Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học các bài ca dao trong chương trình lớp 10 Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.04 KB, 110 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



PHẠM THÁI LINH NGỌC





BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC CÁC BÀI
CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 THPT




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC







Thái Nguyên – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





PHẠM THÁI LINH NGỌC



BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC CÁC BÀI
CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 THPT


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn
Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HUY QUÁT



Thái Nguyên – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2


i



MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 0

LỜI CAM ĐOAN iv

LỜI CẢM ƠN v

DANH MỤC VIẾT TẮT vi

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

3. Mục đích của đề tài 5

4. Đối tượng và phạm vi đề tài 6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6

6. Phương pháp nghiên cứu 6

7. Cấu trúc luận văn 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 8

1.1. Tự học và các vấn đề về phương pháp tự học 8


1.1.1. Khái niệm tự học 8

1.1.2. Vị trí, vai trò của tự học 9

1.1.3. Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ
năng tự học của người học 12

1.1.4. Điều kiện và cách thức để tự học có hiệu quả 14

1.1.4.1. Điều kiện tự học 14

1.1.4.2. Cách thức thực hiện 16

1.2 Những cơ sở lý luận của việc hướng dẫn học sinh tự học các bài ca
dao 20

1.2.1. Dạy học ca dao theo hướng tiếp cận từ đặc trưng thể loại 20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3


ii


1.2.1.1. Khái niệm về ca dao 20

1.2.1.2. Phân loại ca dao 21

1.2.1.3. Vài nét về ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa và Ca dao hài hước 23


1.3. Những cơ sở thực tiễn của việc hướng dẫn học sinh tự học các bài ca dao 28

1.3.1. Thực trạng việc tự học ở nhà trường phổ thông hiện nay 28
1.3.2. Thực trạng học văn của học sinh phổ thông 32

1.4. Kết luận 35

Chương 2: KHẢO SÁT THỰC TẾ DẠY HỌC TỰ HỌC CÁC BÀI CA
DAO LỚP 10 Ở MỘT SỐ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÀ ĐỀ XUẤT
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC 37

2.1. Phần văn học và các bài ca dao trong Ngữ văn 10 THPT 37

2.1.1. Phần văn học trong SGK Ngữ văn 10 THPT. 37

2.1.2. Các bài ca dao trong Ngữ văn 10 THPT 37

2.2. Khảo sát tình hình dạy học các bài học ca dao trong chương trình
Ngữ văn 10 THPT 38

2.2.1. Mục đích khảo sát 38

2.2.2. Đối tượng khảo sát 38

2.2.3. Địa bàn khảo sát 39

2.2.4. Nội dung khảo sát 39

2.2.4.1.Về giờ dạy – học các bài ca dao trên lớp 39


2.2.4.2. Khảo sát tình hình tự học phần các bài ca dao trong chương trình
lớp 10 của học sinh THPT 47

2.2.4.3. Khảo sát tình hình hướng dẫn học sinh tự học các bài ca dao
trong chương trình lớp 10 của giáo viên THPT. 53

2.2.4.4. Khảo sát giáo án bài “Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa”
và bài “Ca dao hài hước” của giáo viên THPT 54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4


iii


2.3. Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng tự học trong dạy học
ca dao 72

2.3.1. Tự học trước khi lên lớp 73

2.3.2. Tự học khi lên lớp 75

2.3.2.1. Hoạt động tri giác ngôn ngữ 75
2.3.2.2. Hoạt động tái tạo hình tượng 76

2.3.2.3. Hoạt động phân tích khái quát 77

2.3.2.4. Hoạt động bình giá 77

2.3.2.5. Hoạt động tự nhận thức và ứng dụng 79


2.3.3. Tự học sau khi lên lớp 80

Chương 3: THIẾT KẾ THỂ NGHIỆM 82

3.1. Mục đích thể nghiệm 82

3.2. Nội dung thể nghiệm 82

3.3. Đối tượng thể nghiệm 83

3.4. Thiết kế bài học 83

KẾT LUẬN 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO 100



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5


iv


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “ Biện pháp hướng dẫn học sinh
tự học các bài ca dao trong chương trình lớp 10 THPT” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

này là trung thực và chưa được sử dụng ở bất kỳ tài liệu hay công trình khoa
học nào.
Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác
giả, tên công trình, thời gian và địa điểm công bố.
Mọi sao chép hoặc vi phạm quy chế, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2012
Tác giả luận văn



