BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
******************
NGUYỄN VĂN DŨNG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỦY NGUYÊN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Hà Nội, năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
******************
NGUYỄN VĂN DŨNG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỦY NGUYÊN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60.85.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Châu Thu
Hà Nội, năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Dũng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bản luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của PGS. T.S Đào Châu Thu, sự quan tâm tạo điều kiện của phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện Thủy Nguyên, UBND các xã thuộc huyện Thủy
Nguyên, các phòng: Tài chính, Nông nghiệp và PTNN, Thống kê thuộc
UBND huyện Thủy Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Tài nguyên và Môi trường,
đã tạo điều kiện cho tôi học tập và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện
đề tài.
Đồng nghiệp nơi tôi đang công tác đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin gửi tới gia đình, bạn bè, những người thân và đồng nghiệp nơi tôi
đang công tác đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu đó !
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả
Nguyễn Văn Dũng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
DANH MỤC BẢNG BIỂU 7
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiêp và tình hình sử dụng đất
nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam 4
1.1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiêp 4
1.1.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam 8
1.2 Đánh giá hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp.
11
1.2.1 Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 11
1.2.2 Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc sử dụng đất nông nghiệp
12
1.2.3 Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất 15
1.2.4 Quan điểm sử dụng đất bền vững 18
1.3 Đánh giá loại hình sử dụng đất theo phương pháp đánh giá đất của
FAO 23
1.4 Những nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên thế giới và
Việt Nam 24
1.4.1 Những nghiên cứu trên thế giới 24
1.4.2 Những nghiên cứu trong nước 26
1.5 Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong tương lai 28
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1 Đối tượng nghiên cứu 31
2.2 Phạm vi nghiên cứu 32
2.3 Nội dung nghiên cứu 32
2.3.1 Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến
sử dụng đất đai 32
2.3.2. Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp 32
2.3.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 32
2.3.4 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thủy Nguyên 33
2.4 Phương pháp nghiên cứu 33
2.4.1 Phương pháp thu thập các số liệu, tài liệu 33
2.4.2 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu 34
2.4.3 Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất 34
2.4.4 Các phương pháp khác 35
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thủy Nguyên 36
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 36
3.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 41
3.2. Đánh giá thực trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện
Thủy Nguyên 42
3.2.1 Hiện trạng và biến động đất đai của huyện Thủy Nguyên 42
3.2.2 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thủy Nguyên 43
3.2.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 51
3.3. Định hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững huyện Thủy
Nguyên thành phố Hải Phòng 65
3.3.1. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp 65
3.4. Đề xuất giải pháp sử dụng đất nông nghiệp bền vững huyện Thủy
Nguyên thành phố Hải Phòng 71
3.4.1. Giải pháp về kỹ thuật 72
3.4.2. Giải pháp về quản lý đất đai 73
3.4.3. Giải pháp về khuyến nông, khuyến ngư 73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 75
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BVTV Bảo vệ thực vật
BQ Bình quân
CPTG Chi phí trung gian
ĐVT Đơn vị tính
FAO Tổ chức nông lương Liên Hợp Quốc
TCP Tổng chi phí
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT Giá trị gia tăng
GTSX Giá trị sản xuất
IRRI Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
KH Khấu hao
LĐ Lao động
LUT Loại hình sử dụng đất
LUU Kiểu sử dụng đất
TNHH Thu nhập hốn hợp
RRA Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn
PRA Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Biến động về diện tích đất sản xuất nông nghiệp và diện tích đất
trồng cây hàng năm ở Việt Nam 10
Bảng 4.1. Tình hình biến động dân số giai đoạn 2005 - 2012 42
Bảng 4.2. Tình hình biến động các loại đất chính giai đoạn 2000 - 2012 42
Bảng 4.3. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2012 43
Bảng 4.4. Giá trị sản xuất ngành nông lâm ngư nghiệp 44
Bảng 4.5. Hiện trạng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 1 50
Bảng 4.6. Hiện trạng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 2 50
Bảng 4.7. Hiện trạng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 3 51
Bảng 4.8. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất ở vùng 1 52
Bảng 4.9. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất ở vùng 2 54
Bảng 4.10. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất ở vùng 3 56
Bảng 4.11. Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 1 58
Bảng 4.12. Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 2 60
Bảng 4.13. Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 3 60
Bảng 4.14. Mức độ sử dụng phân bón cho một số loại cây trồng
trên địa bàn huyện Thủy Nguyên 62
Bảng 4.15. Định hướng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 1 69
Bảng 4.16. Định hướng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 2 71
Bảng 4.17. Định hướng các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 3 71
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất là một bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường sống, không
chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng để định cư và tổ chức hoạt
động kinh tế, xã hội, không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu sản
xuất đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Chính vì
vậy, sử dụng đất nông nghiệp là hợp thành của chiến lược phát triển nông
nghiệp bền vững và cân bằng sinh thái.
