!"#$#$%&'()
*+,-.
')/01/$2
Luật hành chính là ngành luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của
các cơ quan Nhà nước. Khái niệm “hoạt động chấp hành – điều hành” có thể
được hiểu với nội dung và phạm vi gần như các khái niệm “hoạt động hành
pháp”, “hoạt động hành chính nhà nước” hoặc “hoạt động quản lý nhà nước”; do
đó có thể nói ngành luật hành chính là ngành luật về quản lý nhà nước.
a. Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính:
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước, bao gồm ba nhóm quan hệ xã hội cơ bản
sau:
- Nhóm thứ nhất: Những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản
lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước, đây là bộ phận cơ bản trong
đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính, gồm các quan hệ chủ yếu sau .
+ Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau (cơ quan
cấp trên và cơ quan cấp dưới theo hệ thống dọc, cơ quan có thẩm quyền chuyên
môn cấp trên với cơ quan có thẩm quyền chuyên môn cấp dưới; cơ quan có thẩm
quyền chung và cơ quan có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp, giữa các cơ quan
có thẩm quyền riêng cùng cấp)
Ví dụ: Quan hệ giữa Chính phủ với UBND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh
với UBND cấp huyện; quan hệ giữa Bộ giáo dục và đào tạo với Sở Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh, Quan hệ giữa Bộ Công nghiệp với UBND cấp tỉnh;
quan hệ giữa Sở Giáo dục và Sở Y tế,
+ Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các cá nhân, tổ
chức thuộc phạm vi quản lý của nó (các đơn vị cơ sở trực thuộc, các đơn vị cơ
sở của trung ương hoặc của cấp trên đóng tại địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, công dân, người nước ngoài.
1
Ví dụ: Quản lý nhà nước về hộ khẩu, về hộ tịch, quản lý hoạt động kinh
doanh, cấp phép hoạt động kinh doanh, quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm ;
quan hệ quản lý giữa UBND TPHCM với Công ty nưới Giải khát Sài Gòn, Tổng
công ty du lịch Sài Gòn Tourist; quan hệ giữa UBND TPHCM với Công ty May
10 đóng tại TPHCM; quan hệ giữa Sở Y tế với các bệnh viện công; Sở giáo dục
với các trường PTTH công lập
- Nhóm quan hệ thứ hai: Những quan hệ có tính chất quản lý, hình
thành trong quá trình các cơ quan Nhà nước xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy
và chế độ công tác nội bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ví dụ: Quan hệ giữa CBCC toà án với Chánh án TAND, giữa Kiểm sát
viên với Viện trưởng VKSND, giữa Quốc hội với các đại biểu Quốc hội, giữa
QH với các cơ quan chuyên trách của QH,
- Nhóm quan hệ thứ ba: là những quan hệ quản lý hình thành trong quá
trình một số tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
những vấn đề cụ thể được Nhà nước trao quyền thực hiện theo quy định pháp
luật .
Ví dụ: Tổng liên đoàn Lao động được trao quyền quản lý đối với các
Doanh nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công dân, Đoàn thanh
niên được trao quyền quản lý những vấn đề liên quan đến thanh niên,
b. Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính:
Phương pháp điều chỉnh của ngành luật hành chính là phương pháp
mệnh lệnh – phục tùng, mang tính chất đặc thù được quy định bởi tính chất của
quan hệ quản lý; đó là mối quan hệ “quyền uy – phục tùng”; giữa một bên là
người có quyền nhân danh nhà nước ra lệnh, ban hành những quy định có tính
chất bắt buộc đối với bên kia – là người phải phục tùng mệnh lệnh những quy
định đó. Quan hệ này thể hiện sự không bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
quan hệ quản lý nhà nước: một bên ra lệnh, bên kia phải phục tùng thi hành.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông ra lệnh người điều khiển phương tiện giao
thông ngừng xe lại để kiểm tra giấy tờ; hay thủ trưởng UBND ra lệnh nhân viên
giải quyết khiếu nại của người dân; Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế giải trình về vụ
nước tương có chứa chất MDPC-3,
2
Lưu ý: trong một số trường hợp đặc biệt luật hành chính cũng sử dụng
phương pháp thoả thuận như trong trường hợp ban hành các quyết định liên tịch,
ký kết và thực hiện các hợp đồng hành chính; quan hệ giữa các bên tham gia các
quan hệ này là quan hệ bình đẳng; không có ai có quyền ra lệnh ép buộc bên kia
(ví dụ như: UBND ký kết Liên tịch với Trường 6 về tiếp nhận học viên nghiện
ma tuý của địa phương; UBND TPHCM ký với Công ty xây dựng để xây dựng
sửa chữa trụ sở làm việc của UBND ).
c. Một số nội dung cơ bản của Luật hành chính:
Địa vị pháp lý của các chủ thể Luật hành chính:
Đây là chế định pháp luật bao gồm các quy phạm quy định về chế độ
pháp lý của các chủ thể như: cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ - công chức,
tổ chức xã hội, đoàn thể, đơn vị kinh doanh, cơ quan sự nghiệp, công dân, người
nước ngoài, người không có quốc tịch trong lĩnh vực quản lý nhà nước. tuy
nhiên, những người này chỉ có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành
chính khi tồn tại quy phạm pháp luật hành chính tương ứng và xuất hiện sự kiện
pháp lý phù hợp đã được dự kiến trong phần giả định của quy phạm đó.
Ví dụ: Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giao thông
thì người đó mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính với tư cách
là người vi phạm và sẽ bị người có thẩm quyền (là cảnh sát giao thông) xử lý
theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ.
+ Cơ quan hành chính, là chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật hành
chính, thực hiện các hoạt động chấp hành – điều hành bằng các hình thức và
phương pháp do pháp luật quy định. Luật hành chính quy định về trình tự thiết
lập, thay đổi tổ chức, bãi bỏ các cơ quan này; quy định thẩm quyền và cơ cấu
nội bộ, quy định vế chế độ hoạt động và những quan hệ công tác chủ yếu; quy
định chế độ thanh tra kiểm tra hoạt động; quy định hệ thống tổ chức và trình tự
thực hiện hoạt động quản lý theo từng ngành, từng lĩnh vực
Ví dụ: Bộ giao thông vận tải, UBND TPHCM, Sở giáo dục.
