Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm qua các tiết hoạt động tập thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.8 KB, 20 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh tự tử vì nhiều
nguyên nhân. Học sinh không hứng thú trong học tập, bị xâm phạm, bị lợi dụng,
là do các em không có khả năng ứng phó với các căng thẳng, không biết giải quyết
xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia giáo dục,
nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống.
Vấn đề học sinh thiếu kĩ năng sống, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu
trách nhiệm với bản thân và gia đình, ích kỉ, vô tâm… đang là những rào cản lớn
cho sự phát triển toàn diện của thanh thiếu niên khiến nhiều phụ huynh và giáo viên
phiền lòng, trong khi xã hội thì phát triển ngày càng năng động.
Nhiều phụ huynh lo lắng khi con mình cũng có tầm hiểu biết về kiến thức
văn hóa nhưng luôn thiếu tự tin, rụt rè trước đám đông khi có cơ hội thể hiện mình
hoặc không biết cách xử lí tình huống dù thật đơn giản mà luôn kêu gọi sự giúp đỡ,
định hướng từ người khác…
Mặt khác tình trạng bạo lực học đường ngày một gia tăng thì kĩ năng tự bảo
vệ mình, kĩ năng tiết chế cảm xúc bản thân cũng cần được coi trọng để các em
ngoan, hiền không bị ức hiếp, bắt nạt.
Hiện nay nhiều học sinh sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế giới
ảo của game, của internet,… mà đánh mất chính mình, không quan hệ bạn bè,
không thể hiện được mình, rụt rè khi đứng trước đám đông, gặp người lớn thì
không chào hỏi, thiếu tôn trọng thầy cô giáo, …
Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của học sinh, các thầy cô
không khỏi lo lắng, buồn phiền. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra đề án sẽ đưa bô
môn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lồng ghép vào các môn học trong nhà
trường.
Với thói quen dạy và học như hiện nay, nhiều giáo viên sẽ cảm thấy rất khó
khăn khi lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào giờ học. Và nếu không
có bộ phận giáo viên am hiểu tâm lý và có vốn sống sâu rộng để giáo dục cho các
em thì “phương thuốc” trên sẽ nhanh chóng “bị lờn”. Lúc đó căn bệnh thiếu kĩ năng
sống của học sinh lại càng khó chữa hơn.
Một vấn đề nữa đặt ra, là nhiều trường học không biết về chương trình này


và càng hoang mang không biết dạy cái gì. Nhiều giáo viên bối rối không biết phải
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như thế nào, lồng ghép vào khi nào và lồng
ghép như thế nào cho hợp lí. Ngay cả một số giáo viên cũng chưa có những kĩ năng
sống cần thiết để áp dụng vào cuộc sống thì lại càng không biết dạy như thế nào.
Là giáo viên trực tiếp đứng trên bục giảng chúng ta hãy chủ động nhìn thẳng
vào nguyên nhân thì sẽ có cách khắc phục đem lại hiệu quả lâu dài. Việc này không
hề khó khăn gì bởi chúng ta tin tưởng một điều rằng không có học sinh nào muốn
mình kém cỏi, muốn mình hư hỏng cả. Ai cũng muốn mình trở thành con người
1
hoàn thiện cả về tri thức và nhân cách. Ngành giáo dục luôn có cả xã hội, có gia
đình và chính các em học sinh cũng tha thiết mong những điều tốt đẹp nhất, do đó
chúng ta (những nhà giáo dục) hãy biết kéo họ về phía mình.
Muốn thành công thì dù chúng ta đã là giáo viên cũng hãy mãi là sinh viên
trường đời để không ngừng học hỏi. Hãy học để mà dạy lại cho các em và học để
cuộc sống của mình thành công, hạnh phúc hơn. Không ai có thể khẳng định rằng
mình có đủ kĩ năng sống để ứng phó với mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống. Vì
vậy chúng ta phải luôn học hỏi, học hỏi suốt đời để đúc rút được nhiều hơn các
kinh nghiệm sông.
Kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã được tôi học hỏi và áp
dụng để lồng ghép trong dạy học bộ môn (sinh học) mà tôi phụ trách. Đặc biệt là
tôi đã áp dụng để giáo dục học sinh lớp tôi chủ nhiệm trong những năm học gần
đây và đã đem lại hiệu quả giáo dục rất cao.
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp chủ nhiệm qua các tiết hoạt động tập thể”. Đề tài được thực hiện với đối
tượng học sinh lớp 12A3 khóa 2009- 2012 Trường Trung học phổ thông Lê Lợi, là
lớp tôi chủ nhiệm 3 năm liền.
Đề tài do thời gian nghiên cứu chưa nhiều năm, được thực hiện độc lập với
riêng cá nhân tôi – một giáo viên trẻ mới vào nghề nên chắc chắn còn mang tính
chủ quan và không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý
chân thành từ bạn bè và đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh và đem lại

hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
I. CÁC KHÁI NIỆM
Ia. KỸ NĂNG SỐNG LÀ GÌ?
Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu
cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Theo WHO “Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã
hội. Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những
yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy
trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và
tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.”
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ
và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và
thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành
hành động (làm gì và làm như thế nào).
Kỹ năng sống chính là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý,
xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Kỹ năng sống còn
được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá
nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội
trong thực tại.
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam,sau đây là 10 kỹ
năng căn bản và quan trọng hàng đầu cho con người trong thời đại mới:
1. Kỹ năng học và tự học
2. Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân
3. Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm
4. Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc

5. Kỹ năng lắng nghe
6. Kỹ năng thuyết trình
7. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
8. Kỹ năng giải quyết vấn đề
9. Kỹ năng làm việc đồng đội
10. Kỹ năng đàm phán
Ib. GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG LÀ GÌ?
Giáo dục kỹ năng sống là trang bị những kiến thức, thái độ, hành động giúp
cho người học hình thành được những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với từng lứa
tuổi, điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống, Giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh việc rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách
3
các em. Giáo dục kỹ năng sống cần được tiến hành càng sớm càng tốt và có thể bắt
đầu ngay từ bậc tiểu học, thậm chí còn có thể ở tuổi mầm non. Bởi vì lứa tuổi này
những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách đang dần được hình thành.
II. PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP KỸ NĂNG SỐNG
1. Thảo luận nhóm
2. Các hoạt động kích thích tưởng tượng và động não
3. Sắm vai
4. Phân tích tình huống
5. Trò chơi, bài hát, nghe nhạc
6. Các loại hình nghệ thuật: vẽ, múa…
7. Chia sẻ kinh nghiệm
8. Thư giãn
9. Thực tập, tham quan,
III. CÁC KĨ NĂNG SỐNG CẦN GIÁO DỤC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
Có nhiều loại kĩ năng sống và nhiều cách phân loại kĩ năng sống. Ở
trường trung học, thầy cô cần giáo dục cho học sinh những kĩ năng sống cơ
bản sau:
1. Kĩ năng giao tiếp