Những năm qua ở nước ta, việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để
chuyển sang công nghiệp và đô thị đã diễn ra rất nhanh, diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, và có nguy cơ tiếp tục giảm mạnh. Con người đã
và đang khai thác quá mức mà chưa có biện pháp hợp lý để bảo vệ đất đai.
Hiện nay, việc sử dụng đất đai hợp lý, xây dựng một nền nông nghiệp sạch,
sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng đảm bảo môi trường sinh thái ổn định
và phát triển bền vững đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Thực chất của mục
tiêu này chính là vừa đem lại hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội và
môi trường.
Do phải chịu sức ép dân số gia tăng nên nhiều năm trước đây vấn đề
sản xuất nông nghiệp ở nước ta có phần không chú trọng đến việc bồi bổ đất
đai mà chỉ quan tâm đến năng suất, sản lượng. Chính vì vậy hệ sinh thái nông
nghiệp đã bị thay đổi đáng kể và tính bền vững trong hệ thống nông nghiệp
không còn được duy trì. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ làm thoái
hóa đất, đặc biệt ở các tỉnh trung du miền núi nước ta.
Huyện Thuỷ Nguyên là một huyện kinh tế trọng điểm của thành phố
Hải Phòng, cách thành phố Hải Phòng 5 km về phía Đông Bắc, phía Tây giáp
với tỉnh Hải Dương, phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh. Là cửa
ngõ phía bắc thành phố, đồng thời là cầu nối giữa vùng than Quảng Ninh với
1
thành phố Hải Phòng và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Có các trục giao
thông đường bộ, đường thủy quan trọng chạy qua như: quốc lộ 10 nối các tỉnh
duyên hải Bắc Bộ, sông cửa Cấm, sông Bạch Đằng, từ Thủy Nguyên có thể
tỏa đi các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh trung du phía Bắc, phía nam và
các nước trong khu vực tương đối dễ dàng. Huyện có tổng diện tích tự nhiên
là: 24.279,90 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp là: 12.214,87 chiếm
50,31% diện tích đất tự nhiên.
Nghiên cứu các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá đúng mức độ
các loại hình sử dụng đất để tổ chức sử dụng đất hợp lý có hiệu quả cao theo
quan điểm bền vững làm cơ sở cho việc đề xuất quy hoạch sử dụng đất và
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp của huyện Thủy Nguyên là vấn đề
có tính chiến lược và cấp thiết.
Trước tình hình đó, huyện Thủy Nguyên cần đánh giá thực trạng sử
dụng đất nông nghiệp và định hướng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất
nông nghiệp cho một sự phát triển bền vững để đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, đô thị hóa.
Xuất phát từ thực tiễn trên, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đào Châu
Thu tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá thực trạng và định hướng sử
dụng đất nông nghiệp bền vững trên địa bàn huyện Thủy Nguyên - thành
phố Hải Phòng”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đánh giá được thực trạng sử dụng đất nông nghiệp bền vững trên địa
bàn Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2005-2012. Trên cơ sở đó
đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Đề tài sẽ góp phần giúp cho việc nhìn nhận một cách
2
có hệ thống một số vấn đề cơ bản như: khái niệm, tính chất, vai trò, ý nghĩa
cũng như các quan điểm khai thác sử dụng hợp lý và quản lý tài nguyên đất.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để hoạch
định các chính sách và giải pháp quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên đất của
huyện Thủy Nguyên. Là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đất đai của các huyện có điều kiện tương đồng trên địa bàn thành
phố Hải Phòng.
3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiêp và tình hình sử dụng đất
nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiêp
1.1.1.1 Đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng
cho con người, con người sinh ra trên đất, sống và lớn lên nhờ vào sản phẩm
của đất. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu đất là gì? Đất sinh ra từ đâu? Tại
sao lại phải giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên này. Học giả người Nga,
Docutraiep cho rằng “Đất là vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu đời do kết
quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành bao gồm: đá,
thực vật, động vật, khí hậu, địa hình, thời gian” [4]. Tuy vậy, khái niệm này
chưa đề cập tới sự tác động của các yếu tố khác tồn tại trong môi trường xung
quanh, do đó sau này một số học giả khác đã bổ sung các yếu tố như nước
ngầm và đặc biệt là vai trò của con người để hoàn chỉnh khái niệm nêu trên.