Phạm Thái Linh Ngọc







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6


v


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS.Nguyễn
Huy Quát, người hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô trong Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn

trường ĐHSP Thái nguyên đã giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu cho
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới BGH và các đồng nghiệp của tôi ở
trường THPT Lương Ngọc Quyến, THPT Phú Bình, THPT Dương Tự Minh,
THPT Gang Thép đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2012
Tác giả luận văn


Phạm Thái Linh Ngọc







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7


vi


DANH MỤC VIẾT TẮT
THPT : Trung học phổ thông
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
VHDG : Văn học dân gian

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8


1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay, để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, vấn đề
đổi mới chương trình sách giáo khoa và phương pháp học đang rất được
coi trọng.
Trong cuốn SGK Ngữ văn 10, tập 1 (Sách cơ bản), Nxb Giáo dục,
2010, phần Văn học dân gian đã có nhiều sự thay đổi so với chương trình
SGK chỉnh lý hợp nhất năm 2000. Từ hai chùm bài Những câu hát than thân;
Những câu hát tình nghĩa (sách cũ) thành chùm Ca dao than thân yêu thương
tình nghĩa và có thêm Ca dao hài hước (sách mới). Sự thay đổi này đã làm
phong phú thêm lượng tri thức về ca dao cho học sinh.
Trong thực tế, các giờ giảng về Văn học dân gian nói chung và các
bài ca dao nói riêng mà tôi đã được dự của các đồng nghiệp, không phải giờ
học nào cũng phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh,
chưa tạo được điều kiện để học sinh tự khám phá, tìm tòi tri thức. Học sinh
phần lớn học văn theo lối “ học vẹt”, không cảm nhận được cái hay, cái đẹp
của văn chương. Đổi mới phương pháp dạy học văn đặt ra yêu cầu làm thế
nào tạo được hứng thú học văn cho học sinh, giúp các em từ bỏ được thói
quen học thụ động ? Làm thế nào để giúp học sinh xây dựng được ý thức tự
học, phát huy tính chủ động trong giờ học? Những yêu cầu này đòi hỏi người
giáo viên văn học phải nỗ lực hết mình.
Tự học được coi là một trong những vấn đề cốt lõi của đào tạo con
người chủ động, sáng tạo, tích cực; là phương pháp tự mình tìm kiếm kiến

thức, tự mình độc lập suy nghĩ, khác với lối học kinh viện, thụ động, nghe
truyền đạt một cách đơn thuần, là tự tiếp thu nguồn kiến thức văn hóa do việc
học mang lại. Do vậy nó có vai trò rất quan trọng trong hoạt động dạy học nói
chung và dạy học văn nói riêng, vì chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9


2


cao chỉ khi nào tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
1.2. Ca dao được coi là phần tinh tuý nhất của Văn học dân gian. Nói đến ca
dao là nói đến những bài ca thường ngắn, đa dạng, phong phú về giọng điệu
và nội dung. “Dưới hình thức truyền miệng, ca dao vẫn giữ được chủ đề tư
tưởng và tính chất mộc mạc, không bao giờ cầu kỳ”( Vũ Ngọc Phan). Bởi
thế, ca dao thường rất dễ hiểu. Tuy nhiên, dạy và học ca dao lại không hề dễ,
những giờ giảng trên lớp nhiều khi thời gian hạn hẹp, nhiều giáo viên lại
không nắm vững được đặc trưng thể loại nên thường diễn nôm văn bản,
chưa định hướng được cho các em tự tìm hiểu để thấy được nét đặc sắc riêng
của từng bài, thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh trong các
bài ca dao.Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Những
bài ca dao vì thế cũng trở nên nhạt nhẽo với các em, đánh mất đi vẻ đẹp vốn
có của nó.
Vì tất cả những lý do trên, người viết mạnh dạn chọn đề tài “ Biện
pháp hướng dẫn học sinh tự học các bài ca dao trong chương trình lớp 10
THPT” với mong muốn được đóng góp giải quyết những khó khăn cho việc
dạy học ngữ văn hiện nay
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Về vấn đề tự học