2. Kĩ năng tự nhận thức
3. Kĩ năng xác định giá trị
4. Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
5. Kĩ năng kiên định
6. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
7. Kĩ năng hợp tác
8. Kĩ năng thương lượng
9. Kĩ năng đặt mục tiêu
Song để giáo dục kĩ năng sống thực sự có hiệu quả, phù hợp đặc điểm lứa
tuổi, với thực tế mỗi địa phương, thậm chí đối với từng trường thì mỗi trường, mỗi
thầy cô nên tập trung vào một số kĩ năng cốt lõi.
IV. MỤC TIÊU GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
Giáo dục kĩ năng sống là giúp học sinh:
1. Làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình huống
khó khăn trong cuộc sống hằng ngày
2. Rèn luyện sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng
3. Mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự quyết định và lựa chọn
những hành vi đúng đắn.
Như chúng ta đã biết, khoảng cách giữa nhận thức và hành động luôn khá
lớn. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần phải khơi gợi và phát huy sự
tham gia của các em trên cơ sở có sự hướng dẫn của giáo viên, không nên áp đặt
4
các em. Kĩ năng sống cần được xây dựng trên tình huống cụ thể, gắn với thực tiễn,
cần được củng cố qua quá trình thực hành.
B. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
I. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
1. Thuận lợi:
- Trường Trung học phổ thông Lê Lợi chúng tôi đã tổ chức giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh thông qua môn học (nội khoá, ngoại khoá), thông qua việc dạy
học tự chọn, qua hoạt động ngoài giờ lên lớp Do đó giáo viên được làm quen

với cách thức tổ chức này (qua các đợt tập huấn tích hợp giáo dục). Đây là một
trong những điều kiện thuận lợi cho việc đưa hoạt động giáo dục này vào nhà
trường.
- Trường Trung học phổ thông Lê Lợi đã lồng ghép nhiều chương trình giáo
dục vào chương trình dạy học từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi trường,
phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật,… sẽ tạo nhiều cơ hội và điều kiện để triển
khai giáo dục kĩ năng sống.
2. Khó khăn
- Khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nhiều cán bộ
quản lý và giáo viên trường Trung học phổ thông Lê Lợi nói riêng và nhiều trường
khác trên địa bàn Thanh Hóa nói chung còn gặp nhiều khó khăn như chưa có tài
liệu hướng dẫn, chưa có kế hoạch thực hiện, chưa có tiêu chí đánh giá,…).
- Tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động
giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông
qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá, ) cho nên
phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện,
- Thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của giáo viên sẽ là cản
trở lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói quen,
thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống.
II.NHỮNG MẶT THỰC HIỆN ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ
1. Mặt được:
- Nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên trong các tường phổ thông trong tỉnh
đã bước đầu làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ hiểu biết có
khác nhau.
- Một số hoạt động giáo dục kĩ năng sống đã được đa số các trường chú ý thực
hiện trong khuôn khổ và yêu cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Ðào tạo phát động.
- Giáo dục kĩ năng sống từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin
đại chúng đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của toàn xã hội.
- Hình thực tổ chức giáo dục kĩ năng sống đã bước đầu được thực hiện trong

một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và sinh hoạt câu lạc bộ với nội
dung khá đa dạng,
5
2. Mặt hạn chế:
- Giáo viên còn nhiều lúng túng trong việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống qua
các hoạt động thích hợp, có thực hiện song chưa mang ý nghĩa hình thành và phát
triển kĩ năng sống trong giảng dạy các môn học.
- Thiếu các điều kiện tối thiểu để tiến hành giáo dục kĩ năng sống trong nhà
trường, trước hết là tài liệu cho giáo viên và học sinh.
- Ðã có một vài dự án, đề tài nghiên cứu tổ chức tập huấn cho đội ngũ giáo viên
cốt cán, song nhìn chung đại bộ phận giáo viên chưa được tiếp cận với phương thức
tiến hành giáo dục kĩ năng sống .
* Nguyên nhân của những hạn chế:
- Còn thiếu một chủ trương rõ ràng và có tính toàn diện về giáo dục kĩ năng
sống vì vậy chưa có hướng dẫn cần thiết và thích hợp cho các nhà trường để tiến
hành hoạt động giáo dục này, một lĩnh vực vốn có những đặc điểm riêng so với các
lĩnh vực khác.
- Giáo dục kĩ năng sống chỉ là một nội dung trong 5 nội dung của phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và hoạt động đó được đặt
trong bối cảnh thi đua nên kết quả đạt được phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm, nhận
thức, nhiệt tình và sáng kiến của từng trường.
C. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
Các phương án có thể áp dụng để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bao gồm:
1. Đưa giáo dục kĩ năng sống vào hoạt động sinh hoạt lớp của giáo viên chủ
nhiệm và tập thể lớp (kĩ năng tự khám phá bản thân, tính năng động, kĩ năng giải
quyết vấn đề, kĩ năng phản hồi tích cực,…)
2. Đưa giáo dục kĩ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ (kĩ năng tự bảo vệ, kĩ
năng trình bày, kĩ năng thuyết trình, thuyết phục, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng
tự điều chỉnh cảm xúc…)
3. Đưa giáo dục kĩ năng sống vào các giờ học bộ môn (kĩ năng tự giải quyết

vấn đề, kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng hợp tác, ứng xử, kĩ năng phản hồi, đánh
giá tích cực…)
Sự phân chia như thế này chỉ mang tính chất tương đối, mỗi giáo viên có thể
lồng ghép một vài nội dung trong từng tình huống thì sẽ thực hiện tốt mục tiêu của
mình trong dạy học cũng như giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung kĩ năng sống
cần giáo dục trong một tiết học, chỉ nên việc giáo dục kĩ năng sống diễn ra một
cách nhẹ nhàng, đều đặn và liên tục qua các tiết học. Áp dụng chiến lược mưa dầm
thấm lâu thì sẽ thành công. Nếu giáo viên lồng ghép quá nhiều kĩ năng sống trong
một tiết học thì sẽ thất bại vì nội dung bài học không được đảm bảo mà nội dung
lồng ghép cũng không có hiệu quả. Học sinh sẽ cảm thấy gặp nhiều áp lực của giờ
học. Như vậy dạy học không thành công mà giáo dục cũng không thành công.
6
Vấn đề là chọn nội dung nào và lồng ghép ra sao thì có vẻ như còn nhiều
lúng túng. Một số trường đã cho thực nghiệm đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
vào nội dung giờ sinh hoạt chủ nhiệm, giờ sinh hoạt ngoài giờ lên lớp,… thu được
hiệu quả nhất định. Các trường đã áp dụng hình thức học nhóm, sinh hoạt nhóm,
chia sẻ nội dung kiến thức theo nhóm cũng nhằm phát huy khả năng làm việc
nhóm, qua đó giáo dục học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trình bày, kỹ năng phản
hồi ý kiến, kỹ năng hội họp, kỹ năng tổ chức và giải quyết công việc,
Nhưng hầu hết việc giáo dục kĩ năng sống chỉ ở dạng tự phát, cá nhân và ở
mức độ thấp để có thể nâng cao và ứng dụng đại trà việc đưa giáo dục kỹ năng
sống vào giáo dục cần có một sự thống nhất ở các cấp lãnh đạo. Trong đó, cần thiết
và quyết định chính là vai trò của cấp lãnh đạo nhà trường phổ thông.
I. Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ.
*Phương pháp 1: Giáo viên hoặc thuyết trình viên trình bày về các đề tài mà xã
hội và học sinh đang quan tâm.
* Ưu điểm phương pháp này:
- Có thể truyền đạt nhiều nội dung trong thời gian ngắn.
- Người trình bày chủ động về nội dung trình bày.

