Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường một số nước Asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH







ĐỖ THÙY LƢƠNG






CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƢỜNG MỘT SỐ NƢỚC ASEAN



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế











Thái Nguyên – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH





ĐỖ THÙY LƢƠNG




CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƢỜNG MỘT SỐ NƢỚC ASEAN


Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 04 10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Quốc Tiến






Thái Nguyên – 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng đối với bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới. Không có một quốc gia nào phát triển phồn vinh
khi vẫn duy trì nền kinh tế đóng cửa và chỉ dựa vào thương mại nội địa.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình
trong phân công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
Từ những năm 1986, Việt nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện nền kinh tế. Sau hơn 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn về mọi mặt. Để làm được điều đó, cùng với việc phát triển
các ngành nghề lĩnh vực khác, Việt Nam đã rất năng động trong lĩnh vực
ngoại thương, và xuất khẩu đã thực sự có ý nghĩa to lớn trong chiến lược xây
dựng và phát triển kinh tế. Nhờ đẩy mạnh xuất khẩu Việt nam mới có điều
kiện thuận lợi thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Là một nước nằm ở Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm

và ẩm, thuận tiện cho việc phát triển cây trồng vật nuôi,… với dân số gần
90 triệu người, trong đó khoảng 70% tham gia vào các hoạt động sản xuất
nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là một mặt hàng xuất khẩu
quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho phát triển kinh tế
của đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi và khuyến
khích sự tham gia của các công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản.
Mặt hàng nông sản là mặt hàng được Nhà nước hết sức chú trọng trong cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trên lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản
nước ta đã đạt được nhiều thành công, nhưng cũng vẫn còn những hạn chế
nhất định. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trƣờng một số nƣớc Asean”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mc tiêu chung: Nghiên cứ u là m rõ và đề xuất các giải pháp đẩ y mạ nh
xuấ t k hẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường mộ t số nướ c
ASEAN, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore, Thailand (gọi
tắt là ASEAN-5).
*Mc tiêu c thể:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu hàng hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường các nước ASEAN-5 và nguyên nhân của tình hình.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất
khẩ u nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nướ c ASEAN-5
trong thờ i gian tớ i.
3. Đối tƣng và phạm vi nghiên cƣ́ u củ a luậ n văn
* Đi tưng nghiên cu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý

luận về xuất khẩu nông sản hàng hóa và đẩ y mạ nh xuấ t khầ u nông sản hàng
hóa của Việt Nam ra nước ngoài nói chung, sang thị trường các nướ c
ASEAN-5 nói riêng; Thực trạng tình hình xuất khẩu và các giải pháp có thể
để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các
nước ASEAN-5.
* Phm vi nghiên cu:
- Phạm vi về nội dung và không gian: Đề tài chỉ tậ p trung nghiên cứ u
vào việc xuấ t khẩ u nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước
ASEAN-5 gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thá i Lan.
- Phạm vi về thời gian: Đề tà i tậ p trung nghiên cứ u tì nh hình xuấ t khẩ u
nông sản hàng hóa của Việt N am sang thị trường các nước ASEAN -5 giai
đoạ n 1995-2011.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
- Về mặ t lý luậ n: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ làm rõ thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời đề xuất các giải pháp có
cơ sở khoa học, có tính khả thi để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN nói chung, các nước ASEAN-5
nói riêng.
- Về mặ t thự c tiễ n : Đề tài được ứng dụng sẽ góp phần nâng cao năng
lực và kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đang và sẽ xuất
khẩu nông sản hàng hóa sang thị trường các nước ASEAN5, đồng thời có thể
làm tài liệu tham khảo cho việc xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam
sang thị trường các nước thuộc khu vực khác có điều kiện tương tự.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xuất khẩu hàng nông sản.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

- Chương 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản hang hóa của Việt Nam sang
thị trường các nước ASEAN-5.
- Chương 4: Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN

1.1. Các lý thuyết về thƣơng mại quốc tế có liên quan đến xuất khẩu nông
sản hàng hóa
Trong phần này, tác giả luận giải và tổng hợp cơ sở lý thuyết của đề tài,
bao gồm việc phân tích những nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng thương,
lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lý thuyết của Heckscher~Ohlin,… Trên cơ sở
đó, tác giả sẽ xây dựng khung phân tích áp dụng cho việc thực hiện đề tài.
1.1.1. Chủ nghĩa trọng thƣơng
Từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVIII, hầu hết các quốc gia ở châu
Âu chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chủ nghĩa trọng thương trong việc thống nhất
kinh tế và kiểm soát chính trị. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết
thương mại quốc tế đầu tiên. Trong thời kỳ đó, vàng và bạc được lưu hành với
tư cách là đồng tiền thanh toán trong thương mại quốc tế và cũng là thước đo
tài sản của một quốc gia. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, sự giàu
có của một quốc gia phụ thuộc vào số lượng vàng và bạc mà quốc gia đó nắm
giữ. Để thu được nhiều vàng và bạc thì các quốc gia cần phải xuất khẩu nhiều
hơn nhập khẩu. Một quốc gia mà xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì đều nhận
được sự chi trả bằng vàng, bạc từ phần còn lại của thế giới. Chính vì vậy, các

nhà trọng thương đều ủng hộ việc điều tiết thương mại quốc tế theo hướng
khuyến khích xuất khẩu.
Học thuyết trọng thương đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều
khiển kinh tế thông qua bảo hộ (Võ Thanh Thu, 2010). Những người theo chủ
nghĩa này kêu gọi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế thông qua
việc áp dụng các hàng rào bảo hộ mậu dịch, miễn thuế nhập khẩu cho các loại
nguyên liệu phục vụ sản xuất, cấm bán ra nước ngoài sản phẩm thô, thực hiện
trợ cấp xuất khẩu. Theo các nhà trọng thương thì lao động là yếu tố cơ bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
của sản xuất. Chính vì vậy, để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường thì cần phải hạ thấp lương để giảm chi phí sản xuất.
Nhiều học giả cho rằng chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết lâu
đời, nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa này vẫn còn kéo dài cho đến nay, đặc
biệt là trong cách tranh cãi về chính trị và chính sách thương mại của nhiều
quốc gia. Một trong những lý do nêu trên là quan điểm cho rằng thâm hụt cán
cân thương mại là không có lợi và nhập khẩu sẽ làm giảm việc làm trong
nước. Khi một quốc gia bị thâm hụt trong tại khoản vãng lai thì quốc gia đó
phải vay vốn từ phần còn lại của thế giới để mua nhiều hàng hoá và dịch vụ từ
phần còn lại của thế giới hơn là quốc gia đó bán hàng hoá và dịch vụ cho phần
còn lại của thế giới. Tuy nhiên, việc vay vốn này rất có thể cải thiện sức mạnh
kinh tế của quốc gia nếu lợi ích từ việc vay vốn này vượt quá chi phí vay.
Qua phân tích lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhận thấy
có một số ưu điểm như sau. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương đã biết đánh
giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng mang
quý kim về cho đất nước. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương đã sớm nhận rõ vai
trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết quan hệ ngoại thương. Thứ ba,
chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử được nâng
lên như là lý thuyết khoa học.

Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên, lý thuyết trọng thương
về thương mại quốc tế bộc lộ một số nhược điểm nhất định. Thứ nhất, chủ
nghĩa trọng thương chưa cho phép giải thích được bản chất của thương mại
quốc tế, như cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa trong thương mại quốc tế và
cũng chưa thấy được tính hiệu quả cũng như lợi ích do quá trình chuyên
môn hóa và trao đổi mang lại. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương cho rằng một
quốc gia chỉ có thể có lợi từ thương mại trên sự hy sinh của một quốc gia
khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng các quốc gia chỉ mong muốn tham
gia vào thương mại quốc tế với nhau khi cả hai quốc gia đều thu được lợi ích
từ thương mại. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương hiểu sai về khái niệm “tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
sản quốc gia”, đo lường sự giàu có của quốc gia bằng quý kim. Ngược lại,
ngày nay sự giàu có của một quốc gia được đo lường bỏi khả năng của quốc
gia đó về nguồn lực con người, tài nguyên có thể cung cấp được cho sản
xuất và dịch vụ. Nguồn lực này càng phong phú, sử dụng càng có hiệu quả
thì dòng chảy hàng hoá và dịch vụ thoả mãn con người càng dồi dào, tiêu
chuẩn sống của quốc gia càng cao.
1.1.2. Li thế tuyệt đối của Adam Smith
Adam Smith là một nhà kinh tế học cổ điển người Anh. Trong cuộc đời
của mình ông đã có nhiều tác phẩm về kinh tế. Năm 1776, trong tác phẩm “Sự
giàu có của quốc gia”, Adam Smith đã không nhất trí với quan điểm “thương
mại quốc tế là một trò chơi có tổng lợi ích bằng không” của các nhà trọng
thương. Ông bắt đầu bằng một sự thực đơn giản là để cho hai quốc gia
thương mại với nhau một cách tự nguyện thì cả hai quốc gia đều phải thu
được lợi ích từ thương mại. Nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia kia phải
chịu thiệt thì quốc gia chịu thiệt sẽ từ chối không tham gia vào thương mại
quốc tế nữa. Theo Adam Smith thì thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ
và sử dụng nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, và từ đó tạo ra lợi ích cho

từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán (Đỗ Đức Bình và Nguyễn
Thường Lạng, 2004). Cũng nhờ tác phẩm này mà ngày nay nhiều nơi suy tôn
Adam Smith là “cha đẻ của kinh tế học”.
Để chứng minh rằng thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các
quốc gia tham gia thương mại, Adam Smith đã xây dựng khái niệm lợi thế
tuyệt đối. Khái niệm này nói về khả năng của một quốc gia cần sử dụng
nguồn lực ít hơn so với các quốc gia khác để sản xuất ra một hàng hóa nào đó.
Theo Adam Smith, một quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn so với các quốc gia
khác nếu quốc gia đó có khả năng sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn với
cùng một nguồn lực. Ông cho rằng thị trường sẽ điều tiết các hoạt động kinh
tế và đóng vai trò là một bàn tay vô hình phân bổ các nguồn lực. Giá đóng vai
trò là một nhân tố chủ chốt. Cụ thể là giá tăng lên khi có sự khan hiếm và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
giảm xuống khi có sự dư thừa. Các tác nhân thị trường đảm bảo việc sản xuất
hàng hoá và dịch vụ hợp lý.
Chấp nhận quan điểm là sự khác biệt về chi phí sản xuất sẽ phi phối sự
di chuyển quốc tế về hàng hóa, Adam Smith đã tìm cách giải thích nguyên
nhân tại sao chi phí sản xuất tại các quốc gia lại khác nhau. Ông cho rằng hiệu
suất của các nhân tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất. Hiệu suất này do lợi
thế tự nhiên và lợi thế có được tạo ra. Lợi thế tự nhiên bao gồm các yếu tố
liên quan đến thời tiết, đất đai và khoáng sản. Trong khi đó lợi thế có được
bao gồm các kỹ năng và kỹ thuật đặc biệt. Adam Smith lập luận rằng, do có
lợi thế tự nhiên và lợi thế có được, một quốc gia có thể sản xuất hàng hóa với
chi phí thấp hơn, và do đó trở nên cạnh tranh hơn so với quốc gia khác. Chính
vì vậy, Adam Smith nhìn nhận khả năng cạnh tranh từ mặt cung của thị trường.
Adam Smith đã đưa ra một số chỉ trích quan trọng đối với chủ nghĩa
trọng thương. Một là, thương mại tự do mang lại lợi ích cho các bên tham gia
thương mại. Hai là, chuyên môn hoá sản xuất cho phép thực hiện lợi thế theo