Học giả người Anh, Wiliam đã đưa thêm khái niệm về đất như sau “Đất là lớp
mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm cho cây” [38]. Bàn về
vấn đề này, C.Mác đã viết: “Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý
báu nhất của sản xuất nông nghiệp”, “Điều kiện không thể thiếu được của sự
tồn tại và sinh sống của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau” [4]. Trong
phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận là một nhân tố
sinh thái, bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái
đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất [36].
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho
rằng “Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được”
[4] và đất đai được hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một diện tích cụ thể của
bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái
4
ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình,
mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản
trong lũng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả
của con người trong quá khứ và hiện tại để lại” [4].
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói
đất nông nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành
nông nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào mục đích
khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu
cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp, nếu
không sẽ là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục đích nào là
chính).
Luật đất đai năm 2003 nêu rõ: “Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào
mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng, bao gồm
đất sản xuất nông nghiệp, đất sản xuất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản,
đất làm muối và đất nông nghiệp khác”.
1.1.1.2 Vai trò đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền
đề cho mọi quá trình sản xuất nhưng vai trò của đất đối với mỗi ngành sản
xuất có tầm quan trọng khác nhau. C.Mác đã nhấn mạnh “Lao động chỉ là cha
của cải vật chất, còn đất là mẹ” [4]. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà n-
ước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật” [15], Luật đất đai
2003 khẳng định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là
địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội,
5
an ninh và quốc phòng”[10]. Trong sản xuất nông lâm nghiệp, đất đai là tư
liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế, với những đặc điểm:
- Đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm
nghiệp, bởi vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá
trình sản xuất. Đất đai là đối tượng bởi lẽ nó là nơi con người thực hiện các
hoạt động của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
- Đất đai là loại tư liệu sản xuất không thể thay thế: bởi vì đất đai là sản
phẩm của tự nhiên, nếu biết sử dụng hợp lý, sức sản xuất của đất đai ngày
càng tăng lên. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng đất phải đứng trên
quan điểm bồi dưỡng, bảo vệ, làm giàu thông qua những hoạt động có ý nghĩa
của con người.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt địa
cầu [38]. Đặc điểm này ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất
nông - lâm nghiệp và sức ép về lao động và việc làm, do nhu cầu nông sản
ngày càng tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc
khai khẩn đất hoang hóa đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho
quĩ đất nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hướng vận động cần khuyến khích.
Tuy nhiên, đất đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là đất hoang
hóa, nằm trong quỹ đất chưa sử dụng. Vì vậy, cần phải đầu tư lớn sức người
và sức của. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, cần phải tính toán kỹ để đầu
tư cho công tác này thực sự có hiệu quả.
- Đất đai có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều giữa các vùng,
các miền [38]. Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng,
thời tiết, khí hậu, nước,…) điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, lao động, giao
thông, thị trường,…) và có chất lượng đất khác nhau. Do vậy, việc sử dụng
đất đai phải gắn liền với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp
để nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở nắm chắc điều kiện của từng
vùng lãnh thổ.
6
- Đất đai được coi là một loại tài sản, người chủ sử dụng có quyền nhất
định do pháp luật của mỗi nước qui định: tạo thuận lợi cho việc tập trung, tích
tụ và chuyển hướng sử dụng đất từ đó phát huy được hiệu quả nếu biết sử
dụng đầy đủ và hợp lý.
Như vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy thông qua quá trình phát triển của xã
hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất -
văn minh tinh thần, các thành tựu vật chất, văn hoá khoa học đều được xây
dựng trên nền tảng cơ bản đó là đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm
nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện
quan trọng nhất cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.1.1.3 Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp phải được sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này có
nghĩa là toàn bộ diện tích đất cần được sử dụng hết vào sản xuất, với việc bố
trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại đất nhằm
nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi đồng thời gìn giữ bảo vệ và nâng cao
độ phì của đất.