* Nhược điểm:
- Khó kêu gọi sự tập trung của học sinh theo dõi.
- Người trình bày có thể sẽ kéo dài thời gian do muốn trình bày nhiều nội dung.
- Cần một người trình bày có khả năng thuyết trình thật tốt.
Phương pháp này thích hợp khi muốn chia sẻ nhanh một vấn đề ngắn, và thời
gian thuyết trình cũng không nên quá 15 phút. Người trình bày nên biến bài thuyết
trình thành câu chuyện kể để tăng phần lôi cuốn và có thể đứng gần học sinh hơn
để rút ngắn khoảng cách với người nghe, luôn đặt câu hỏi để lôi kéo sự quan tâm
của học sinh. Có thể áp dụng phương pháp này trong nhiều trường hợp, cần ít thời
gian cho sự chuẩn bị.
*Phương pháp 2 : Học sinh làm tiểu phẩm về các đề tài do Nhà trường gợi ý trước.
Các đề tài gợi ý tùy theo nhu cầu và tình hình kinh tế - xã hội địa phương, có thể là
một trong các đề tài sau:
1. Chống bạo lực học đường
2. Xây dựng kỹ năng giao tiếp với người lạ
3. Kỹ năng định hướng, đọc bản đồ
4. Kỹ năng phản ứng với hoàn cảnh
5. Phòng chống ma túy
6. Phòng chống HIV- AIDS
7. Phòng chống tai nạn bất ngờ
8. An toàn giao thông
9. Vệ sinh an toàn thực phẩm
7
Các tiểu phẩm này thường diễn ra trong khoảng 10- 15 phút, và nên giao lần
lượt cho các lớp trình bày, không nên chỉ giao cho các “lớp chọn”. Xây dựng thành
một buổi sinh hoạt tuyên truyền, tăng cường giao tiếp giữa nhóm người trình bày
với học sinh toàn trường hoặc một khối lớp bằng cách đặt các câu hỏi yêu cầu
người xem trả lời, thảo luận nhanh, chia sẻ những suy nghĩ của cá nhân với vấn đề
được gợi ý.
Giáo viên sẽ duyệt qua nội dung tiểu phẩm, hệ thống câu hỏi và chuẩn bị

trước cho các nhóm trình bày kỹ năng định hướng, giải quyết các tình huống bất
ngờ nhằm lôi kéo cho người xem đi theo nội dung của nhóm đã định trước.
Trong buổi trình bày, nhà trường chuẩn bị trước một số quà nhỏ (kẹo, bánh,
đồ dùng học tập, ) để làm phần thưởng cho những câu trả lời hoặc câu hỏi do
người xem nêu ra.
Sau buổi trình bày, giáo viên phải có kết luận cho vấn đề được nêu ra trong
buổi sinh hoạt đồng thời cám ơn nhóm học sinh đã trình bày tiểu phẩm, cám ơn
toàn thể học sinh đã tích cực tham gia buổi sinh hoạt, sau đó thông báo nội dung
sinh hoạt lần kế tiếp, để học sinh có thể chuẩn bị trước.
Ở phương pháp này còn có thêm ưu điểm là để học sinh phát triển tư duy
phê phán tích cực, các em có cơ hội rèn luyện kỹ năng thế vai, tạo sự năng động và
giúp học sinh có cơ hội cùng chung làm việc với nhau trong nhóm, phát huy khả
năng lãnh đạo trong học sinh.
* Khó khăn có thể gặp phải khi đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào tiết sinh
hoạt dưới cờ và cách khắc phục:
- Học sinh không tập trung theo dõi nội dung sinh hoạt:
Học sinh chỉ chăm chú lắng nghe và xem khi thấy nội dung cần thiết, lôi
cuốn và có tốc độ diễn ra vừa phải hoặc hơi nhanh một chút. Do vậy việc chọn cho
được nhóm trình bày và cách trình bày tiểu phẩm hết sức quan trọng. Nhóm trình
bày không được quá 5 người, thời gian trình bày hoặc diễn ra tiểu phẩm không
được quá 15 phút, âm thanh phải rõ ràng, cần chuẩn bị ít nhất hai bạn học sinh giữ
nhiệm vụ chuyển micro đến các bạn học sinh làm khán giả.
Việc giữ trật tự cũng cần phải quan tâm nhờ đội ngũ thầy cô giám thị, giáo
viên chủ nhiệm các lớp cũng cần có mặt để biết được nội dung này. Ngay sau giờ
sinh hoạt dưới cờ, giáo viên chủ nhiệm có biện pháp chấn chỉnh trực tiếp với lớp
khi có hiện tượng vi phạm, ồn ào hoặc mất tập trung Tiếp đó, giáo viên chủ
nhiệm cần đề cập đến nội dung đã sinh hoạt và muốn lắng nghe ý kiến của học sinh
của lớp về vấn đề đã nêu thì lập tức sẽ tạo nên sự quan tâm của học sinh kể cả trong
buổi sinh hoạt kế tiếp.
- Giáo viên các lớp không hỗ trợ, hợp tác trong giờ sinh hoạt dưới cờ:

Ban Giám hiệu cần đặt qui định tất cả giáo viên đều phải có mặt trong giờ
sinh hoạt dưới cờ có lồng ghép giáo dục kỹ năng sống để theo dõi nội dung giáo
dục học sinh nhằm giáo dục đồng bộ, tránh sự trùng lặp, hoặc không thống nhất
8
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Vì thực tế không phải giáo viên nào
cũng được trang bị hoặc tự học hỏi đầy đủ về các kỹ năng sống.
Ban Giám hiệu đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống trong giờ sinh hoạt dưới
cờ đến tất cả giáo viên chủ nhiệm 1 tuần trước đó, để có sự chuẩn bị. Ngoài ra đưa
tiêu chí tham gia sinh hoạt lớp thành một tiêu chí thi đua xếp hạng của lớp và chi
đoàn vào cuối năm.
Ban Giám hiệu cũng cần thông qua trong hội đồng sư phạm việc cần thiết
phải có sinh hoạt dưới cờ, nhằm cho giáo viên thấy được vai trò và nhiệm vụ
của mình, mỗi giáo viên là tấm gương sống giáo dục học sinh, kế cả việc tham gia
chào cờ đầu tuần.
Những việc cần chuẩn bị cho giờ sinh hoạt dưới cờ có lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống:
+ Âm thanh: loa phải đầy đủ, rõ ràng.
+ Micro: ít nhất 2 micro không dây để có thể chuyền đến các học sinh muốn phát
biểu ý kiến, đặt câu hỏi.
+ Dù, bạt: học sinh phải được che nắng thì mới có thể tập trung lắng nghe.
+ Đội trật tự: Nên chọn học sinh lớp lớn để theo dõi học sinh lớp nhỏ, có sự chỉ đạo
của Ban chấp hành Đoàn trường.
II. Đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ học bộ môn.
Đây là nội dung có lẽ là khó nhất và phụ thuộc nhiều vào tài biến hóa của
giáo viên bộ môn và của nội dung bài học. Không thể thực hiện lồng ghép vào tất
cả các tiết học, mà chỉ có thể áp dụng ở một số tiết học với nội dung phù hợp.
Để có thể thực hiện tốt phần nội dung này đòi hỏi giáo viên bộ môn phải
luôn liên hệ nội dung bài học với thực tế cuộc sống, tận dụng sức mạnh của hoạt
động nhóm để giúp các học sinh giải quyết những vấn đề khó.
Có thể dẫn chứng một ví dụ dễ như sau:

Cho các em học sinh chia thành nhiều nhóm nhỏ để ôn bài cũ hoặc giải bài
tập mang tính chất liên hoàn (có thể chia thành nhiều công đoạn) để các em có thể
rút ngắn thời gian hoàn thành công việc.
Sau đó cho các em tự trình bày vấn đề của nhóm hoặc cá nhân, tự bảo vệ ý
kiến của mình. Trong khi đó, các bạn khác sẽ theo dõi, quan sát và phản biện, góp ý
kiến chia sẻ sao cho bài tập, sản phẩm của bạn mình được hoàn thiện hơn.
Vấn đề ở đây chính là phương thức tổ chức lớp học để học sinh có thể phát
huy kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, tạo động lực làm việc cho học sinh.
Giáo viên bộ môn cũng có thể giáo dục kĩ năng làm việc độc lập của học sinh
qua các tiết học hoặc qua các tiết kiểm tra đánh giá. Đồng thời cũng có thể lồng
ghép giáo dục được nhiều kĩ năng sống khác cho học sinh.
Cái khó ở đây là nội dung chương trình sẽ là bước cản cho việc lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống vào.Nếu như không khéo, giáo viên sẽ tự nâng cao
9
gánh nặng cho bản thân và cho học sinh. Và đây chính là lí do biện minh cho việc
nhiều giáo viên không thực hiện nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong
bộ môn.
Cần có những tiết thao giảng, dạy mẫu, trao đổi, rút kinh nghiệm trong tổ bộ
môn. Ban giám hiệu cần chú ý nhắc nhở giáo viên bộ môn đưa nội dung cần lồng
ghép vào trong nội dung môn học một cách tự nhiên, không gượng ép.
III. Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt tập thể hoặc giờ
sinh hoạt ngoài giờ lên lớp
Hiện nay hầu như việc thực hiện sinh hoạt lớp đầu tuần của giáo viên chủ
nhiệm với lớp chủ nhiệm thường theo kịch bản cũ:
Kịch bản 1:
Giáo viên chủ nhiệm tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi
vi phạm của học sinh, chấn chỉnh những sai phạm, khiển trách hay cảnh cáo những
trường hợp tái phạm của học sinh.
Sau đó là thông báo kế hoạch hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và
phân công học sinh thực hiện theo kế hoạch. Giáo viên chủ nhiệm còn làm nhiệm

vụ “tài chính” (thu tiền học phí và các khoản thu khác) trong giờ sinh hoạt tập thể.
Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính
giáo dục cho cả lớp nghe và từ đó học sinh rút ra được những bài học cần thiết cho
bản thân mình.
Kịch bản 2:
Giáo viên chủ nhiệm giao lớp trưởng báo cáo tình hình tuần qua, những
trường hợp sai phạm cần nhắc nhở, chấn chỉnh. Giáo viên chủ nhiệm làm nhiệm vụ
“tài chính” trong giờ sinh hoạt.
Giáo viên chủ nhiệm đọc thông báo chung cho cả lớp kế hoạch của nhà
trường và của lớp. Sau đó, bí thư chi đoàn hoặc lớp phó văn thể tổ chức văn nghệ
hoặc các nội dung sinh hoạt khác.
Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính
giáo dục cho cả lớp nghe và từ đó học sinh rút ra được những bài học cần thiết cho
bản thân mình.
Những kịch bản như trên chỉ thích hợp với các lớp ngoan, ít vi phạm nội
quy trường lớp. Còn đối với các lớp thường xuyên có vi phạm thì giờ sinh hoạt lớp
sẽ nhàm chán, nặng nề vì học sinh trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai
phạm trong tuần qua và tâm lý chung sẽ là mắc cỡ, e ngại, Riêng với những em
thường xuyên vi phạm thì tình hình còn có thể bi đát hơn: tâm lý bất cần sẽ nảy
sinh, các em có thể trở nên lì hơn, “cứng đầu” hơn, khó bảo hơn.
Giáo viên chủ nhiệm sẽ mất cảm hứng để giáo dục kĩ năng sống khi lớp có
nhiều học sinh vi phạm. Thầy cô sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái bực tức, nóng nảy và
chắn chắc sẽ kéo dài thời gian rầy la cả lớp một cách không có chủ đích rõ ràng.
10
Có thể thay đổi kịch bản giờ sinh hoạt chủ nhiệm sao cho tăng tính chủ
động của học sinh nhiều hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể lớp chứ không phải
vai trò của giáo viên chủ nhiệm, của một lớp trưởng hay bí thư chi đoàn. Biến giờ
sinh hoạt chủ nhiệm thành một buổi chơi với nhiều trò chơi khác nhau mà nội dung
được giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị trước. Các trò chơi này phải được lựa chọn và
có chủ đích nhằm giáo dục kỹ năng tương ứng cho học sinh.