Tự học không phải là một vấn đề mới mẻ. Các nhà nghiên cứu ở cả
trong nước và nước ngoài đều đã đề cập nhiều trong các công trình nghiên
cứu, các bài viết…
Ở trong nước có thể kể đến GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn với cuốn “ Luận
bàn và kinh nghiệm tự học” đã khẳng định khả năng tự học là một tài nguyên
quý giá của một dân tộc, của một đất nước, của loài người. Phải tiếp tục đấu
tranh chống việc học thụ động, ỷ lại, khơi dậy mạnh mẽ khả năng tự học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10


3


PGS.TS Nguyễn Huy Quát với bài “ Câu hỏi hướng dẫn học bài ở SGK
Văn phổ thông với việc tự học của Học sinh” Bài viết đã khẳng định hoạt động
tự học có tác dụng tốt đối với nhận thức của người học, vì nó đòi hỏi sự nỗ lực
cá nhân cao trong hoàn cảnh không có sự giúp đỡ trực tiếp của giáo viên.
Nguyễn Kỳ trên diễn đàn giáo dục cũng đã nêu rõ “ Tự học là nội
lực ở người học cho nên xã hội hoá giáo dục cốt lõi là xã hội hóa tự
học…Như vậy trong giáo dục không thể thiếu hoạt động tự học đối với tất
cả các chủ thể giáo dục”
Trên thế giới, bàn về vấn đề tự học, có thể kể đến các tác giẩ tiêu biểu như
N.A.Rubakhin với quan điểm “Mục đích chung của công tác tự học là làm cho
mình trở thành người có học thức”; hay như C.Đ.Usinxkin (1824-1870) cũng đã
đánh giá cao năng lực tự học, tự tìm tòi, sáng tạo “ cần giáo dục cho học sinh
biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành động một cách sáng
tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân”.
Tất cả các bài viết trên đều đã đánh giá cao và nhận thức đúng đắn
được vai trò của tự học, dù ở thời đại nào cũng đều cần thiết để đảm bảo hiệu
quả của việc học, giúp người học có thể chủ động lĩnh hội được tri thức, giúp

việc dạy học đạt kết quả cao nhất.
Giáo dục quan tâm đến tự học từ lâu. Song ở thời đại siêu công
nghiệp hiện nay, vấn đề “tự học” có ý nghĩa sống còn của tất cả mọi
người, kể cả những học sinh, sinh viên sau khi ra trường. Bởi vì nếu
không tự học và không có phương pháp tự học tốt sẽ lạc hậu về nhiều
mặt và khó có thể đảm đương được công việc nghiên cứu, kinh doanh
trong cương vị công tác của mỗi người
2.2 Vấn đề nghiên cứu ca dao dưới góc độ văn học
Những công trình nghiên cứu về ca dao dưới góc độ văn học rất đa
dạng và phong phú. Chúng tôi xin đưa ra một số công trình tiêu biểu như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11


4


- Trong Cuốn “Văn học dân gian” ( Đinh Gia Khánh chủ biên) có nói
đến vấn đề phân loại ca dao, dân ca và những truyền thống nghệ thuật của ca
dao dân ca Việt Nam.
- Bài “ Hãy giữ gìn bản sắc dân tộc của tục ngữ - ca dao” của Đỗ
Quang Lưu nói đến thực trạng tục ngữ, ca dao bị biến dạng đi một cách tuỳ
tiện do người sử dụng thiếu hiểu biết hoặc do chủ định thiếu cân nhắc.
- Trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan
(Nxb Văn hóa Sài Gòn), tác giả cũng đã đưa ra khái niệm về ca dao, tìm hiểu
về nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao.
- Bài “Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao – dân
ca trữ tình” của Bùi Mạnh Nhị trong cuốn “ Văn học dân gian - những công
trình nghiên cứu” nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công thức truyền thống
của ca dao “nó phản ánh quy tắc, quy luật của sáng tác dân gian và đặc trưng
mĩ học folklore”

