết việc làm cho người dân khi
bị thu hồi đất.
Ở nƣớc ta trong những năm gần đây vấn đề giải quyết việc làm cho
ngƣời bị thu hồi đất luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm đặc biệt, các chính
sách đã đƣợc thực hiện nhƣ đào tạo nghề cho nông dân các vùng bị thu hồi
đất, quy hoạch phát triển và khôi phục các làng nghề truyền thống, hỗ trợ cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
nông dân sử dụng quỹ đất còn lại chuyển sang nông nghiệp đạt hiệu quả cao
1.2. Một số văn bản pháp luật quy định về bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu
hồi đất.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, đến năm 1953 Nhà nƣớc
ta thực hiện cải cách ruộng đất nhằm phân phối lại ruộng đất với khẩu hiệu
“ngƣời cày có ruộng” và Luật cải cách ruộng đất đƣợc ban hành. Thời kỳ này
Nhà nƣớc thừa nhận sự tồn tại của 3 hình thức sở hữu đất đai: sở hữu Nhà
nƣớc, sở hữu tập thể và sở hữu tƣ nhân. Bên cạnh đó Luật cải cách ruộng đất
có các quy định về tịch thu, trƣng thu, trƣng mua ruộng đất tuỳ theo từng

trƣờng hợp cụ thể [13].
Đến năm 1959 bản Hiến pháp thứ 2 đƣợc ban hành và nhiều văn bản khác
quy định vẫn có 3 hình thức sở hữu về đất đai do vậy, khi thu hồi, lấy đất của tập
thể và tƣ nhân Nhà nƣớc phải thực hiện trƣng dụng đất. Điều 20 của Hiến pháp
nói rõ: “Khi nào cần thiết vì lợi ích chung Nhà nƣớc mới trƣng mua hoặc trƣng
dụng, trƣng thu có bồi thƣờng thích đáng các tƣ liệu sản xuất ở thành thị và nông
thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.”[17].
Về việc trƣng dụng đất, ngày 14/04/1959 Thủ tƣớng Chính phủ ban
hành Nghị định số 151-TTg quy định về thể lệ tạm thời về trƣng dụng đất.
Một trong những nguyên tắc của việc trƣng dụng ruộng đất của nhân dân
dùng vào việc xác định những công trình do Nhà nƣớc quản lý: “Đảm bảo kịp
thời và đủ diện tích cần thiết cho công trình xây dựng, đồng thời chiếu cố
đúng mức quyền lợi và đời sống của ngƣời có ruộng. Những ngƣời có ruộng
đất bị trƣng dụng đƣợc bồi thƣờng và trong trƣờng hợp cần thiết đƣợc giúp
giải quyết công việc làm ăn” [22]. Bên cạnh đó Nghị định cũng quy định về
việc bồi thƣờng cho ngƣời có ruộng đất bị trƣng dụng: “Cách bồi thƣờng tốt
nhất là vận động nhân dân điều chỉnh hoặc nhƣờng ruộng đất cho những
ngƣời có ruộng đất bị trƣng dụng để họ có thể tiếp tục sản xuất”. “ … trƣờng

×