*Kịch bản mới:
Việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt chủ yếu với cách làm
sao cho tăng tính chủ động của học sinh trong lớp, phát huy khả năng từng cá nhân
và nhấn mạnh vai trò của tập thể, để học sinh thấy được và luôn phát huy khả năng
phối hợp của nhóm trong khi giải quyết các vấn đề chung.
Trong kịch bản mới, lớp trưởng sơ kết tuần vừa qua. Giáo viên chủ nhiệm
phổ biến kế hoạch của tuần tới, nhắc nhở học sinh vi phạm và nhận xét chung. Sau
đó là sinh hoạt tập thể theo chủ đề và kịch bản đã đặt ra trước đó.
Có thể đưa ra 2 kịch bản sau để các thầy cô tham khảo, góp ý:
Kịch bản 1: Tổ chức trò chơi
Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính giải trí đơn thuần,
sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trong
giờ sinh hoạt.
* Khó khăn trong việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh
hoạt bằng cách tổ chức trò chơi và cách khắc phục:
- Lớp ồn ào, gây ảnh hưởng lớp kế bên. Ban Giám hiệu cần tổ chức tiến hành sinh
hoạt đồng thời tất cả các lớp và hãy chấp nhận sự ồn ào có định hướng chứ không
phải ồn ào mất trật tự.
- Các trò chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: chuẩn bị trước và tham khảo thêm các
trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung và phương thức sinh hoạt.
Có thể tham khảo một số trò chơi như sau:
Trò chơi 1: Mong muốn, hi vọng, quan tâm
Yêu cầu các học sinh lấy ra một mảnh giấy và trong một vài phút viết ra
những mong muốn riêng về một môn học hoặc một hoạt động nào đó, nói lên
những điều mình hy vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến.
Thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào lẫn một hộp, sau đó yêu cầu mỗi
học sinh chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn, hy vọng,
quan tâm cho cả nhóm học sinh nghe. Thầy cô hoặc một học sinh xung phong viết
ra những thông tin đó lên giấy khổ lớn.
Tổng hợp lại những mong muốn của các học sinh, nêu ra điểm giống nhau về

suy nghĩ, mong muốn của học sinh trong lớp.
Ý nghĩa: - Học sinh được mạnh dạn nêu lên suy nghĩ về những điều mình mong
muốn, hi vọng, quan tâm.
11
- Giáo viên chủ nhiệm lắng nghe và thấu hiểu học sinh, từ đó đề ra biện
pháp dạy học và giáo dục phù hợp.
Trò chơi 2 : Tìm vai
Số lượng: 8 bạn và “khán giả” (bao nhiêu cũng được).
Luật chơi: Mỗi bạn sẽ nhận được 1 tờ giấy, ghi rõ vai trò của từng bạn (ví dụ lãnh
đạo, người chống đối, ủng hộ ). Bạn không được “bật mí” cho các thành viên còn
lại biết vai trò của mình. Nhiệm vụ của các bạn là cùng nhau “diễn” để “khán giả”
nhận ra người nào đang giữ vai trò gì trong nhóm.
Ý nghĩa : Trò chơi giúp các bạn nhận đúng vai trò của từng thành viên trong nhóm,
qua đó sẽ giúp các bạn hiểu được tâm lí, tính cách của mỗi người để có cách ứng
xử đúng và làm việc nhóm hiệu quả hơn
Trò chơi 3: Lắng nghe
Số lượng: từ 5 trở lên, có thể chơi trong nhóm nhỏ trước và mở rộng cho cả lớp
Luật chơi: Trong vòng 1 phút, các bạn sẽ lắng nghe và ghi lại tất cả những tiếng
động xung quanh mình. Ai ghi nhiều hơn, người đó sẽ thắng.
Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện kĩ năng lắng nghe, một trong những kĩ
năng quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tôn trọng hay xây
dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe, chắc chắn bạn sẽ có
nhiều thông tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn.
Kịch bản 2: Chiếu video “Quà tặng cuộc sống”
Giáo viên chủ nhiệm cũng có thể sử dụng các đoạn phim “Quà tặng cuộc
sống” của chương trình VTV3 liên quan đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để
trình chiếu bằng máy chiếu. Sau đó cho học sinh thảo luận, phát biểu suy nghĩ,
chính kiến của bản thân mình và rút ra bài học. Có thể cho các em nói lên suy nghĩ
bằng lời nói hoặc viết vào giấy rồi tổng hợp lại.
Phương pháp này theo tôi đem lại hiệu quả giáo dục rất lớn mà giáo viên chủ

nhiệm không phải “nói nhiều”, “giáo huấn nhiều”. Nên lựa chọn sử dụng những
phim gần gũi liên quan với những kĩ năng sống mà giáo viên đang lựa chọn giáo
dục cho học sinh. Điều này là rất quan trọng vì nếu chọn sai nội dung thì việc giáo
dục sẽ giống như “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Mỗi giờ sinh hoạt, giáo viên chủ
nhiệm chỉ cần chiếu một đến hai đoạn video, không nên chiếu quá nhiều mà không
để thời gian cho học sinh suy nghĩ, thảo luận.
Có rất nhiều video liên quan đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Các thầy cô có thể tham khảo một số video có nội dung như sau:
Đoạn phim 1: Câu chuyện chiếc bình nứt
Có một người gánh nước mang hai chiếc bình lớn treo hai đầu một đòn
gánh. Một trong hai bình ấy bị một vết nứt, còn bình kia thì tuyệt hảo luôn đem về
đủ lượng một bình đầy nước. Cuối đoạn đường dài từ con suối đến nhà, chiếc bình
nứt lúc nào cũng vơi chỉ còn một nửa bình. Suốt hai năm trời, mỗi ngày người gánh
nước chỉ mang về nhà có một bình rưỡi nước. Dĩ nhiên, cái bình nguyên vẹn rất
12
hãnh diện về thành tích của mình, đã hoàn tất một cách tuyệt hảo nhiệm vụ nó được
tạo ra để thi hành. Còn tội nghiệp chiếc bình nứt, nó xấu hổ về khuyết điểm của
mình và khổ sở vì chỉ hoàn tất được có một nửa công việc nó được tạo ra để làm.
Sau hai năm chịu đựng cái mà nó cho là một thất bại chua cay, một ngày nọ nó lên
tiếng với người gánh nước bên suối : “Con thật xấu hổ vì vết nứt bên hông, đã làm
rỉ mất nước trên đường về nhà bác”. Người gánh nước trả lời: “Con đã chẳng để ý
thấy chỉ có hoa mọc trên đường đi bên phía của con à? Đó là vì ta vẫn luôn biết
khuyết điểm của con nên ta đã gieo hạt hoa dọc đường bên phía của con, và mỗi
ngày trên đường mình đi về con đã tưới nước cho chúng nó…. Hai năm nay ta vẫn
luôn hái được những bông hoa đẹp để chưng trên bàn. Nếu mà con không phải là
con y như thế này, thì trong nhà đâu có được trang hoàng đẹp đẽ như vậy”.
Mỗi người trong chúng ta đều có những khuyết điểm riêng biệt. Ai cũng
đều là “Chiếc bình nứt” cả. Nhưng chính các vết nứt và khuyết điểm đó của từng
người mới khiến cho đời sống chung của chúng ta trở nên thú vị và làm chúng ta
thỏa mãn. Chúng ta phải chấp nhận cá tính của từng người trong cuộc sống, và tìm