2.3 Vấn đề nghiên cứu dạy học ca dao
Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc làm cho học
sinh tìm thấy sự hứng thú, khơi dậy khả năng tìm tòi, sáng tạo, hình thành và
phát triển nhân cách văn hoá cho học sinh như nhiệm vụ của môn Ngữ văn đã
đề ra. Do vậy các nhà nghiên cứu rất quan tâm nghiên cứu vấn đề này:
Tác giả Hoàng Tiến Tựu trong cuốn “Mấy vấn đề phương pháp giảng
dạy – nghiên cứu Văn học dân gian” ( NXB Giáo dục, 1997) có đề cập đến
tình hình nghiên cứu và giảng dạy Văn học dân gian, đồng thời ông cũng đưa
ra phương pháp giảng dạy cho từng thể loại cụ thể, trong đó có ca dao. Ông
cho rằng dạy học ca dao là một quá trình lĩnh hội và phân tích, những khâu,
những bước quan trọng có thể tóm tắt dưới dạng các câu hỏi. Tuy nhiên người
giáo viên cũng cần có sự linh hoạt trong việc sắp xếp các khâu đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12


5


PGS.TS Nguyễn Huy Quát trong chuyên đề “Một số vấn đề đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy Văn học dân gian ở trường Trung học phổ
thông” đã đưa ra phương pháp dạy học cụ thể cho 8 thể loại Văn học dân gian
đựơc đưa vào giảng dạy trong nhà trường, bao gồm: sử thi, truyền thuyết,
truyện cổ tích, ca dao-dân ca, truyện cười, tục ngữ, truyện thơ, thần thoại.Tác
giả nêu lên định hướng khai thác nội dung của từng thể loại trên cơ sở đặc
trưng thi pháp của từng thể loại đó.
Bài “Giảng dạy Văn học dân gian theo loại thể” của TS. Nguyễn Xuân
Lạc trong cuốn Phương pháp dạy học văn (Tập 1) cũng đưa ra phương pháp
dạy học cụ thể trong dạy ca dao. Theo ông, tổ chức dạy học một bài ca dao
cần vận dụng linh hoạt 4 bước, tìm ra trung tâm sáng tạo để “giải mã” được
bài ca dao.


Như vậy có thể thấy Văn học dân gian là bộ phận quan trọng của Văn
học Việt Nam. Những công trình nghiên cứu, bài viết, tài liệu về Văn học dân
gian rất nhiều và đều được đầu tư kỹ lưỡng, nhìn nhận ở nhiều chiều, nhiều
góc độ khác nhau. Đó là những tài liệu bổ ích giúp chúng tôi về mặt phương
pháp và phương pháp luận khi tiến hành nghiên cứu đề tài này.Tuy nhiên,các
bài viết trên chưa chuyên sâu về vấn đề tự học các bài ca dao hài hước và ca
dao than thân yêu thương tình nghĩa đang đựoc đưa vào giảng dạy hiện nay.
Do vậy, tác giả luận văn sẽ đề xuất một số biện pháp cụ thể để phát huy năng
lực tự học của học sinh, nhằm góp phần khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trong dạy học các bài ca dao ở trường phổ thông hiện nay.
3. Mục đích của đề tài
Chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm mục đích đề xuất những biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng tự học các bài ca dao ở lớp 10 THPT theo xu thế
đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13


6


4. Đối tượng và phạm vi đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là học sinh lớp 10 THPT với việc tự học các bài ca dao trong chương
trình SGK Ngữ văn hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu các biện pháp hướng dẫn học sinh
tự học các bài ca dao ở lớp 10 THPT. Lưu ý mối liên hệ với các phân môn
khác như Tiếng Việt, Tập làm văn theo nguyên tắc tích hợp.
Đề tài nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng tự học các bài

ca dao của học sinh THPT ở một số trường trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu hệ thống lý thuyết có liên quan đến đề tài để làm cơ sở lý luận
5.2 Nghiên cứu vấn đề đổi mới phương pháp dạy học các bài ca dao theo
hướng tự học
5.3 Khảo sát thực trạng dạy, học các bài ca dao ở chương trình lớp 10 THPT
làm căn cứ để đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh
như phần Mục đích của đề tài đã nêu.
5.4. Soạn giáo án thể nghiệm
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá các công trình nghiên cứu, các
tài liệu có liên quan
- Phương pháp phân tích, so sánh
- Phương pháp khảo sát thực tiễn, thống kê các số liệu khảo sát từ các
phiếu điều tra và phỏng vấn
- Phương pháp thể nghiệm sư phạm bằng giáo án do tác giả luận
văn thiết kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14