+ Chế độ pháp lý của cán bộ công chức bao gồm các quy định về
nguyên tắc tổ chức công tác phục vụ nhà nước, quy định về nhiệm vụ và quyền
hạn của cán bộ công chức khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình; quy định
chế độ khen thưởng, xử lý kỷ luật, chế độ trách nhiệm
3
+ Chế độ pháp lý của công dân, người nước ngoài, người không có
quốc tịch; các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội : gồm những quy định về quyền và
nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức này và những biện pháp quản lý để đảm bảo
thực hiện và bảo vệ những quyền và nghĩa vụ của họ.
Lưu ý: Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ bất bình đẳng. Nhưng
điều đó không có nghĩa là quan hệ này chỉ xuất hiện giữa các cơ quan cấp trên
và cấp dưới, giữa các chủ thể trực thuộc nhau mà xuất hiện ở khắp nơi, kể cả
giữa các chủ thể hoàn toàn không trực thuộc nhau hoặc thậm chí ngang cấp với
nhau trong Bộ máy Nhà nước, điều quan trọng là ở chỗ giữa chúng có mối liên
hệ trong việc thực hiện chức năng hành chính nhà nước nào đó. Mặc khác cần
lưu ý là quan hệ pháp luật hành chính không thể xuất hiện chỉ giữa các công
dân, bởi vì một bên tham gia quan hệ này bao giờ cũng với tư cách đại diện cho
nhà nước, bảo vệ quyền lợi của nhà nước và do đó thực hiện quyền lực nhà
nước, có quyền đơn phương ra lệnh. Chính vì vậy quan hệ pháp luật hành chính
là quan hệ bất bình đẳng. Bên có quyền ra lệnh được gọi là bên bắt buộc, nghĩa
là bên không thể thiếu được, vì nếu thiếu thì không thể phát sinh quan hệ quyền
lực – phục tùng. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất của quan hệ pháp luật
hành chính; còn các chủ thể kể trên có thể là bên bắt buộc hoặc bên không bắt
buộc tuỳ theo từng quan hệ cụ thể.
Các hình thức quản lý Nhà nước:
Hình thức quản lý Nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của những
hoạt động quản lý với cùng nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ
thể lên khách thể quản lý.
Hình thức quản lý được phân loại thành hai nhóm căn cứ vào những
quan hệ của chúng với pháp luật: những hình thức pháp lý và những hình thức
không hay ít mang tính pháp lý.
+ Những hình thức pháp lý: là hình thức được pháp luật quy định cụ
thể và gắn liền với việc ban hành những quy phạm pháp luật và áp dụng pháp
luật, bao gồm:
▪ Hoạt động ban hành những quyết định quản lý chủ đạo (chứa
được những chủ trương, đường lối, những nhiệm vụ chung).
Ví dụ: Nghị quyết của Chính phủ về xây dựng chương trình phát triển
kinh tế - xã hội năm 2007.
4
▪ Hoạt động ban hành những văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Nghị định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông, văn hoá thông tin, quản lý hộ tịch, Quyết định của UBND
thành phố Hồ Chí Minh về ban hành khung giá đất trên địa bàn TPHCM,
▪ Hoạt động ban hành những quyết định cá biệt – cụ thể.
Ví dụ: Quyết định xử lý cán bộ công chức vi phạm kỷ luật, quyết định
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, quyết định
tiêu huỷ văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại
Lưu ý: Khi thực hiện hoạt động ban hành các văn bản quản lý nhà
nước cần hết sức chú ý đảm bảo các yêu cầu đối với nội dung, hình thức và đối
với trình tự ban hành quyết định. Ví dụ: UBND thì không được ban hành văn
bản mang tên là Nghị định, Nghị quyết, không được ban hành những quy định
về xử lý vi phạm hành chính; Nghị quyết, Nghị định của một tập thể thì không
thể do một cá nhân hoặc một vài cá nhân thông qua dù đó là những người có
thẩm quyền nhất, v.v
+ Những hình thức ít hoặc không mang tính pháp lý, được thể hiện
dưới những hình thức sau:
▪ Những biện pháp tổ chức – xã hội trực tiếp: đó là những hoạt
động tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật; ví dụ: tổ chức các cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình của quần chúng,
các phong trào thi đua, nêu gương điển hình,v.v
▪ Những hoạt động tác nghiệp vật chất – kỹ thuật: đó là những hoạt
động cụ thể như công việc của người đánh máy, người trực tổng đài, thủ thư,
cán bộ văn thư lưu trữ, người bảo vệ, v.v Đây là những hoạt động mang tính
chất phục vụ cho các hoạt động quan trọng kể trên nhưng nếu thiếu nó, những
hoạt động quan trọng không thể tiến hành được bình thường, có trật tự và hiệu
quả. Hoạt động này thường được gọi là công tác hành chính của cơ quan. Quản
lý nhà nước trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển khi mà được các
phương tiện kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin được áp dụng ngày càng
nhiều thì hoạt động tác nghiệp vật chất – kỹ thuật càng đóng vai trò quan trọng,
ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động của quản lý nhà nước.
5
▪ Những hoạt động mang tính quyền lực pháp lý: Đó là những hoạt
động thi hành các biện pháp cưỡng chế như: dẫn giải tội phạm, canh gác trại
giam, chỉ huy ở nút giao thông, v.v Những hoạt động này không phải là hình
thức pháp lý vì không làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật hoặc thay đổi
các quan hệ pháp luật cụ thể (không đặt ra để thay đổi hoặc chấm dứt những
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể), nhưng mang tính quyền lực rất cao vì
các chủ thể áp dụng có thể thi hành các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết trong
phạm vi mà pháp luật và quyết định của người có thẩm quyền cho phép.