quy mô, và như vậy nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ba là,
trong một môi trường tự do thương mại mà không có sự can thiệp của chính
phủ thì phúc lợi công cộng sẽ tăng lên do có sự cạnh tranh.
Như vậy, Adam Smith ủng hộ tự do thương mại. Theo ông, tự do thương
mại thúc đẩy phân công lao động quốc tế và cho phép các quốc gia có thể tập
trung vào sản xuất hàng hóa mà họ có thể sản xuất với chi phí thấp nhất. Tuy
nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế. Lợi
thế tuyệt đối không giải thích được trường hợp khi một quốc gia nào đó lại
bất lợi thế hơn so với các quốc gia còn lại trong việc sản xuất tất cả các hàng
hoá và dịch vụ thì liệu quốc gia đó có nên tham gia vào thương mại quốc tế
hay không. Vì sự hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình hình phát
triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi thế tương
đối, còn gọi là lợi thế so sánh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
1.1.3. Li thế so sánh của David Ricardo
David Ricardo là nhà duy vật và nhà kinh tế học người Anh gốc Do Thái.
Ông được C.Mác đánh giá là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị
tư sản cổ điển”. David Ricardo cho rằng lợi thế tuyệt đối không phải là điều
cần hoặc đủ để thương mại diễn ra giữa hai quốc gia. Chẳng hạn, nếu một
quốc gia có lợi thế tuyệt đối đối với tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ thì quốc
gia đó sẽ sản xuất và xuất khẩu mọi thứ và không nhập khẩu thứ gì cả. Nếu
quốc gia này muốn xuất khẩu để thu ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu thì
lợi thế tuyệt đối sẽ không có giá trị nữa.
Chính vì vậy, năm 1817, nhà kinh tế học David Ricardo phát triển tư
tưởng “lợi thế so sánh” thành thuyết “lợi thế so sánh” hay còn gọi là quy luật
“lợi thế tương đối”. Theo nguyên tắc của lợi thế so sánh thì một quốc gia
được cho là có lợi thế so sánh về một hàng hoá hay dịch vụ nếu quốc gia đó

sản xuất với chi phí cơ hội thấp hơn so với quốc gia khác. Điều đó cũng có
nghĩa là bất kì quốc gia nào cũng có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế
dù quốc gia đó có hay không có các điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn hẳn các
quốc gia khác.
Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những quy luật
quan trọng nhất, đặt cơ sở, nền móng cho mậu dịch quốc tế và được ứng dụng
rộng rãi nhất. Cho đến nay, bản chất của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo
vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia nào. Theo quy luật này
thì thậm chí một quốc gia kém hiệu quả hơn (bất lợi thế tuyệt đối) so với quốc
gia kia trong việc sản xuất cả hai hàng hoá thì cả hai quốc gia vẫn có thể thu
được lợi ích từ thương mại. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất
khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối ít hơn (hàng hoá có bất lợi thế so
sánh) và nhập khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối lớn hơn (hàng hoá
có bất lợi thế so sánh). Nói cách khác, một quốc gia sẽ có lợi hơn khi sản xuất
và xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc
gia kia (Trần Văn Hòe và Nguyễn Văn Tuấn, 2007).
Ưu điểm của quy luật lợi thế so sánh là nó đi xa hơn lợi thế tuyệt đối của
Adam Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao
thương với nhau bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Tuy nhiên,
lý thuyết này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định.
Một là, David Ricardo đã dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hóa lý
thuyết về giá trị lao động để chứng minh cho quy luật này. Trong khi đó trên
thực tế lao động không phải là đồng nhất; những ngành khác nhau sẽ có cơ
cấu lao động khác nhau, với những mức thu nhập khác nhau. Ngoài ra, hàng
hóa sản xuất không chỉ có lợi thế về lao động, nó còn nhiều yếu tố khác như:
đất đai, vốn, khoa học-công nghệ… nhất là hiện nay, yếu tố lợi thế về lao