7


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương II: Khảo sát thực tế dạy học tự học các bài ca dao lớp 10 ở một
số trường phổ thông và đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng tự học.
Chương III: Thiết kế thể nghiệm.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15


8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tự học và các vấn đề về phương pháp tự học
1.1.1. Khái niệm tự học
Tự học là vấn đề cấp thiết của nền giáo dục hiện đại. Tuy không còn là
một vấn đề mới mẻ, song không phải ai cũng hiểu và vận dụng một cách
thành công. Đề cập đến khái niệm tự học, mỗi công trình, mỗi nhà nghiên cứu
có những cách diễn đạt, thể hiện khác nhau (đã trình bày ở phần lịch sử vấn
đề của luận văn), song đều có một sự thống nhất tương đối rõ ràng về nội hàm
của khái niệm.
Nhà tâm lý học N.A.Rubakhin cho rằng: tự tìm thấy kiến thức có nghĩa
là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử
trong hoạt động của cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ, cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến
tri thức của loài người trở thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo của
chủ thể.
Tác giả Nguyễn Kỳ quan niệm: “Tự học là người học tích cực, chủ
động, tự mình tìm ra tri thức, kinh nghiêm bằng hành động của mình, tự thể
hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu,
xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự
học thuộc quá trình cá nhân hoá việc học”
GS Trần Phương cho rằng: “Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự

học, tức là biến kiến thức khoa học tích luỹ từ nhiều thế hệ của nhân loại
thành kiến thức của mình, cấa tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kỹ
năng thực hành những tri thức ấy”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16


9


GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn định nghĩa: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm
chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan và thế giới quan
để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình”[18]
Các khái niệm trên đều chỉ ra rằng tự học là con đường tạo ra tri thức
bền vững cho mỗi người trong quá trình học hỏi thường xuyên trong cuộc
đời mình. Người học phải tự thân tiếp thu, khám phá tri thức từ nhiều nguồn,
tự thân rèn luyện các kỹ năng và tính độc lập trong học tập mọi lúc, mọi nơi.
Có thể đi đến định nghĩa về tự hoạc như sau: “Tự học là quá trình cá nhân
người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào
đó trong cuộc sống bằng hành động của mình nhằm đạt được một mục đích
nhất định.”
1.1.2. Vị trí, vai trò của tự học
Trong quá trình dạy học nói chung, giáo viên luôn giữ vai trò đặc biệt
quan trọng, không thể thiếu, đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo
hoạt động học tập của học sinh. Nhưng thực tế cho rằng, giáo viên dù có trình
độ và kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy
nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá
nhân, không có khao khát tìm hiểu, khám phá tri thức, không say mê học tập,
không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý,… thì việc học tập không

thể đạt kết quả tốt. Vì vậy có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học là
rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết
định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Khi bàn về vai trò của tự học, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng
định: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triến suốt cuộc đời của mỗi con
người, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17


10


cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất
lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo
của người học, khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy
mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học” [13]
 Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy
tự học. Trong quá trình dạy học, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc truyền
thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu người học ghi nhớ, mà quan trọng
hơn là phải định hướng tổ chức cho họ tự khám phá ra những quy luật, thuộc
tính mới của các vấn đề tri thức. Người dạy giúp người học không chỉ nắm
bắt tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như lý
luận dạy học hiện đại đã chứng minh rằng: càng học lên cao thì tự học càng
được coi trọng, nói tới phương pháp tự học thì cốt lõi chính là dạy tự học.“
Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cẩn rèn
luyện phương pháp tự học cho người học, coi đây không chỉ là một phương
tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu quan trọng của dạy
học” [22]
GS.Trần Bá Hoành cũng nhấn mạnh điều này trong bài viết của mình

“ Trong một xã hội hiện đại đang phát triển nhanh với sự bùng nổ thông tin,
khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão thì việc dạy học không chỉ giới
hạn ở dạy kiến thức mà phải chuyển sáng dạy phương pháp tự học”[26]
Vì vậy muốn nắm chắc kiến thức, hiểu kỹ, nhớ lâu để thực hành có kết
quả thì người học cần lấy tự học làm cốt.
 Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực
cho quá trình học tập
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân trong cuộc
sống, học tập và công tác là tính tích cực, sự chủ động, sáng tạo trong mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18