- Đất nông nghiệp phải được sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết quả
của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất
thông qua tính toán hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: năng suất cây trồng, chi
phí đầu tư, hệ số sử dụng đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất… Muốn
nâng cao hiệu quả sử dụng đất phải thực hiện tốt, đồng bộ các biện pháp kỹ
thuật và chính sách kinh tế - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn về lượng thực,
thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nông lâm
sản cho xuất khẩu [11].
- Đất nông nghiệp cần phải được quản lý và sử dụng một cách bền
vững. Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lương, có
7
nghĩa là đất đai phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà còn cho thế hệ tương lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với
điều kiện sinh thái, môi trường. Vì vậy, các phương thức sử dụng đất nông
lâm nghiệp phải gắn liền với việc bảo vệ môi trường đất, đáp ứng được lợi ích
trước mắt và lâu dài.
Như vậy, để sử dụng đất triệt để và có hiệu quả, đảm bảo cho quá trình
sản xuất được liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần
thiết và hết sức quan trọng với mỗi quốc gia.
1.1.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
1.1.2.1 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát
triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì
quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ
sở nên tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì
nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh
lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do
đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để
và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa
được coi trọng. Mặt khác, cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội,
công nghệ, khoa học và kỹ thuật, công năng của đất được mở rộng và có vai
trò quan trọng đối với cuộc sống của con người. Nhân loại đã có những bước
tiến kỳ diệu làm thay đổi bộ mặt trái đất và mức sống hằng ngày. Nhưng do
chạy theo lợi nhuận tối đa cục bộ không có một chiến lược phát triển chung
nên đã gây ra những hậu quả tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, thoái hoá đất.
Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới qua
các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói mòn, bị nhiễm
8
mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất Người ta ước tính có tới 15% tổng
diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con
người gây ra [21]. Theo P.Buringh [29], toàn bộ đất có khả năng nông nghiệp
của thế giới chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền); khoảng 78%
(xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng được vào nông nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng
nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ
ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng
trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác [29].
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện
tích đất nông nghiệp khá cao so với các Châu lục khác nhưng Châu á lại có tỷ
lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác,
châu á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số
đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia. ở Châu á, đất đồi núi
chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung
là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng
trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông
Nam á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40-60 triệu ha trước
đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt
nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do
khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu
cầu về lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một
tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm.
Đông Nam á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995
[14] cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện
tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu
người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
9
1.1.2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam
Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí nghiệm
về nông nghiệp [19]. Theo kết quả kiểm đất đai năm 2007, Việt Nam có tổng
diện tích tự nhiên là 33.115.039,62 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chỉ
có 9.420.276,14 ha, dân số là 85.154,9 nghìn người, bình quân diện tích đất
sản xuất nông nghiệp là 1106,25 m
2
/ người.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho
xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cáp bách luôn được
các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm
qua do tốc độ công nghiệp hoá cũng như đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở
nhiều địa phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất nông nghiệp ở
Việt Nam có nhiều biến động, theo những tư liệu của Tổng cục Thống kê và
Bộ Tài nguyên và Môi trường thì biến động về số lượng đất nông nghiệp của
nước ta trong những năm gần đây được thể hiện ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Biến động về diện tích đất sản xuất nông nghiệp và diện tích đất
trồng cây hàng năm ở Việt Nam
Năm
Tổng diện tích đất
sản xuất nông
nghiệp
(1000ha)
Tổng diện tích
đất trồng cây
hàng năm
(1000ha)
Dân số
(1000 người)
Bình quân diện tích
đất sản xuât nông
nghiệp người/m
2
2000 12.644,3 10.540,3 77.635,4 1.628,68
2005 9.415,57 6.370,02 83.119,9 1.132,77
2006 9.436,16 6.348,15 84.155,8 1.121,27
2007 9.420,28 6.309,62 85.154,9 1.106,25
Nguồn: Kiểm kê, thống kê đất đai các năm 2000, 2005, 2006, 2007- Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Niên giám thống kê 2008 [8].