cho ra cái tốt trong họ. Vạn hạnh cho tất cả các bạn “bình nứt” của tôi.
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn phim 1
1. Sự khiếm khuyết có giá trị không?
2. Hình ảnh chiếc bình nứt tượng trưng cho ai trong cuộc sống?
3. Trong cuộc sống, khi gặp những khiếm khuyết của bản thân hay của người
khác, chúng ta thường làm gì?
4. Ai sẽ đóng vai trò “người gánh nước” trong cuộc sống của bạn?
5. Bạn có suy nghĩ gì về vấn đề chọn nghề liên quan đến các khiếm khuyết của
bản thân?
Đoạn phim 2: Cái kén bướm
Một chàng trai nọ tìm thấy một cái kén bướm. Một hôm anh thấy cái kén hé
một lỗ nhỏ. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn chú bướm nhỏ cố thoát mình khỏi cái lỗ nhỏ
xíu nhưng mọi việc không tiến triển gì thêm. Hình như chú bướm không thể cố hơn
được. Vì thế, anh ta quyết định lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.
Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng
lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi quan sát với hi vọng
thân hình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xòe rộng đủ để nâng đỡ thân hình chú.
Nhưng sự thật là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại
với đôi cánh nhăn nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay
được. Có một điều mà người thanh niên không thể hiểu: cái kén chật chội khiến
chú bướm phải nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên,
giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài.
Đôi khi đấu tranh là rất cần thiết trong cuộc sống. Nếu ta quen sống một cuộc
đời phẳng lặng, ta sẽ mất đi sức mạnh tiềm tàng mà bẩm sinh mỗi người đều có. Vì
13
thế, nếu bạn thấy mình đang phải vượt qua nhiều áp lực và căng thẳng thì hãy tin
rằng sau đó bạn sẽ trưởng thành hơn.
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn phim 2
1. Trong cuộc sống đã khi nào bạn đóng vai trò nhân vật chàng trai như trong
đoạn phim chưa?

2. Bạn có mong muốn mình được giúp đỡ như chú bướm nhỏ không?
3. Bạn có suy nghĩ gì về giá trị của sự đấu tranh?
4. Sự nỗ lực, cố gắng vượt qua áp lực của cuộc sống có tác dụng gì?
5. Bạn có muốn mình có cuộc sống phẳng lặng, bình thường không?
Đoạn phim 3: Con yêu mẹ
Người mẹ mệt mỏi trở về từ cửa hàng sau một ngày làm việc dài đằng đẵng,
kéo lê túi hàng trên sàn bếp. Đang chờ bà là đứa con trai - David, 8 tuổi, đang lo
lắng kể lại những gì mà em nó làm ở nhà: “… lúc con đang chơi ngoài sân còn bố
đang gọi điện thoại thì Tom lấy bút chì màu viết lên tường, lên tờ giấy dán tường
mới mẹ dán trong phòng làm việc ấy! Con đã nói với nó là mẹ sẽ bực mình mà!”.
Người mẹ than thở rồi nhíu lông mày: “Bây giờ nó đâu?”. Thế rồi bà bỏ hết
hàng ở đó, sải bước vào phòng của đứa con trai nhỏ, nơi nó đang trốn. Bà gọi cả tên
họ của đứa bé, mà ở các nước phương Tây, khi gọi cả tên lẫn họ như thế này là
thường thể hiện sự tức giận. Khi bà bước vào phòng, đứa bé run lên vì sợ, nó biết
sắp có chuyện gì ghê gớm lắm. Trong 10 phút, người mẹ nguyền rủa con, là bà đã
phải tiết kiệm thế nào và tờ giấy dán tường đắt ra sao! Sau khi rên rỉ về những việc
phải làm để sửa lại tờ giấy, người mẹ kết tội đứa con là thiếu quan tâm đến người
khác. Càng mắng mỏ con, bà càng thấy bực mình, cuối cùng bà ra khỏi phòng con,
cảm thấy cáu đến phát điên!
Người mẹ chạy vào phòng làm việc để xác minh nỗi lo lắng của mình.
Nhưng khi nhìn bức tường, đôi mắt bà tràn ngập nước mắt. Những gì bà đọc được
như một mũi tên xuyên qua tâm hồn người mẹ. Dòng chữ viết: “Con yêu mẹ” được
viền bằng một trái tim!
Và giờ đây bao thời gian trôi qua, tờ giấy dán tường vẫn ở đó, y như lúc
người mẹ nhìn thấy, với một cái khung ảnh rỗng treo để bao bọc lấy nó.
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn phim 3
1. Bạn đã bao giờ thể hiện tình cảm của mình với mẹ như cậu bé Tom chưa?
2. Bạn có suy nghĩ gì về những hành động và lời nói của người mẹ ngay sau khi
về nhà? Bạn có hoàn toàn trách bà mẹ không?
3. Vì sao người mẹ bật khóc?

4. Vai trò của sự lắng nghe, thấu hiểu và nhìn nhận toàn diện vấn đề là gì?
5. Cuối cùng, hành động của người mẹ như thế nào? Bà có trân trọng những gì
mà con mình đã dành cho không?
Đoạn phim 4: Câu chuyện về 4 ngọn nến
14
Trong phòng tối, có bốn ngọn nến đang cháy. Xung quanh thật yên tĩnh, đến
mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của chúng. Ngọn nến thứ nhất
nói: “Tôi là hiện thân của hòa bình”. Cuộc đời sẽ như thế nào nếu không có tôi?
Tôi thực sự quan trọng cho mọi người. Ngọn nến thứ hai lên tiếng: “Còn tôi là hiện
thân của lòng trung thành”. Hơn tất cả, mọi người đều phải cần đến tôi. Đến lượt
mình, ngọn nến thứ ba nói: “Tôi là hiện thân của tình yêu” Tôi mới thực sự quan
trọng. Hãy thử xem cuộc sống sẽ như thế nào nếu thiếu đi tình yêu? Đột nhiên,
cánh cửa chợt mở tung, một cậu bé chạy vào phòng. Một cơn gió ùa theo làm tắt cả
ba ngọn nến. “Tại sao cả ba ngọn nến lại tắt?” cậu bé sửng sốt nói. Rồi cậu bé òa
lên khóc. Lúc này, ngọn nến thứ tư mới lên tiếng: “Đừng lo lắng, cậu bé. Khi tôi
vẫn còn cháy thì vẫn có thể thắp sáng lại cả ba ngọn nến kia. Bởi vì :tôi chính là
niềm hi vọng. Lau những giọt nước mắt còn đọng lại, cậu bé lần lượt thắp sáng lại
những ngọn nến vừa tắt bằng ngọn lửa của niềm hi vọng! Từ đó ta hiểu được giá trị
đích thực của niềm hi vọng! Ngọn lửa của hi vọng sẽ luôn đi cùng các bạn suốt
cuộc đời. Khi giữ được hi vọng,chúng ta có thể thắp sáng lại ngọn lửa của hòa bình,
lòng trung thành và tình yêu! Hãy thắp sáng ngọn lửa hi vọng của mình và những
người xung quanh bạn!
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn phim 4
1. Bạn mong muốn mình có ngọn nến nào trong 4 ngọn nến?
2. Ngọn lửa của niềm hi vọng có giá trị như thế nào?
3. Trong cuộc sống đã bao giờ bạn muốn có mọi thứ mà bạn chưa từng nghĩ
đến mình cần “niềm hi vọng” chưa?
4. Niềm hi vọng có phải là mơ ước hão huyền, viển vông không?
Đoạn phim 5: Cà rốt, trứng và cà phê
Một cô gái trẻ nói với mẹ của mình rằng cuộc sống thật khó khăn. Cô