động dần dần bị thu hẹp lại giữa các quốc gia, các yếu tố khác như đất đai,
vốn, khoa học - công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Hai là, lý thuyết lợi thế so sánh không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu
dùng của mỗi nước.
Ba là, lý thuyết không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của
một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để
nguyên nhân sâu xa của thương mại quốc tế.
Bốn là, các phân tích của Ricardo không đề cập tới chi phí vận tải, bảo
hiểm hàng hóa và hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên. Các yếu
tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương mại quốc tế.
Năm là, học thuyết này không xác định được tỷ lệ giao hoán quốc tế, tức
là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. Cuối cùng, trong thực tế có
thể xảy ra trường hợp cả hai quốc gia đều có bất lợi thế tuyệt đối giống nhau.
Trong trường hợp này, cả hai quốc gia đều không thu được lợi ích từ thương
mại. Do đó, quy luật lợi thế so sánh có một trường hợp ngoại lệ, và để cho
quy luật luôn luôn đúng thì quy luật này có thể được phát biểu như sau: Thậm
chí, nếu một quốc gia kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai hàng hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
so với quốc gia khác thì cả hai quốc gia vẫn thu được lợi ích từ thương mại,
trừ khi bất lợi thế tuyệt đối của quốc gia này so với quốc gia kia có cùng tỷ lệ
đối với cả hai hàng hoá.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hóa là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, là việc
buôn bán hàng hoá và dịch v cho một quc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ
làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là
ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Hoạt động xuất
khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu
hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các

công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất
cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc
gia tham gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng
quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại
lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng
hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nếu xem xét dưới góc độ các hình
thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các
doanh nghiệp thường áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu
trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng
sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
* Đặc điểm:
- Hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
- Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân, doanh nghiệp
trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Thông thường các sản phẩm xuất khẩu là các mặt hàng lợi thế của
quốc gia.
* Vai trò của xuất khẩu
- Đi với nền kinh tế quc gia
Xuất khẩu tạo vốn bằng ngoại tệ phục vụ cho vấn đề nhập khẩu những
hàng hoá không phải là lợi thế của quốc gia. Điều này rất có ý nghĩa, đặc biệt

là đối với các nước đang phát triển, khi họ có nhu cầu nhập khẩu cao máy
móc, dây chuyền công nghệ đáp ứng cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hoá đất nước.
Xuất khẩu góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại do nhập khẩu,
cán cân thanh toán của quốc gia sẽ được cải thiện và uy tín nền kinh tế của
quốc gia cũng sẽ được nâng cao trên trường quốc tế.
Xuất khẩu góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội của quốc gia. Xuất
khẩu tạo thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó qui mô và chất
lượng của nền kinh tế sẽ được nâng cao, sức ép về vấn đề thất nghiệp lên nền
kinh tế quốc dân được giảm nhẹ.
- Đi với doanh nghiệp
Xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận, có nguồn thu ngoại
tệ để phục vụ nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất, dây chuyền công nghệ có
vốn để tái đầu tư sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất, tạo nhiều công ăn việc
làm cho người lao động.
Xuất khẩu là động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm về giá cả, chất lượng trên thị trường thế giới.
Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ kinh doanh
với các đối tác nước ngoài, đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tác
phong làm việc có hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
1.3. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa
1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Trong hình thức này, các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và ký kết hợp
đồng bán hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được nhà nước và
pháp luật cho phép. Với hình thức này không có sự tham gia của bất kỳ một tổ
chức trung gian nào.

1.3.2. Xuất khẩu ủy thác
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất
khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản
thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Xuất khẩu
uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn
xuất khẩu, nhưng vì doanh ngiệp không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt
động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan
hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung
gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới).
1.3.3. Buôn bán đối lưu
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá mang
trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình thức này không nhằm thu
về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá
trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được
sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng thời có lợi khi
các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (phổ biến), trao
đổi bù trừ, chuyển giao nghĩa vụ
1.3.4. Gia công xuất khẩu
Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công)
nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia
công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên
nhận gia công thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động
dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để

nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công, họ khai thác
được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
1.3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước
giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho
chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ.
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong
việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức
này thường không có rủi ro trong thanh thư.
Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu đãi như: khả năng thanh toán
nhanh, rủi ro thấp
1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên
giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. Ở hình thức này, doanh
nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người
mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp. Do vậy, doanh
nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê
phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này
thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ
chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
1.3.7. Tạm nhập tái xuất
Với hình thức này, một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ
một nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp
có thể thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu
tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
được áp dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu
và nước nhập khẩu.