11


hoàn cảnh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành
phẩm chất đó cho người học. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực
tự học) như một điều kiện phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong xã hội hiện
đại. Hoạt động tự học là biểu hiện của sự gắng sức cao về mọi mặt của từng
cá nhân người học trong quá trình nhận thức. Có hứng thú, người học mới có
được sự tự giác, say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực
dẫn tới tự giác.
 Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời
Học tập để khẳng định năng lực, phẩm chất và để cống hiến. Tự học
giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bằng con đường tự học, mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời
cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống
hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp.
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh
hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham

học, nhờ đó kết quả học tập càng được nâng cao.
Xin đưa ra một ví dụ điển hình về GS. Nguyễn Cảnh Toàn “Tôi sinh ra
và lớn lên trong chiến tranh, việc học hành luôn bị dở dang, đứt đoạn. vì thế
tự học là điều hết sức cần thiết để tôi bù đắp những thiếu hụt của mình. Trong
học tập, nếu thiếu chủ động, thày ra bài nào làm bài ấy, sách có thế nào học
thế ấy, hiệu quả sẽ không cao. Có người bảo tôi, anh đừng chủ quan, tưởng
mình tự học thành công thì ai cũng có thể tự học thành công. Theo tôi mọi
người đều có khả năng tự học nhiều hay ít, trừ khi bị những khuyết tật tâm
thần. Biết vun vén thì khả năng đó sẽ phát triển”. [28]
Với những lý do nêu trên, nếu người học xây dựng được phương pháp
tự học, phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo thì nhất định
sẽ khơi dậy được tối đa năng lực tiềm tàng sẵn có ở mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19


12


1.1.3. Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ
năng tự học của người học
Học là quá trình thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng do người khác
truyền lại. Mỗi người có một cách học riêng, nhưng cách học hiệu quả nhất là
sự tự học. Chỉ có tự học mới giúp chúng ta tiếp thu kiến thức một cách chủ
động, biết cách áp dụng kiến thức đó vào thực tế. Có thể tự học qua sách báo,
qua nghe giảng, qua các bài tập, qua học thuộc lòng, qua thực tế… Trong tự
học, bước đầu thường có nhiều lúng túng, nhưng chính những lúng túng đó lại
là động lực thúc đẩy người học suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện vấn đề để có câu
trả lời thoả đáng. Do vậy tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể
người học trong quá trình nhận thức. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn
chủ động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ

đạo, điều khiển của giáo viên, phương pháp tự học sẽ trở thành vấn đề cơ bản
trong phương pháp học tập.
Để tạo ra tri thức bền vững cho mỗi con người thì tự học được coi là
chìa khoá vàng, là con đường tự khẳng định, con đường sống, con đường
thành đạt cho mỗi ai muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại ngày nay.
Bản chất của quá trình dạy học cũng thay đổi, không còn là quá trình đơn
phương, một chiều, mà là một quá trình tổng hợp nhiều quá trình, trong đó
quá trình tự giáo dục là hạt nhân. Và chức năng trong cơ chế dạy học (chức
năng của người dạy và người học) cũng thay đổi: người thày đóng vai trò là
người tổ chức, người hướng dẫn người học nắm bắt vấn đề, còn người học giữ
vai trò là người hợp tác, tham gia để cùng nắm kiến thức. Lịch sử đã chứng
minh có rất nhiều người trở thành vĩ nhân, giáo sư nhờ phương pháp tự học,
như Hồ Chí Minh, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Trí Viễn…
Tự học bao gồm 3 khâu: Trước khi lên lớp (Giáo viên cung cấp tài liệu
cho học sinh và hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu trước. Học sinh đọc văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20


13


bản, tài liệu, trả lời câu hỏi gợi dẫn trong sách giáo khoa, sưu tầm tài liệu…);
Trong khi lên lớp (Học sinh làm việc với sách giáo khoa và tài liệu cần thiết.
Giáo viên đưa ra cách đặt vấn đề để học sinh suy nghĩ và trả lời); Sau khi lên
lớp (Giáo viên giao bài tập về nhà và có kiểm tra, đánh giá). Như vậy, người
học phải có sự chuẩn bị kỹ trước giờ học, đến khi lên lớp cần chú ý nghe
giảng, tập trung tư tưởng theo dõi một cách không thụ động và biết đề xuất
những thắc mắc, những chỗ chưa hiểu rõ để thày trò cùng giải quyết. Thày
chú ý phát huy năng lực trí tuệ của trò, trò là chủ thể, không tiếp thu thụ động,
máy móc. Kinh nghiệm của các học sinh giỏi, các sinh viên xuất sắc là ở chỗ