không biết sẽ tiếp tục như thế nào. Cô muốn buông xuôi vì đã quá mệt mỏi khi mãi
phải đấu tranh. Mẹ cô gái sau khi nghe con nói bèn đưa cô vào bếp. Bà đổ đầy nước
vào ba cái bình và đun sôi.
Trong chiếc bình đầu tiên, bà đặt vào những củ cà rốt, trong chiếc thứ hai bà
đặt những quả trứng, và trong chiếc cuối cùng bà đặt những hột cà phê nghiền. Sau
đó bà tiếp tục nấu sôi ba chiếc bình, và không nói một lời nào.
Khoảng 20 phút sau, bà tắt lửa. Bà vớt những củ cà rốt ra và đặt chúng vào
một cái bát. Bà lấy những quả trứng ra và đặt vào một cái bát khác. Bà lại lấy muôi
múc cà phê ra và đặt vào cái bát thứ ba. Quay sang cô con gái, bà hỏi: “Nào, con
hãy nói cho mẹ biết, con nhìn thấy gì?” “Dạ, cà rốt, trứng và cà phê”. Cô con gái
trả lời rồi hỏi: “Mẹ, điều đó có nghĩa là gì?”.
Bà mẹ giải thích rằng mỗi một thứ trong đó đã gặp điều kiện khó khăn như
nhau, đó là nước sôi. Mỗi thứ có phản ứng khác nhau. Cà rốt khi chưa bỏ vào nước
thì cứng, rắn và dai. Tuy nhiên, sau khi bị bỏ vào nước sôi, nó mềm đi và trở nên
yếu ớt. Quả trứng vốn rất dễ vỡ. Lớp vỏ ngoài mỏng manh của nó đã bảo vệ lớp
15
chất lỏng bên trong nó, nhưng sau khi được đặt vào trong nước sôi, phần bên trong
quả trứng cứng lại. Những hột cà phê nghiền thì khác. Sau khi bị bỏ vào nước sôi,
chúng đã biến đổi nước.
“Con là gì?” bà mẹ hỏi cô con gái. “Khi một hoàn cảnh bất lợi gõ cửa nhà
con, con sẽ phản ứng thế nào? Con là củ cà rốt, quả trứng hay hột cà phê?”
Người mẹ giải thích tỉ mỉ cho cô con gái: “Con là củ cà rốt, dường như rất mạnh
mẽ, nhưng khi gặp hoàn cảnh bất lợi, con yếu mềm và mất đi sức mạnh? Hay con
là quả trứng bắt đầu với một trái tim mềm yếu nhưng qua khó khăn lại trở nên cứng
rắn? Một số người dễ bị lung lay tinh thần, nhưng sau một cái chết, sự chia ly,
những khó khăn về tài chính, họ trở nên cứng nhắc, mặc dù cái vỏ bên ngoài vẫn
thế. Hoặc có thể con giống cà phê. Cà phê thực sự làm thay đổi nước nóng, chính là
thay đổi hoàn cảnh mang lại nỗi đau. Khi nước bị nóng, cà phê tỏa ra hương vị của
nó. Nếu con giống như cà phê, con sẽ sống tốt đẹp hơn và có thể thay đổi tình thế
xung quanh con, khi mọi thứ đang trở nên tồi tệ nhất.

Trước những ngày tháng đen tối nhất và trước những thử thách cam go nhất,
con sẽ nâng bản thân mình lên một tầm cao mới. Sau này khi con gặp hoàn cảnh
bất lợi, nhớ tự hỏi mình: “Tôi sẽ là cà rốt, trứng hay cà phê?”
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn phim 5
1. Hình ảnh 3 bình nước sôi tượng trưng cho điều gì trong cuộc sống của bạn?
2. Vì sao khi cho vào nước sôi, cà rốt, trứng và cà phê có phản ứng khác nhau?
3. Khi gặp hoàn cảnh bất lợi trong cuộc sống, bạn sẽ phản ứng như thế nào?
Bạn sẽ giống như cà rốt, trứng hay cà phê?
4. Bạn muốn mình là cà rốt, trứng hay cà phê? Những khó khăn trong cuộc
sống có phải lúc nào cũng gây bất lợi cho chúng ta?
…………….
Ngoài ra giáo viên có thể trình chiếu cho học sinh nhiều đoạn phim mang
tính chất giáo dục kĩ năng sống khác nữa để giáo dục các em, không nên chiếu các
bộ phim giải trí thông thường. Sau khi trình chiếu, giáo viên cho các em phát biểu
cảm nghĩ của mình và rút ra bài học về kĩ năng sống qua hệ thống câu hỏi thảo luận
của giáo viên đặt ra theo nội dung từng video. Nếu chỉ trình chiếu thôi mà không có
hệ thống câu hỏi thảo luận thì hiệu quả giáo dục sẽ không cao.
Hai kịch bản có thể thực hiện độc lập cũng có thể lồng ghép, đan xen nhau.
Tùy từng hoàn cảnh, từng đối tượng cụ thể mà áp dụng linh hoạt không nên máy
móc áp dụng những kịch bản như nhau vào các giờ sinh hoạt khác nhau hay các đối
tượng học sinh khác nhau.
Giáo viên chủ nhiệm có thể giao cho bí thư chi đoàn đọc hoặc kể những
câu chuyện “Tâm hồn cao thượng”. Hay giáo viên chủ nhiệm chiếu phim " Ba
chàng ngốc"- Phim Ấn Độ. Đây là một bộ phim hài đượm tính nhân văn, mang ý
nghĩa giáo dục sâu sắc để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm giúp các em có
thể ứng phó với các vấn đề của cuộc sống.
16
D. HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Đề tài này tôi thực hiện ở lớp chủ nhiệm 10A3,11A3,12A3 Khóa học
2009- 2012 Trường Trung học phổ thông Lê Lợi và đã đem lại hiệu quả giáo dục