▪ Hợp đồng hành chính: Đó là sự thoả thuận giữa các chủ thể quản
lý nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng quản lý, mà việc thực hiện
hợp đồng đó không xuất phát trực tiếp từ thẩm quyền của các chủ thể này. Một
bên thực hiện hợp đồng được trả thù lao. Ví dụ: Công an hợp đồng canh gác,
bảo vệ cho một công ty, ngân hàng có thù lao khi mà nhiệm vụ bảo vệ không
phải là trách nhiệm trực tiếp của cơ quan công an.
Phương pháp quản lý Nhà nước
Phương pháp quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức, biện
pháp mà chủ thể quản lý áp dụng để tác động lên khách thể quản lý (hành vi của
đối tượng quản lý) nhằm đạt được những mục đích đề ra.
Căn cứ vào nội dung những phương pháp quản lý: Có hai loại phương
pháp chủ yếu là: phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế.
▪ Phương pháp thuyết phục: bao gồm những biện pháp như: giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức; áp dụng những biện pháp khuyến khích về vật
chất, tinh thần; tuyên truyền vận động giải thích, hướng dẫn,v.v
Ví dụ: Quyết định khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tệ nạn xã hội; tuyên truyền sống và học
tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
▪ Phương pháp cưỡng chế: bao gồm những biện pháp như: ban
hành những quy định mang tính bắt buộc, cấm; những quyết định cá biệt, cụ thể
mang tính bắt buộc; áp dụng các biện pháp xử phạt hoặc những biện pháp cưỡng
chế mang tính chất phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm.
Ví dụ: Quyết định tiêu huỷ gia cầm nghi ngờ nhiễm bệnh H5N1, quyết
định xử phạt vi phạm giao thông,
6
Căn cứ vào tính chất sự tác động, còn được phần thành hai loại rất quan
trọng, đó là: phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế:
▪ Phương pháp hành chính: là những biện pháp tác động một cách
trực tiếp tới đối tượng bị quản lý bằng cách trực tiếp quy định nghĩa vụ của đối
tượng bị quản lý dưới hình thức những mệnh lệnh mang tính quyền lực Nhà
nước. Đây là phương pháp đặc trưng không thể thiếu trong quản lý, bởi vì bản
chất của quản lý mang tính mệnh lệnh, tính quyền uy. Phương pháp này còn
được gọi là phương pháp mệnh lệnh hành chính, có thể được thể hiện dưới
dạng văn bản pháp luật chứa đựng những quy định có tính bắt buộc trực tiếp
hoặc những quy định cấm, những quyết định, chỉ thị, cá biệt trao nghĩa vụ cụ
thể, hoặc dưới hình thức những biện pháp tổ chức, điều hành trực tiếp.
▪ Phương pháp kinh tế: là những phương pháp tác động một cách
gián tiếp tới tập thể, cá nhân thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế như
chính sách giá cả, tín dụng, tiền lương, tiền thưởng, lãi suất ngân hàng, chính
sách thuế nhằm tác động tới lợi ích của các nhân, tổ chức và do đó tăng
cường lòng nhiệt tình hăng say lao động, sự quan tâm của người lao động tới
kết quả cuối cùng của hoạt động lao động của mình. Trong thời đại ngày nay,
phương pháp này ngày càng phát huy hiệu quả và chứng tỏ sức sống mạnh mẽ
của mình. Tuy vậy, muốn áp dụng phương pháp kinh tế trong thực tiễn đời
sống cần phải thông qua những văn bản theo quy định của luật hành chính,
nghĩa là phương pháp hành chính là phương tiện đưa phương pháp kinh tế vào
cuộc sống.
Người ta còn chia phương pháp quản lý thành những loại như: phương
pháp lãnh đạo chung, phương pháp điều chỉnh, phương pháp quản lý tác
nghiệp, phương pháp quản lý theo chương trình – mục tiêu, v.v
d. Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính
• Vi phạm hành chính:
* Khái niệm: Vi phạm hành chính là những hành vi (hành động hoặc
không hành động) trái pháp luật do các chủ thể của Luật hành chính thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại tới các quan hệ xã hội do luật hành chính bảo
vệ và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Một vi phạm hành chính phải có đầy đủ các dấu hiệu chủ yếu sau:
7
- Là hành vi (hành động hoặc không hành động) của cá nhân hoặc tổ
chức; ý nghĩa, tư tưởng nếu chưa thể hiện thành hành vi không bao giờ được coi
là vi phạm pháp luật.
- Tính trái pháp luật của hành vi (trái pháp luật hành chính).
- Có lỗi, nghĩa là hành vi đó được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân có
đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hành chính (người từ đủ 14 tuổi trở lên
phát triển bình thường về thể chất).
- Xâm hại tới những quan hệ xã hội do luật hành chính bảo vệ.
- Được pháp luật hành chính quy định là phải chịu xử phạt hành chính.
Người có hành vi vi phạm hành chính thì phải bị xử lý vi phạm hành
chính. Xử lý vi phạm hành chính chủ yếu thuộc thẩm quyền của các cơ quan
Nhà nước và được tiến hành theo trình tự thủ tục hành chính. Chủ thể vi phạm
hành chính có thể là cá nhân, tổ chức, kể cả người nước ngoài, người không có
quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam.
• Trách nhiệm hành chính:
Đó là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất
xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định
trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính bởi cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành
chính.
Do đó, trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của nhà
nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị
thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần so với tình trạng ban đầu.
Cơ sở của trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính.
* Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính:
- Việc xử lý vi phạm hành chính do người có thẩm quyền tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật.
- Chủ thể bị xử lý khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy
định.
8
- Mọi hành vi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải
đình chỉ ngay; việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng,
công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật.
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm
đều bị xử phạt.
- Việc xử lý phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân của
người vi phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
- Không xử lý hành chính trong những trường hợp như: tình thế cấp thiết,
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc người thực hiện hành vi trái pháp
luật hành chính bị mắc những chứng bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình.