này. Chúng ta thường thấy có những học sinh, sinh viên con nhà nghèo,
thường phải làm việc giúp đỡ gia đình nhưng vẫn học giỏi, chính là biết cách
học như trên, họ đã hiểu bài, thuộc bài ngay tại lớp. Đã từ lâu, các thày giáo
giảng dạy có kinh nghiệm cũng đã đề ra phương pháp dạy và học theo cách
nói trên.
Tự học ở nhà rất quan trọng, vì đây là lúc học sinh có nhiều thời giờ
suy ngẫm, hoặc vận dụng kiến thức vào thực tế, tiếp tục đề xuất những thắc
mắc để thày giải đáp, đồng thời cũng là cách để tri thức khắc sâu trong bộ óc,
khó bị lãng quên và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác
Hồ luôn nhắc nhở.
Hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách, thiết yếu của học
sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, mà còn có ý nghĩa trong suốt cuộc đời
mỗi con người, tạo thói quen học tập suốt đời, đúng như V.I.Lê Nin đã dạy:
“Học, học nữa, học mãi”. Cần phải học khi còn là học sinh, nhưng cần phải
học tập hơn nữa khi rời ghế nhà trường, và sự học tập ở giai đoạn thứ hai này
còn quan trọng hơn với mỗi người vì thời gian ngồi trên ghế nhà trường có
hạn. Học suốt đời sẽ giúp mỗi người khỏi bị lạc hậu trước sự biến đỏi không
ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21


14


Tóm lại, tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà
còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Dạy học là dạy cách
học. Dạy cách học chủ yếu là dạy cách tự học. Tự học có phương pháp chung,
song cũng có những phương pháp cụ thể đối với những đối tượng người học
khác nhau, ở các môn học, bài học khác nhau. Có như vậy hì người học mới
thu được kết quả tốt và vững chắc.

1.1.4. Điều kiện và cách thức để tự học có hiệu quả
Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững
tri thức, kĩ năng do chính người học tiến hành trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp,
có thể theo chương trình hoặc ngoài chương trình.
1.1.4.1. Điều kiện tự học
- Điều kiện thời gian: học sinh nắm vững các kiến thức, tránh học tủ, học
vẹt, dành nhiều thời gian cho việc tự học. Vì thời gian trên lớp thường hạn
hẹp, khối lượng kiến thức nhiều nên cần dành nhiều thời gian tự học ở nhà
trước khi lên lớp và sau khi lên lớp. Người học phải tự tạo một thời gian biểu
thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh của bản thân, tiết kiệm mọi thời gian
quý báu để học tập và nghiên cứu.
- Điều kiện tâm lý: Việc tự học có đạt hiệu quả hay không là phụ thuộc rất
nhiều vào yếu tố tâm lý. Người học cần có tâm lý tập trung, thoải mái, có sự
hứng thú say mê với những vấn đề nghiên cứu hay những vấn đề của bài học.
- Điều kiện môi trường và vật chất: có một điều dễ nhận thấy là việc tự
học bao giờ cũng gắn liền với điều kiện vật chất đi kèm như sách vở, tài liệu
tham khảo, tài liệu hướng dẫn, các công cụ tìm kiếm, các phương tiện hiện đại
để thuận lợi cho việc tự học, hoặc tự đánh giá, kiểm tra kiến thức của bản thân
người học. Môi trường cũng có vai trò quan trọng không kém so với các yếu
tố khác, vì việc tự học cần yên tĩnh, tập trung, tránh ồn ào. Thư viện, phòng
đọc sách, phòng riêng là tốt nhất, quan trọng là nơi đó không làm phân tán sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22


15


tập trung. Cho nên hãy làm cho việc lựa chọn nơi học thích hợp trở thành một
phàn của thói quen học tập.
- Điều kiện học tập tự học đối với môn Ngữ văn:

Đối với môn ngữ văn trong nhà trường phổ thông, điều kiện để học
sinh thực hiện việc tự học đang rất được quan tâm, bởi đó là nguyên nhân
khắc phục tình trạng chán học văn hiện nay ở người học. Cả ba điều kiện về
thời gian, tâm lý và môi trường vật chất đều có vai trò quan trọng như nhau để
quyết định việc học tốt môn văn, đặc biệt là bài học tác phẩm văn chương.
Việc học văn đòi hỏi người học phải đọc nhiều, không chỉ bó hẹp ở các
tác phẩm trong nhà trường mà cần mở rộng ra các tác phẩm của các tác giả
khác thì mới mong tích luỹ và khắc sâu được tri thức, bởi vậy người học nên
đến thư viện để tìm và đọc các loại sách tham khảo, tự soạn trước bài mới ở
nhà theo sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên. Ngoài việc học bài và làm bài,
các em nên dành thời gian rỗi để luyện tập viết đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh,
hoặc đọc các sách chuyên khảo về văn chương để tự bồi dưỡng cả về kiến
thức và kỹ năng hành văn.
Đối với bài học Văn học dân gian nói chung, ca dao-thơ dân gian nói
riêng, học sinh cần có một cuốn sổ tay văn học để ghi chép lời hay ý đẹp,
những câu danh ngôn, những đoạn văn-câu thơ vừa để có vốn kiến thức, vừa
tự sửa các lỗi dùng từ, đặt câu hay mắc phải để biết cách viết đúng. Học sinh
cũng cần có Từ điển Tiếng Việt để tra cứu khi gặp những từ khó hiểu và làm
giàu thêm vốn từ Tiếng việt cho mình.
Môn Văn cũng có những đặc trưng riêng so với các môn học khác, do
vậy cần tạo được bầu không khí vui vẻ, thoải mái trong các giờ học văn, như
tạo dựng các nhóm thi đọc diễn cảm, tổ chức thảo luận giữa các nhóm về một
vấn đề nào đó của tác phẩm văn chương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23


16


Nguyên nhân chính làm cho chất lượng môn ngữ văn trong trường phổ

thông nhiều năm qua bị yếu kém là do chưa tạo ra được sự hứng thú học tập
cũng như chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc
tìm tòi, khám phá tri thức mới qua mỗi giờ học Ngữ văn. Người học văn rất
cần tập trung chú ý, tạo hứng thú cao khi đọc tác phẩm và có thói quen khai
thác nội dung thông qua hình thức nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt là nghệ
thuật ngôn từ của tác giả.
1.1.4.2. Cách thức thực hiện
 Xây dựng động cơ học tập
Theo UNESCO: “ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để
tự khẳng định mình’. Do vậy, người học tự xây dựng cho mình động cơ học
tập đúng đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết
quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập
lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi
người những tố chất cần thiết. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn
tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui
sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập, có thể khuôn tách thành hai nhóm
cơ bản:
- Các động cơ hứng thú nhận thức.
- Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường, các động cơ hứng thú nhận thức được hình thành và đến
được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị,
bất ngờ, chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ
xuất hiện thường xuyên khi giáo viên biết tăng cường tổ chức các trò chơi
nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích
cực từ người học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24


17



Ví dụ: Có thể kích thích tính tích cực tự giác ở người học bằng hệ thống
các câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương (câu hỏi phát hiện,câu hỏi nêu vấn đề, so sánh, phân tích, tranh
luận…); hay tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm về một vấn đề có
trong bài học.
Động cơ, nhiệm vụ và trách nhiệm của người học thường có mối liên
hệ với nội dung ý nghĩa xã hội của sự học, như nghĩa vụ đối với Tổ quốc,
trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các
em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện nhiệm vụ
học tập và những yêu cầu từ giáo viên, phụ huynh.
Cả hai động cơ trên không hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại
từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác từ bên trong. Do
vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi
của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dậy hứng thú
học tập và năng lực tiềm tàng nơi người học. Và điều quan trọng hơn là tạo
mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình.
 Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì cùng với mục
đích, nhiệm vụ đã xác định thì kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ
ràng. Kế hoạch phải có tính định hướng cao. Kế hoạch học cho từng môn,
từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ
thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải
chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực
tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải, thiếu tập trung
thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm,
phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí, logic về cả nội dung lẫn thời gian,
đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25

×