rất cao.
* Trong việc chiếm lĩnh tri thức và tham gia các hoạt động chung, tỉ lệ học
sinh lớp có khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm cao hơn các lớp
khác khi tôi chưa áp dụng đề tài này. Các em có ý thức tự giác học tập cao hơn,
ngoan hơn và học tốt hơn. Thể hiện, xếp loại học lực và hạnh kiểm của học sinh
năm nay cao hơn năm trước và cao hơn các khóa trước, khi chưa áp dụng phương
pháp giáo dục kĩ năng sống vào giờ sinh hoạt tập thể.
Cụ thể, tôi đã thống kê số liệu trên 2 lớp chủ nhiệm qua 5 năm gần đây về
hạnh kiểm và học lực.
Về học lực:
Lớp Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu
10A6
2007- 2008
không có 18 em = 40% 26 em = 57,8% 1 em=2,2%
11A6
2008- 2009
không có 26em = 57,8% 18 em = 42,2% không có
10A3
2009- 2010
2 em = 4,4% 26 em = 57,8% 17 em = 37,8% không có
11A3
2010- 2011
4 em = 8,8% 34 em = 75,6% 7 em = 15,6% không có
12A3
2011- 2012
7 em = 15,6% 34 em = 75,6% 4 em = 8,8% không có
Về hạnh kiểm:
Lớp Loại tốt Loại khá Loại TB Loại yếu
10A6
2007- 2008

34 em= 75,6% 8 em = 17,8% 03 em = 6,6% không có
11A6
2008- 2009
36 em = 80% 7 em = 15,6% 02 em = 4,4% không có
10A3
2009- 2010
40 em= 88,9% 05 em = 8,9% không có không có
11A3
2010- 2011
43 em= 95,6% 02 em = 4,4% không có không có
12A3
2011- 2012
44 em= 97,8% 01 em = 2,2% không có không có
17
Trong 2 bảng thống kê trên có:
- Lớp đối chứng là: Lớp 10A6( 2007- 2008) và 11A6( 2008- 2009)
- Lớp thực nghiệm là: 10A3,11A3,12A3 Khóa học 2009- 2012
(sĩ số các lớp đều là 45 em)
* Trong các mối quan hệ, các em tỏ ra mạnh dạn hơn khi thể hiện mình, bớt
rụt rè, e ngại khi đứng trước đám đông. Các em tham gia các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao do Đoàn thanh niên tổ chức rất tích cực. Các em đoàn
kết hơn trong quá trình tham gia các hoạt động chung. Do đó tập thể lớp đã thu
được nhiều thành tích cao trong các cuộc thi do Đoàn thanh niên trường tổ chức.
* Tình trạng bạo lực học đường, bắt nạt bạn khác không có ở lớp tôi chủ
nhiệm. Học sinh sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và tập thể lớp.
Tình trạng học sinh bỏ học đi chơi bi a, điện tử, chat, giảm đáng kể.
* Tinh thần của các em sau các buổi sinh hoạt rất hào hứng, nhiều học sinh
bày tỏ rằng các em yêu thích giờ sinh hoạt tập thể và hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp. Vì qua đây các em có thể nhận thức được giá trị của bản thân, giá trị của
tinh thần đoàn kết và nhiều kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống.

* Sau gần một năm kể từ ngày tốt nghiệp Trung học phổ thông, các em học
sinh vẫn thường xuyên liên lạc với cô chủ nhiệm. Các em tâm sự rằng mình luôn
nhớ các hoạt động tập thể lớp đã tổ chức và mãi ghi nhớ, áp dụng các bài học về kĩ
năng sống vào thực tiễn cuộc sống.
18
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Với các cấp quản lí
- Để giáo viên dễ dàng hơn trong việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
vào trường học thì trước hết các cấp quản lí phải có chương trình kế hoạch cụ thể
về nội dung này.
- Hiệu trưởng các nhà trường nên định hướng cho giáo viên chủ nhiệm các
lớp thực hiện việc giáo dục kĩ năng sống một cách đồng thời, thống nhất nội dung
chung, tránh sự trùng lặp với các nội dung giáo dục của Đoàn trường trong giờ
sinh hoạt dưới cờ.
2. Với giáo viên
a. Với giáo viên bộ môn:
Trước tiên, các thầy cô hãy để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ
hội làm việc theo nhóm, hãy hướng dẫn cho học sinh biết liên hệ và ứng dụng kiến
thức đã học để giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Mục tiêu giáo
dục không chỉ là giảng dạy kiến thức cho học sinh mà cần làm thế nào để học sinh
có thể tự tìm kiến thức và tự giải quyết vấn đề, làm thế nào để học sinh biết phát
huy sức mạnh nhóm, tăng cường sự hợp tác trong giải quyết vấn đề. Làm như thế
là người thầy đã đưa được cần câu cho học sinh chứ không đưa con cá cho các em.
b. Với giáo viên chủ nhiệm:
- Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất quan trọng, quyết định đối với công tác
giáo dục học sinh, được coi như người mẹ hay người cha thứ hai của học sinh và
cũng có khi còn quan trọng hơn cả cha mẹ đẻ. Nhiều khi ở nhà bố mẹ nói chưa chắc
các em đã nghe nhưng thầy cô nói thì lại nghe. Nhiều khi bố mẹ hỏi các em có thể
không nói ra những gì đang nghĩ hoặc đang bức xúc nhưng có khi lại tâm sự với
thầy cô chủ nhiệm. Vì vậy, khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên chủ

nhiệm hãy coi các em như con em mình, chỉ bảo tận tình để các em thấy gần gũi,
thân thiện. Khi đó, việc giáo dục kĩ năng sống sẽ đem lại hiệu quả cao.
- Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với giáo viên bộ môn, các tổ chức trong
nhà trường (đặc biệt là Đoàn thanh niên) để lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho
các em một cách đồng bộ, tránh sự mâu thuẫn hay trùng lặp, có như thế mới đưa
được nhiều nội dung vào giáo dục.
- Giáo viên chủ nhiệm cũng cần tìm hiểu hoàn cảnh từng học sinh, đặc điểm
tâm sinh lí riêng của mỗi em để có biện pháp giáo dục phù hợp, không thể áp dụng
máy móc một kịch bản chung cho tất cả các đối tượng học sinh. Ngoài các biện
pháp giáo dục chung, một số học sinh cũng cần được giáo viên chủ nhiệm giáo dục
bằng những phương thức riêng.
19
Những suy nghĩ trên đây của bản thân tôi chỉ là một khía cạnh nhỏ và còn
nhiều hạn chế. Thời gian nghiên cứu đề tài chưa nhiều năm và được thực hiện độc
lập riêng cá nhân nên chắc chắn còn mang tính chủ quan và không tránh khỏi thiếu
sót. Một lần nữa kính mong các đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục tham khảo,
góp ý để tôi hoàn thiện đề tài hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Đỗ Thị Hoa
20

×