1.4. Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu hàng hóa
1.4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông
hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Theo nghĩa rộng, “Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, giữa tập
người bán và tập người mua để thực hiện việc mua – bán hàng hóa, dịch vụ
nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ”.
Theo nghĩa hẹp (trong marketing): Thị trường còn đồng nghĩa với
khách hàng. Hàng hóa, dịch vụ nào có người mua, thì ta nói hàng hóa, dịch vụ
đó có thị trường và ngược lại.
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt
các thủ tục, kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ những
thông tin cần thiết về thị trường, từ đó có thể đưa ra những quyết định chính
xác. Chính vì vậy, nghiên cứu thị trường đóng một vai trò hết sức quan trọng
giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Không phải chỉ đối với kinh doanh thương mại quốc tế mà bất cứ
trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có đầy đủ các thông
tin, hiểu biết về thị trường mà mình đang hướng tới. Mỗi thị trường hàng hoá
cụ thể lại có những quy luật riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu
cầu cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường.








Sơ đồ 1.1: Các bƣớc thực hiện xuất khẩu hàng hoá
Việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hiểu được

các quy luật vận động trên thị trường đó. Điều này trong kinh doanh quốc tế
Nghiên
cứu thị
trường
Lập kế
hoạch,
chiến lược
xuất khẩu
Đàm phán
và ký kết
hợp đồng
xuất khẩu
Thực hiện
hợp đồng
xuất khẩu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
càng đòi hỏi phải nghiên cứu công phu và tỷ mỉ hơn, vì giá cả và khối lượng
hàng thường lớn hơn so với thương mại trong nước, hơn nữa là do các nhà
kinh doanh trong nước phải tiếp xúc với môi trường kinh doanh mới, có yếu
tố quốc tế Chính vì vậy, việc nghiên cứu thị trường phải có kế hoạch nhất
định bao gồm: nhận biết về sản phẩm xuất khẩu, lùa chọn thị trường và tìm
hiểu đối tác.
Khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải xác định được
các vấn đề sau:
a- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì?)
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các doanh
nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì trước tiên
phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra. Mục đích của việc lựa chọn

mặt hàng xuất khẩu là để lùa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp
khả năng của doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó
mới mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Mặt hàng được lựa chọn, ngoài
yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp
với khả năng cung ứng của doanh nghiệp Khi lùa chọn mặt hàng xuất khẩu
các nhà kinh doanh phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau:
- Mặt hàng thị trường đang cần là gì ?
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
b, Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán ở đâu)
Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc
nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu về quy luật vận
động của thị trường còn phải nghiên cứu một số vấn đề khác như: điều kiện
tiền tệ, tín dụng, điều kiện vận tải (của thị trường nước ngoài mà mình hướng
tới) Việc lùa chọn thị trường phải chú ý một số vấn đề sau:
- Thị trường và dung lượng thị trường
- Vấn đề biến động giá cả trên thị trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
c- Lựa chọn đi tác kinh doanh (bán cho ai?)
Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước
ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp
phải thông qua mét hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó. Họ
có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường mình cần hướng tới cũng như địa
vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi. Nhưng khi
lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác;
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác;
- Khả năng về tài chính;

- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh;
- Những người đại diện cho công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm
của họ đối với công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của công ty.
1.4.2. Xây dựng kế hoạch, chiến lược xuất khẩu
Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, các đơn vị kinh
doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đây là bước
chuẩn bị trên giấy tờ, dự đoán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá
cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Kế hoạch kinh
doanh là phương án hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các
mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Một kế hoạch kinh doanh có cơ sở khoa học và thực tiễn dựa trên cơ sở
phân tích chuẩn xác và đúng dắn về thị trường, bạn hàng cũng như về nội lực
của công ty mình sẽ góp phần vào thành công trong kinh doanh.
1.4.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác
và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp
đồng. Khi đã ký kết hợp đồng có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
khẩu và đối tác cùng ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy
định trong hợp đồng.
1.4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, người xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp
đồng mình đã ký kết. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến
hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực
hiện hợp đồng.
Chuẩn bị
hàng hoá


Xin giấy phép
xuất khẩu

Thuê tầu

Kiểm nghiệm
hàng hoá

Làm thủ tục
hải quan











Giải quyết
khiếu nại

Hoàn thành
bộ CTTT

Mua bảo
hiểm


Giao hàng
lên tầu
Sơ đồ 1.2: Các bƣớc tiến hành việc thực hiện hp đồng xuất khẩu
1.5. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa
- GDP bình quân đầu người: Việc đưa yếu tố cung của nước xuất khẩu
(PGDP
it
) và yếu tố cầu của nước nhập khẩu (PGDP
jt
) dựa trên cơ sở lý thuyết
là mức thu nhập bình quân đầu người của nước xuất khẩu cao chứng tỏ khả
năng sản xuất phục vụ xuất khẩu, còn mức thu nhập bình quân đầu người của
nước nhập khẩu cao cho thấy mức cầu về nhập khẩu cao hơn. Tình hình phát
triển kinh tế của thị trưòng xuất khẩu có ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng
thanh toán của khách hàng, do đó có ảnh hưởng đến hoạt đông xuất khẩu của
doanh nghiệp. Chính vì vậy, theo dự đoán của mô hình, khi các yếu tố khác
không đổi thì thương mại giữa các quốc gia có quy mô GDP bình quân đầu
nguời cao thường là cao (Frankel, 1993).
- Dân s: Cho đến nay, trên phương diện lý thuyết, ảnh hưởng của dân
số đến hoạt động thương mại vẫn chưa được xác định một cách nhất quán.
Một mặt, dân số đông có thể khuyến khích phân công lao động và do đó cho
phép các ngành công nghiệp đạt được lợi thế theo quy mô. Và như vậy,
thương mại với các nước bạn hàng sẽ tăng lên. Điều đó có nghĩa là dân số có
tác động tỷ lệ thuận đối với xuất khẩu (Oguledo and Macphee, 1994). Mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
khác, quốc gia đông dân thường có diện tích tự nhiên lớn, và do đó sẵn có
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hiệu ứng hấp thu của thị trường trong nước làm

cho quốc gia này ít phục thuộc vào thương mại quốc tế. Do đó, dân số có tác
động tỷ lệ nghịch với quy mô xuất khẩu (Endoh, 2000). Chính vì vậy, dân số
có tác động tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch đối với thương mại hoàn toàn phụ
thuộc vào hiệu ứng nào vượt trội hơn (hiệu ứng lợi thế theo quy mô hay hiệu
ứng hấp thu).
- Khoảng cách về mặt địa lý giữa các quc gia: Trên thực tế, khoảng
cách về mặt địa lý giữa các quốc gia thể hiện chi phí thương mại, bao gồm chi
phí vận chuyển, chi phí về thời gian, chi phí bảo hiểm, tiếp cận thông tin về
thị trường. Tất cả các nhân tố này có tác động rất lớn đến thương mại.
Thương mại quốc tế diễn ra giữa các quốc gia càng xa nhau thì chi phí này
càng lớn. Chính vì vậy, các quốc gia thường có xu hướng ít trao đổi buôn bán
với đối tác thương mại ở xa. Nói cách khác, khoảng cách về mặt địa lý có tác
động tỷ lệ nghịch với kim ngạch xuất khẩu nói chung, và với kim ngạch xuất
khẩu nông sản nói riêng (Martinez-Zarzoso, 2003).
- Độ mở của nền kinh tế: Mặc dù thương mại quốc tế mang lại nhiều lợi
ích cho các quốc gia tham gia thương mại, nhưng trên thực tế không một quốc
gia nào cho phép hàng hoá và dịch vụ ra vào quốc gia mình một cách tự do.
Thông thường mỗi quốc gia đều có chính sách thương mại quốc tế riêng của
nước mình phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng nước. Để
can thiệp vào dòng chảy thương mại quốc tế, các quốc gia sử dụng nhiều biện
pháp và công cụ (thuế quan và rào cản phi thuế quan). Các rào cản này đã làm
cản trở đáng kể luồng hàng hoá và dịch vụ di chuyển giữa các quốc gia. Như
vậy, quốc gia có độ mở của nền kinh tế cao sẽ có xu hướng trao đổi buôn bán
và lệ thuộc vào thương mại nhiều hơn.
- Năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp: Trên phương diện lý
thuyết, nông sản sản xuất ra nhằm phục vụ tiêu dùng trong nước và thị trường
quốc tế. Nhìn chung, các quốc gia có năng lực sản xuất nông nghiệp cao sẽ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