3455670895:; /$2<
- Một năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện.
- Hai năm nếu vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: tài chính, chứng
khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở,
đất đai, đê điều, xuất bản, xuất nhập cảnh hoặc vi phạm hành chính là hành vi
buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả.
- Ba tháng kể từ ngày người có thẩm quyền nhận được quyết định đình chỉ
điều tra hoặc đình chỉ vụ án hình sự.
- Nếu cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu
nói trên.
* Các hình thức xử phạt VPHC:
- Hình thức xử phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền.
- Hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác (không áp dụng đối với
người nước ngoài): giáo dục tại địa phương (từ 03 tháng đến 06 tháng); đưa vào
trường giáo dưỡng (từ 06 tháng đến 02 năm); đưa vào cơ sở chữa bệnh (từ 01
9
năm đến 02 năm đối với người nghiện ma tuý, từ 03 tháng đến 18 tháng đối với
người bán dâm); quản chế hành chính (từ 06 tháng đến 03 năm).
- Các biện pháp ngăn chặn bảo đảm việc xử lý vi phạm: tạm giữ người
theo thủ tục hành chính (không quá 48 giờ); tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang
vật, phương tiện vi phạm.
* Thủ tục xử phạt và mức phạt:
Đình chỉ hành vi vi phạm; thủ tục xử phạt đơn giản: xử phạt tại chỗ (áp
dụng đối với các vi phạm có mức phạt từ 10.000 đến 200.000đồng); thủ tục xử
phạt phức tạp: lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt.
Mức phạt theo từng loại vi phạm, thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là
500.000.000 đồng.
* Đối tượng chịu trách nhiệm hành chính:
- Các cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi
với lỗi cố ý.
- Cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi vi phạm do cơ quan tổ chức gây ra.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt
Nam.
=)/01>?@
Khái niệm: Ngành luật dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá –
tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể
tham gia vào quan hệ đó. Đây là ngành luật xuất hiện rất sớm và có vị trí quan
trọng nhất trong hệ thống pháp luật quốc gia.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
- Đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự là các quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao dịch dân sự nhằm thoả mãn
nhu cầu của các chủ thể trong xã hội.
+ Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua tài sản được
biểu hiện dưới những dạng khác nhau.
10
Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản.
Tuy nhiên ngành luật dân sự không điều chỉnh tất cả các quan hệ tài sản
mà chỉ điều chỉnh các quan hệ như:
-> Các quan hệ tài sản liên quan đến quyền sở hữu thông qua việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
-> Các quan hệ tài sản có tính chất đền bù ngang giá trong trao đổi tài
sản, nghĩa vụ tài sản, trách nhiệm đền bù trong và ngoài hợp đồng.
-> Các quan hệ về thừa kế tài sản.
Ví dụ: Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ,
vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi
dưới nước di chuyển tự nhiên…
+ Quan hệ nhân thân là quan hệ liên quan đến các giá trị tinh thần của con
người, về nguyên tắc luôn gắn với một người nhất định và không dịch chuyển từ
người này sang người khác.
Trong khoa học pháp lý người ta chia quan hệ nhân thân thành 2 loại:
-> Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản (quan hệ nhân thân
phi tài sản) là những quan hệ gắn liền với tên gọi, danh dự, nhân phẩm, uy tín
của công dân hoặc tổ chức nhất định.
Ví dụ: Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo
họ, tên khai sinh của người đó.
+ Quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản: là những quan hệ nhân
thân làm cơ sở phát sinh quan hệ tài sản tiếp theo; như: quan hệ về quyền tác
giả, quan hệ về quyền sở hữu công nghiệp, quan hệ về phát minh sáng chế
Ví dụ: Trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế ở đây quan hệ
nhân thân là cơ sở khẳng định rằng người sáng tạo ra tác phẩm, công trình văn
học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật có quyền đứng tên là tác giả của tác phẩm đó;
quyền này là quyền nhân thân không thể tách rời, chuyển dịch của chính người
sáng tạo; nhưng chính việc thừa nhận họ là tác giả của những công trình đó thì
khi công trình, tác phẩm đó đem lại lợi ích về tài sản thì tác giả phải được nhận
những lợi ích về tài sản như tiền nhuận bút, tiền thưởng vì đã bỏ công sức sáng
tạo ra tác phẩm đó. Như vậy lợi ích vật chất ở đây xuất phát từ quan hệ nhân
thân có trước.
b/ Phương pháp điều chỉnh:
- Phương pháp điều chỉnh của ngành luật dân sự là những biện pháp, cách
thức mà Nhà nước tác động đến các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm
11
cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của Nhà
nước.
Ngành luật dân sự sử dụng phương pháp tự do thương lượng thoả
thuận giữa các chủ thể trong quan hệ dân sự nhưng không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của hợp pháp của
người khác.
Những biện pháp, cách thức mà nhà nước tác động lên các quan hệ dân
sự có những đặc điểm sau:
+ Bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể (các bên)
tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Không có sự phân biệt về địa vị xã hội, tình
trạng kinh tế
+ Bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ thể; thể hiện các chủ thể tự
quyết định tham gia hay không tham gia quan hệ pháp luật dân sự, tự thoả thuận
với nhau mà không bị ép buộc của bất kỳ ai, kể cả nhà nước; nội dung của mối
quan hệ thể hiện sự tự nguyện nhất trí của các bên.
+ Các bên phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý dân sự với nhau do hành
vi gây thiệt hại cho người khác nếu có đủ điều kiện luật quy định về bồi thường
thiệt hại.
c/ Quan hệ pháp luật dân sự:
* Khái niệm: Quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật dân sự.
Các quy phạm pháp luật dân sự quy định cho các bên tham gia quan hệ xã
hội đó có thể hoặc cần phải thực hiện những hành vi nhất định phù hợp với lợi
ích của Nhà nước; quy định cho các chủ thể tham gia những quyền và nghĩa vụ
pháp lý cũng như trách nhiệm dân sự nếu không thực hiện các quyền và nghĩa
vụ đó hoặc có hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia. Nhưng
các quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ xuất hiện khi có những sự kiện, pháp lý mà
quy phạm pháp luật dân sự đã dự liệu.