Theo Nguyễn Đình Bồng (2002) [2] đất sản xuất nông nghiệp của
chúng ta chỉ chiếm 28,38% và gần tương đương với diện tích này là diện tích
10
đất chưa sử dụng. Đây là tỷ lệ cho thấy cần có nhiều biện pháp thiết thực hơn
để có thể khai thác được diện tích đất nói trên phục cho các mục đích khác
nhau. So với một số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào nông
nghiệp rất thấp. Là một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân
diện tích đất canh tác trên đầu người nông dân rất thấp và manh mún là một
trở ngại to lớn. Để vượt qua, phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp
lương thực thực phẩm cho toàn dân và có một phần xuất khẩu cần biết cách
khai thác hợp lý đất đai, cần triệt để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao
trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
1.2 Đánh giá hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.1 Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Thế giới đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha đất cho sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới khoảng 3-5 tỷ ha. Nhân loại đã làm
hư hại khoảng 1,4 tỷ ha đất và hiện nay mỗi năm có khoảng 6 -7 triệu ha đất
nông nghiệp bị bỏ do xói mòn và thoái hoá. Để giải quyết nhu cầu về sản
phẩm nông nghiệp của con người phải thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây
trồng và mở rộng diện tích đất nông nghiệp [31]. Việc điều tra, nghiên cứu đất
đai để nắm vững số lượng và chất lượng đất bao gồm điều tra lập bản đồ đất,
đánh giá hiện trạng sử dụng đất, đánh giá phân hạng đất và quy hoạch sử
dụng đất hợp lý là vấn đề quan trọng mà các quốc gia đang rất quan tâm. Để
ngăn chặn những suy thoái tài nguyên đất đai do sự thiếu hiểu biết của con
người, đồng thời nhằm hướng dẫn những quyết định về sử dụng và quản lý
đất đai, sao cho nguồn tài nguyên này có thể được khai thác tốt nhất mà vẫn
duy trì được sức sản xuất của nó trong tương lai, cần thiết phải nghiên cứu
thật đầy đủ về tính hiệu quả trong sử dụng đất, đó là sự kết hợp hài hoà cả 3
lĩnh vực hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trường trên quan
điểm quản lý sử dụng đất bền vững.
11
1.2.2 Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất là hết
sức cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra những đánh giá phù hợp với từng loại
vùng đất để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Các nhân tố ảnh hưởng có thể chia ra làm 3 nhóm sau đây:
* Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố như dất
đai, khí hậu thời tiết, nước, sinh vật có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông
nghiệp bởi vì đây là cơ sở để sinh vật sinh trưởng, phát triển và tạo sinh khối.
Đánh giá đúng điều kiện tự nhiên là cơ sở xác định cây trồng vật nuôi phù
hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
- Đặc điểm lý, hoá tính của đất: trong sản xuất nông lâm nghịêp, thành
phần cơ giới, kết cấu đất, hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ trong đất,
quyết định đến chất lượng đất và sử dụng đất. Quỹ đất đai nhiều hay ít, tốt
hay xấu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng đất.
- Nguồn nước và chế độ nước: là yếu tố rất cần thiết, nó vừa là điều
kiện quan trọng để cây trồng vận chuyển chất dinh dưỡng vừa là vật chất giúp
cho sinh vật sinh trưởng và phát triển.
- Địa hình, độ dốc và thổ nhưỡng: điều kiện địa hình, độ dốc và thổ
nhưỡng là yếu tố quyết định lớn đến hiệu quả sản xuất, độ phì đất có ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất cây trồng vật nuôi.
- Vị trí địa lý: vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện
ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước, gần đường giao thông, khu công nghiệp sẽ
quyết định đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy, trong thực tiễn sử
dụng đất nông lâm nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế
sẵn có nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Điều kiện khí hậu: các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn, nhiệt độ
12
bình quân, sự sai khác nhiệt độ ánh sáng, về thời gian và không gian trực
tiếp ảnh hưởng tới sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, cây
rừng và thực vật thuỷ sinh, lượng mưa, bốc hơi có ý nghĩa quan trọng trong
việc giữ nhiệt độ, độ ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước
cho sinh trưởng của cây trồng, gia súc, thuỷ sản [31].
*Biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai,
cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Theo tác giả Đường
Hồng Dật, (1995) [6] thì biện pháp kỹ thuật canh tác là những tác động thể
hiện sự hiểu biết sâu sắc của con người về đối tượng sản xuất, về thời tiết,về
điều kiện môi trường và thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa
chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng đầu vào phù
hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Theo Frank Ellis và Douglass C.North [25], ở các nước phát triển, khi có
tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì
cũng đặt ra yêu cầu đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công
nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng
trưởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ XXI, trong nông nghiệp Việt Nam, quy
trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế [8]. Như vậy
nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
* Nhân tố kinh tế - xã hội: bao gồm rất nhiều nhân tố như chế độ xã
hội, dân số, cơ sở hạ tầng, môi trường chính sách các yếu tố này có ý nghĩa
quyết định, chủ đạo đối với kết quả và hiệu quả sử dụng đất. Sau đây là một
số nhân tố chủ yếu:
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp. Trong các yếu tố cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất thì yếu tố giao thông vận tải là quan trọng nhất, nó
13
góp phần vào việc trao đổi tiêu thụ sản phẩm cũng như dịch vụ những yếu tố
đầu vào cho sản xuất. Các yếu tố khác như thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc,
dịch vụ, nông nghiệp đều có sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng.