Ngoài những đặc điểm của quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp
luật dân sự còn có những đặc điểm riêng như sau:
- Là quan hệ bình đẳng giữa những người tham gia.
- Được bảo đảm và duy trì bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
* Cơ cấu của quan hệ pháp luật dân sự:
Quan hệ pháp luật dân sự có ba bộ phận cấu thành là chủ thể, khách
thể và nội dung.
12
- Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những người tham gia vào
quan hệ pháp luật dân sự mang quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Người nói ở đây bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp
tác – là những chủ thể có năng lực pháp luật và hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật; trong đó hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt của quan hệ
pháp luật dân sự.
- Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự: là các hành vi của chủ thể
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Nội dung quan hệ pháp luật dân sự: là tổng hợp các quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia vào quan hệ đó.
+ Quyền dân sự: là cách xử sự được phép của người có quyền năng; cụ
thể như:
• Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những vật thuộc sở
hữu của mình trong khuôn khổ pháp luật để thoả mãn các nhu cầu của mình.
• Có quyền yêu cầu người khác thực hiện hoặc không thực hiện
những hành vi nhất định (trả tiền, thực hiện một công việc, chuyển giao một vật,
không làm điều gì cản trở chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của họ).
• Khi các quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể có quyền sử dụng các
biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép như tự bảo vệ, áp dụng các biện pháp
tác động khác hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền
dân sự của mình như kiện ra toà, khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước.
+ Nghĩa vụ dân sự: là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ; cụ
thể là những nghĩa vụ sau:
• Thực hiện một hành vi nhất định; ví dụ như: trả tiền trong hợp
đồng mua bán, bồi thường thiệt hại, chuyển giao tài sản…
• Kiềm chế không thực hiện những hành vi nhất định khi những
hành vi này xâm phạm đến lợi ích của bên kia; ví dụ như: không xâm phạm, cản
trở chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của họ, không thay đổi cấu trúc ngôi nhà
khi thuê nhà
• Phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện các xử
sự nhất định nói trên.
d/ Một số chế định cơ bản:
* Chế định quyền sở hữu:
13
- Sở hữu là một quan hệ xã hội biểu hiện ở việc nắm giữ, sử dụng, định
đoạt những của cải vật chất thông qua quan hệ của chủ sở hữu đối với người
khác.
- Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh những quan hệ về sở hữu đối với các lợi ích vật chất trong
xã hội. Hay nói cách khác, quyền sở hữu là chế định trung tâm của ngành luật
dân sự, tổng hợp các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
Chế định quyền sở hữu là chế định trung tâm, quan trọng nhất không
những chỉ riêng luật dân sự mà còn cho cả hệ thống pháp luật. Đây là một nhóm
các quy phạm pháp luật xác nhận các hình thức sở hữu ở nước ta như: sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữa của các tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tư
nhân và các loại sở hữu chung. Chế định này quy định về cách thức pháp sinh,
trình tự thực hiện và các phương pháp, hình thức nhằm bảo vệ quyền sở hữu.
- Đối tượng của quyền sở hựu là tài sản, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản.
- Nội dung quyền sở hữu: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
+ Quyền chiếm hữu: là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Chủ sở hữu có
quyền kiểm soát, chi phối tài sản của mình mà không bị hạn chế.
+ Quyền sử dụng: là quyền khai thác công dụng và những lợi ích vật
chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép để thoả mãn nhu cầu của chủ
sở hữu.
+ Quyền định đoạt: là quyền của chủ sở hữu trong việc quyết định số
phận của tài sản, thể hiện trên 2 phương diện: định đoạt số phận thực tế của tài
sản như tiêu dùng hết, huỷ bỏ, từ bỏ quyền sở hữu tài sản) hay định đoạt về số
phận pháp lý của tài sản (như chuyển giao quyền sở hữu thông qua các giao dịch
dân sự như mua bán, trao đổi, tặng cho ).
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu:
+ Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
+ Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
+ Thu hoa lợi, lợi tức;
+ Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
+ Được thừa kế tài sản;
14
+ Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật
vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất
lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
+ Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định của pháp luật;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
- Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu:
+ Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
+ Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
+ Tài sản bị tiêu huỷ;
+ Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
+ Tài sản bị trưng mua;
+ Tài sản bị tịch thu;
+ Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi
dưới nước di chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở
hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã
được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
* Chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự:
- Nghĩa vụ dân sự là việc mà một hoặc nhiều chủ thể (còn gọi là người
có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi
ích của một hay nhiều chủ thể khác (còn được gọi là người có quyền).
+ Đối tượng của nghĩa vụ dân sự là tài sản, công việc phải làm hoặc
công việc không được làm.
+ Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, hành vi gây thiệt hại trái pháp
luật
Ví dụ: nghĩa vụ trả tiền thuê nhà trong hợp đồng thuê nhà, nghĩa vụ trả tiền mua
xe trong hợp đồng mua bán…
Hoặc nghĩa vụ chuyển giao nhà cho thuê sang cho bên thuê, nghĩa vụ giao xe…
+ Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự
. Hợp đồng dân sự;
. Hành vi pháp lý đơn phương;
. Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
15
. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật;
. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
. Những căn cứ khác do pháp luật quy định.
+ Chấm dứt nghĩa vụ dân sự:
Nghĩa vụ đã hoàn thành, theo thoả thuận của các bên, bên có quyền
miễn việc thực hiện nghĩa vụ, nghĩa vụ được thay thế bởi một nghĩa vụ khác
hoặc trường hợp hai bên cùng có nghĩa vụ đối với nhau về một đối tượng cùng
loại thì nghĩa vụ dân sự sẽ chấm dứt.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định chấm dứt nghĩa vụ dân sự khi bên
có quyền và bên có nghĩa vụ sáp nhập làm một, khi thời hiệu khởi kiện đã hết,
một bên trong quan hệ nghĩa vụ chết, đối tượng là vật đặc định không còn mà
phải giao đúng vật đó, khi bị tuyên bố phá sản.
- Hợp đồng dân sự là thoả thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Việc giao kết hợp đồng phải chấp hành các nguyên tắc: tự do thể hiện
ý chí và bình đẳng. Tức là các bên tự do giao kết nhưng không được trái với
pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ nhưng nội
dung quan hệ phải thể hiện sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ, đảm bảo lợi
ích cho các bên. Hình thức của hợp đồng thể hiện dưới hình thức trao đổi bằng
lời nói, văn bản viết hay bằng hành vi cụ thể. Khi không đảm bảo các yêu cầu
của pháp luật trong giao kết hợp đồng thì hợp đồng dân sự có thể bị toà án tuyên
bố vô hiệu.
Việc không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng sẽ dẫn đến trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là sự cưỡng chế của Nhà
nước buộc bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng hoặc
phải bồi thường thiệt hại do hành vi không chấp hành hợp đồng, thực hiện
không đúng, không đầy đủ hợp đồng mà gây thiệt hại. Luật dân sự quy định về
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ấn định mức bồi thường
thiệt hại, cách thức tiến hành việc bồi thường thiệt hại
Ngoài ra, trong chế định nghĩa vụ còn quy định người có hành vi vi
phạm pháp luật gây thiệt hại về tài sản, danh dự, nhân phẩm hoặc xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại, đó là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
16
Trách nhiệm dân sự phát sinh do gây thiệt hại là một quan hệ pháp
luật trong đó bên bị thiệt hại (người có quyền) có quyền yêu cầu bên gây thiệt
hại (người có nghĩa vụ) phải bồi thường những thiệt hại tài sản gây ra, còn bên
gây thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại đó cho người có quyền. Luật
dân sự quy định điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài
hợp đồng, căn cứ miễn trách nhiệm dân sự, cách tính và ấn định mức bồi
thường
* Chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
Chế định này bao gồm các quy phạm pháp luật về quyền tác giả với
tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, về quyền sở hữu công nghiệp và chuyển
giao công nghệ
- Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân phi tài sản và quyền
tài sản của tác giả. Tác giả là người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học.
Quyền tác giả phát sinh kể từ ngày tác phẩm được sáng tạo và được
thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Toà án là cơ quan giải quyết các tranh chấp phát sinh về quyền tác giả.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu đối với các đối bao gồm
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật
kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền sở hữu đối với các đối tượng
là vật liệu nhân giống và giống cây trồng.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, quyền đối với giống cây trồng, bao gồm
quyền nhân thân và quyền tài sản.
-> Quyền nhân thân bao gồm quyền được đứng tên tác giả trong
văn bằng bảo hộ do Nhà nước cấp, trong các tài liệu công bố, giới thiệu về sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây
trồng đó.
-> Quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng, cho phép hoặc cấm
người khác sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, giống cây trồng đó.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền đối với giống
cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
17
quyền khi thực hiện việc đăng ký các đối tượng đó theo quy định của pháp luật
về sở hữu trí tuệ.
- Pháp luật về chuyển giao công nghệ bao gồm những quy định nhằm xác
định đối tượng chuyển giao công nghệ (các đối tượng sở hữu công nghiệp, bí
quyết, kiến thức kỹ thuật, các dịch vụ kỹ thuật ) cũng như quyền chuyển giao
công nghệ của các chủ thể dân sự, các trường hợp không được chuyển giao.
* Chế định quyền thừa kế
- Thừa kế là một loại quan hệ xã hội tồn tại khách quan trong đời sống xã
hội thể hiện ở việc chuyển giao tài sản của người đã chết cho những người còn
sống.
- Pháp luật dân sự quy định về thừa kế là tổng hợp những quy phạm pháp
luật quy định việc chuyển quyền sở hữu đối với di sản thừa kế của người chết
sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
- Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ mà người chết
để lại. Tài sản này phải thuộc sở hữu của người chết.
- Người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế (thời điểm
người để lại di sản chết) hoặc đã sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp không
có người thừa kế, người thừa kế không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối
quyền hưởng di sản thì di sản thuộc về Nhà nước.
- Thừa kế theo di chúc là việc di chuyển di sản thừa kế của người đã chết
cho những người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Mọi
người đều có quyền lập di chúc nếu đủ 18 tuổi; di chúc có thể lập bằng văn bản
hoặc di chúc miệng nhưng phải đáp ứng các điều kiện: người lập di chúc phải tự
nguyện, tinh thần minh mẫn, không bị cưỡng ép; nội dung và hình thức của di
chúc không được trái pháp luật.
- Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho
những người thừa kế theo quy định của pháp luật; hình thức thừa kế này phát
sinh do người chết không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc vì một số
lý do khác theo quy định của pháp luật.
Việc nhận thừa kế được phân định theo hàng thừa kế:
+ Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;
+ Hàng thừa kế thứ hai: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột
của người chết;
18
+ Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại, bác, chú, cô, dì, cậu , cháu
ruột của người chết.
Những người thuộc hàng thừa kế được hưởng phần di sản ngang
nhau, những người thừa kế ở hàng tiếp theo chỉ được hưởng thừa kế khi không
còn ai thuộc hàng thừa kế trước,
Pháp luật dân sự còn quy định về thừa kế thế vị. Trong trường hợp
con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để
lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng
nếu còn sống.
* A?BCDE9FCDF?GH
Trong chế định này ghi nhận những căn cứ xác lập quyền sử dụng đất,
các hình thức chuyển quyền sử dụng đất, nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất
và các điều kiện, trình tự để thực hiện các quyền chuyển đổi, cho thuê, thế chấp,
thừa kế quyền sử dụng đất.