Trong đó thuỷ lợi và điện là yếu tố không thể thiếu trong điều kiện sản xuất
hiện nay, giúp cho việc sử dụng đất theo bề rộng và bề sâu. Các yếu tố còn lại
cũng có hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản: là cầu nối giữa người sản
xuất và tiêu dùng, ở đó người sản xuất thực hiện việc trao đổi hàng hoá, điều
này giúp cho họ thực hiện được tốt quá trình tái sản xuất tiếp theo.
- Trình độ kiến thức, khả năng và tập quán sản xuất của chủ sử dụng
đất thể hiện ở khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, khả năng
về vốn lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh nghiệm truyền
thống trong sản xuất và cách xử lý thông tin để ra quyết định trong sản xuất.
Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng đất thì việc nâng cao trình độ và cập
nhật thông tin khoa học, kỹ thuật là hết sức quan trọng.
- Hệ thống chính sách: chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất, chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ giá, chính sách
định canh định cư, chính sách dân số, lao động việc làm, đào tạo kiến thức,
chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách xoá đói giảm nghèo…các chính
sách này đã có những tác động rất lớn đến vấn đề sử dụng đất, phát triển và
hình thành các loại hình sử dụng đất mới.
Trong các nhóm nhân tố chủ yếu tác động đến việc sử dụng đất được
trình bày ở trên, từ thực tế từng vùng, từng địa phương có thể nhận biết thêm
những nhân tố khác tác động đến hiệu quả sử dụng đất, trong đó có những yếu
tố thuận lợi và những yếu tố hạn chế. Đối với những yếu tố thuận lợi cần khai
thác hết tiềm năng của nó, những nhân tố hạn chế phải có những giải pháp để
khắc phục dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Vấn đề mấu chốt là tìm ra
14
những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất, để có những biện pháp
thay đổi cơ cấu sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả.
1.2.3 Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh thổ khác nhau
là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền vững và hợp lý. Trong đó
đánh giá hiệu quả sử dụng đất là một nội dung hết sức quan trọng. Vậy hiệu
quả sử dụng đất là gì?
Theo các nhà khoa học kinh tế Smuel-Norhuas; “Hiệu quả không có
nghĩa là lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội.
Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng số lượng một loại hàng
hoá này mà không cắt giảm số lượng một loại hàng hoá khác”.(Dẫn theo Vũ
Phương Thuỵ [25]).
Theo Trung tâm từ điển ngôn ngữ [26], hiệu quả chính là kết quả cũng
như yêu cầu của việc làm mang lại.
Theo khái niệm trên thì hiệu quả sử dụng đất phải là kết quả của quá
trình sử dụng đất. Trong đó ta quan tâm nhiều tới kết quả hữu ích, một đại
lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những
chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên đất
đai là hữu hạn với nhu cầu ngày càng tăng của con người mà ta phải xem xét
kết quả sử dụng đất được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để tạo ra kết quả
đó là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế khi
đánh giá hoạt động sản xuất nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đánh giá
kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất tạo ra sản
phẩm đó. Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất là nội dung đánh giá
hiệu quả.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của
15
hầu hết các nước trên thế giới [33]. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông
nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó
nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh
tranh cao. Đó là một trong những điều kiện vô cùng quan trọng để phát triển
nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá vừa mang tính ổn định vừa
đảm bảo sự bền vững.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học cho rằng: xác định đúng khái niệm, bản
chất hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của Mác và
những nhận thức lí luận của lí thuyết hệ thống, nghĩa là hiệu quả phải được
xem xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường [25].
* Hiệu quả kinh tế:
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian
lao động theo các ngành sản xuất khác nhau Theo các nhà khoa học Đức
(Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman-1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu
so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức
tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp
phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [25].
Như vậy hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa
lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng
chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó
cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan
hệ chặt chẽ giữa 2 đại lượng đó.
16