I)/010#A
Khái niệm: Luật lao động là tổng hợp những quy tắc và quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động với người sử
dụng lao động; giữa người lao động, người sử dụng lao động với các cơ quan
chức năng của nhà nước về lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp
với quan hệ lao động.
a/ Đối tượng điều chỉnh của luật lao động:
Đối tượng điều chỉnh của ngành luật lao động Việt Nam là quan hệ lao
động hay còn gọi là quan hệ về sử dụng lao động và những quan hệ liên quan
trực tiếp đến quan hệ lao động (các quan hệ phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động hoặc là phát sinh của quan hệ lao động). Cụ thể bao gồm các quan hệ sau:
- Quan hệ lao động là quan hệ giữa người với người hình thành giữa
người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình tuyển chọn và sử
dụng sức lao động của người lao động tại đơn vị thuộc các thành phần kinh tế,
kể cả quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, lao động
giúp việc nhà trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động.
- Các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động như: quan
hệ về việc làm và học nghề, quan hệ giữa công đoàn với người lao động và
người sử dụng lao động, quan hệ về bảo hiểm xã hội, quan hệ về bồi thường
19
thiệt hại vật chất, quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động, quan hệ về quản lý
và thanh tra lao động.
b/ Phương pháp điều chỉnh của ngành luật lao động:
Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của mình, luật lao động sử dụng tổng
hợp 3 phương pháp: thỏa thuận, mệnh lệnh và sự tham gia của công đoàn.
- Phương pháp thỏa thuận là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
ngành luật lao động trong nền kinh tế thị trường. Bằng phương pháp này đã hình
thành nên quan hệ lao động cá nhân (trên cơ sở hợp đồng lao động) và quan hệ
lao động tập thể (trên cơ sở thỏa ước lao động tập thể).
Ví dụ: Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về các điều khoản
trong hợp đồng, như lương, trợ cấp, quyền, nghĩa vụ…
- Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp được sử dụng hợp lý trong luật
lao động, chủ yếu là trong lĩnh vực quản lý, tổ chức và điều hành lao động. Xét
về mặt vĩ mô, đó là sự thể hiện quyền uy Nhà nước đối với người sử dụng lao
động. Còn xét về mặt vi mô, thể hiện quyền tổ chức và điều hành của người sử
dụng lao động đối với người lao động. Nhìn chung, phương pháp mệnh lệnh
trong luật lao động được sử dụng mềm dẻo hơn trong luật hành chính.
- Sự tham gia của công đoàn vào việc điều chỉnh những quan hệ là đối
tượng của luật lao động là phương pháp đặc thù của ngành luật này. Tùy theo
từng lĩnh vực hoạt động, từng cấp công đoàn mà có sự tham gia tác động của
công đoàn là rất lớn, bao gồm cả việc sáng tạo các quy phạm pháp luật đến việc
áp dụng các quy phạm này. Đây là sự thể hiện sự coi trọng của Nhà nước đối với
công đoàn, tổ chức đại diện cho tập thể những người lao động trong quan hệ lao
động.
c/ Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động:
- Nguyên tắc tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp; không bị phân biệt
đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
- Nguyên tắc trả lương trên cơ sở sự thỏa thuận và theo năng suất, chất
lượng, hiệu quả công việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do
nhà nước quy định.
- Nguyên tắc thực hiện bảo hộ lao động toàn diện và bảo đảm an toàn, vệ
sinh lao động.
- Nguyên tắc được nghỉ ngơi tái tạo sức lao động theo chế độ có hưởng
lương.
- Nguyên tắc được hưởng bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội và các quyền
lợi khác.
20
- Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do liên kết và lập hội của người lao động
và người sử dụng lao động.
- Nguyên tắc tuân thủ nghiêm chỉnh hợp đồng lao động, thỏa ước lao
động tập thể, kỷ luật lao động và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật lao động.
d/ Các chế định cơ bản của ngành luật lao động:
3Việc làm và học nghề:
Những quy phạm về việc làm và học nghề hợp thành một chế định quan
trọng của ngành luật lao động được quy định ở chương II và III Bộ luật Lao
động và Nghị định số 139/2006/NĐ-CP ngày 20/11/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục và Bộ luật Lao động về mục
tiêu, chương trình dạy nghề; tổ chức, hoạt động dạy nghề; doanh nghiệp với hoạt
động dạy nghề; tuyển sinh và hợp đồng học nghề; thi, kiểm tra và thẩm quyền
cấp bằng, chứng chỉ nghề; chính sách đối với dạy nghề; trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước về dạy nghề.
Dưới góc độ pháp lý: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Giải quyết việc làm, bảo đảm
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của
Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội.
Pháp luật lao động quy định mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp,
không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo.
Nhà nước, một mặt có các chương trình, kế hoạch, biện pháp giải quyết
việc làm và học nghề, mặt khác cũng có những quy định ngăn ngừa những
người lợi dụng danh nghĩa giới thiệu việc làm, dạy nghề để trục lợi.
3Hợp đồng lao động:
- Định nghĩa: Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động; hợp đồng lao động được giao kết
theo nguyên tắc bình đẳng tự nguyện.
Hợp đồng lao động được ký kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động với
người lao động bằng văn bản hoặc bằng lời nói (đối với một số công việc có tính
chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng hoặc đối với lao động giúp việc nhà). Có
các loại hợp đồng như: hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định
21
thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng và hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc làm
những công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu như: công việc phải
làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, điều
kiện về an toàn và vệ sinh lao động, thời hạn hợp đồng, bảo hiểm xã hội. Nội
dung của hợp đồng không được trái với những quy định của pháp luật lao động.
Ngoài ra, pháp luật lao động cũng quy định những trường hợp thay đổi
nội dung hợp đồng, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng
3 Thoả ước lao động tập thể:
- Định nghĩa: Thoả ước lao động tập thể là văn bản thoả thuận giữa tập
thể người lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử
dụng lao động, quyền lợi và nghĩa của hai bên trong quan hệ lao động.
- Thoả ước tập thể do đại diện của tập thể lao động và người sử dụng lao
động thương lượng và ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công
khai. Nội dung của thoả ước tập thể không được trái với các quy định của pháp
luật lao động và pháp luật khác. Nhà nước khuyến khích việc ký kết thoả ước
lao động tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy
định của pháp luật lao động.
Thoả ước lao động có ý nghĩa bổ sung, nâng cao hợp đồng lao động cá
nhân, tạo điều kiện cho người lao động được hưởng những điều kiện lao động
tốt hơn những gì pháp luật quy định. Đồng thời có ý nghĩa tăng cường trách
nhiệm của cả hai bên, điều hoà mâu thuẫn, ngăn ngừa tranh chấp trong quan hệ
lao động.
Thoả ước tập thể được quy định chủ yếu ở Chương V BLLĐ, Nghị định
196/CP ngày 31/12/1996 của Chính phủ, Nghị định 93/2002/NĐ-CP quy định
những vấn đề như: các bên trong thoả ước, nội dung thoả ước, thủ tục thương
lượng, ký kết và đăng ký thoả ước, hiệu lực của thoả ước.
3 Tiền lương
- Định nghĩa: Tiền lương được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc theo hợp đồng lao động
phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Tiền lương là một chế định quan trọng của ngành luật lao động được
quy định chủ yếu ở Chương VI BLLĐ, ở Nghị định 114/2002/NĐ-CP ngày
31/12/2002 của Chính phủ.
Tiền lương do hai bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn mức tối
thiểu do Nhà nước quy định. Hiện nay có hai mức lương tối thiểu mà Nhà nước
22
quy định: mức lương tối thiểu dành cho người lao động làm việc cho các doanh
nghiệp trong nước là 450.000 đồng/tháng và mức lương tối thiểu dành cho
người lao động làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
870.000 đồng/tháng (HN và TPHCM), và 790.000 đồng/tháng và 710.000
đồng/tháng.
Có các hình thức trả lương: trả lương theo thời gian (tháng, tuần, giờ), trả
lương khoán và trả lương theo sản phẩm.
Ngoài ra pháp luật lao động còn quy định chế độ tiền thưởng, chế độ phụ
cấp bổ sung cho tiền lương.
3Thời giờ làm việc – thời giờ nghỉ ngơi:
- Định nghĩa: Thời giờ làm việc là khoảng thời gian mà người lao động
phải có mặt tại nơi làm việc để lao động theo nội quy của đơn vị sử dụng lao
động trên cơ sở quy định của pháp luật.
-> Thời giờ làm việc: không quá 40giờ/tuần hoặc không quá 8 giờ/ngày.
-> Thời giờ làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày
hôm sau hoặc từ 21 giờ đến 5 giờ sáng ngày hôm sau tùy từng vùng.
- Định nghĩa: Thời giờ nghỉ ngơi là khoảng thời gian mà người lao động
được quyền tự do sử dụng.
-> Một ca làm việc được nghỉ ít nhất nửa giờ.
-> Một ngày được nghỉ 16 giờ.
-> Một tuần được nghỉ 2 ngày.
-> Một năm được nghỉ phép: 12 ngày, 14 ngày… tùy thuộc vào thâm
niên.
-> Nghỉ lễ theo quy định của pháp luật là 9 ngày: Tết Dương lịch (1/1);
Tết Âm lịch (nghỉ 1 ngày cuối năm và 3 ngày đầu năm Âm lịch); ngày Giỗ tổ
Hùng Vương (10/3 âm lịch); ngày Chiến thắng (30/4); ngày Quốc tế lao động
(1/5); ngày Quốc khánh (2/9). Nếu những ngày Lễ này trùng vào ngày nghỉ hàng
tuần thì được nghỉ bù vào ngày tiếp theo.
3*J010#A9/KL$56 91$H
- Định nghĩa: Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời
gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao
động.
Nội quy lao động không được trái với pháp luật lao động và pháp luật
khác. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao
động bằng văn bản.
23
+ Người vi phạm kỷ luật lao động, tùy theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý
theo một trong những hình thức sau đây:
a) Khiển trách;
b) Chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời
hạn tối đa là sáu tháng;
c) Sa thải.
+ Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một
hành vi vi phạm kỷ luật lao động.
+ Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là ba tháng kể từ
ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng.
+ Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự
tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
+ Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.
- Định nghĩa trách nhiệm vật chất: là hậu quả vật chất bất lợi mà người
lao động phải gánh chịu, tức là phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do vi
phạm kỷ luật lao động hoặc do sơ suất khi làm việc gây ra.
Việc xem xét, quyết định bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm vật chất
do người lao động làm hư hỏng hoặc làm mất dụng cụ, thiết bị và các tài sản
khác của đơn vị, phải căn cứ vào lỗi và mức độ thiệt hại thực tế. Không phải bồi
thường thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng.
Mức thiệt hại được coi là không nghiêm trọng là mức thiệt hại gây ra
dưới 5 triệu đồng.
3M"#5 7NA5<
- Định nghĩa: Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo quy định hiện hành thì có các chế độ bảo hiểm xã hội sau:
1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
a) ốm đau;
b) Thai sản;
c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Hưu trí;
đ) Tử tuất.
24
2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
a) Hưu trí;
b) Tử tuất.
3. Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây:
a) Trợ cấp thất nghiệp;
b) Hỗ trợ học nghề;
c) Hỗ trợ tìm việc làm.
35"5CDOK$H:0#A<
- Định nghĩa: Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi
ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa người lao động, tập thể lao động với
người sử dụng lao động.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao
động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao
động với người sử dụng lao động.
Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp về việc thực hiện các
quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã
được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận
hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử dụng lao
động vi phạm.
Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp về việc tập thể lao
động yêu cầuxác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật
lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở
doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử
dụng lao động.
- Những nguyên tắc giải quyết các tranh chấp lao động:
1. Thương lượng trực tiếp, tự dàn xếp và tự quyết định của hai bên tranh
chấp tại nơi phát sinh tranh chấp;
2. Thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của
hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội và tuân theo pháp luật;
3. Giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp
luật;
4. Có sự tham gia của đại diện người lao độngvà đại diện người sử dụng
lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp
- Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp lao động:
25