xu hướng xuất khẩu nông sản sang thị trường thế giới nhiều hơn. Đây là điều
dễ hiểu, khi năng lực sản xuất vượt quá cầu trong nước thì các nhà sản xuất
phải tìm kiếm thị trường nước ngoài để xuất khẩu bán phần hàng hoá dư thừa
của mình. Đặc biệt, trong trường hợp xuất khẩu hàng nông sản, khi độ co giãn
cầu đối với thu nhập không cao, thì khi năng lực sản xuất tăng lên thường sẽ
vượt quá khả năng tiêu dùng trong nước. Như vậy, quốc gia này có xu hướng
xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường thế giới.
- Khi liên kết kinh tế: Trong những năm gần đây, môi trường kinh tế
quốc tế có nhiều thay đổi do xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế có nhiều mức
độ khác nhau như khu vực mậu dịch tự do (FTA), khu vực thống nhất thuế
quan, khu vực thị trường chung, Những xu hướng này có tác động đến hoạt
động xuất khẩu của các quốc gia theo hướng tạo ra sự ưu tiên cho nhau. Lý do
là khi thành lập khối liên kết kinh tế thì các quốc gia thành viên của khối liên
kết sẽ được hưởng ưu đãi về thuế quan và các rào cản trong quan hệ thương
mại nội khối. Chính vì vậy, việc tham gia khối liên kết kinh tế có tác dụng
thúc đẩy thương mại giữa các nước thành viên trong khối.
- Sự phát triển mnh mẽ của khoa học – công nghệ: Chính khoa học –
công nghệ hiện đại đã giúp các quốc gia tiết kiệm được nguyên vật liệu, sản
xuất các nguyên liệu thay thế và cho phép tái sử dụng nguyên vật liệu, từ đó
góp phần làm giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hóa. Trước đây, các nhà kinh tế học cổ điển thường xác
định lợi thế so sánh dựa trên những lợi thế về tài nguyên, nguồn lao động,
nhưng trong giai đoạn hiện nay, lợi thế cạnh tranh còn phụ thuộc rất lớn vào
cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ năng của người lao động. Nhờ đó, chúng ta
có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và chuyển dịch
cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ
bùng nổ đã đem lại nhiều cơ hội cho các quốc gia, đặc biệt là những nước
đang phát triển. Lợi thế của các nước đi sau là có thể đi tắt đón đầu, sử dụng
luôn công nghệ tiên tiến của các quốc gia phát triển mà không phải mất thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
gian, tiền của và công sức để phát minh. Điều đó dẫn đến xu hướng sản
phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, một số sản phẩm mới sẽ tham
gia vào việc xuất khẩu.
- Gía cả hàng hóa: là một nhân tố không chỉ tác động đến nền kinh tế
trong nước mà còn ảnh hưởng đến hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các
quốc gia trên thế giới. Gía cả hàng hóa được xem xét trên 2 khía cạnh: giá
thành sản xuất sản phẩm và giá bán. Gía thành sản xuất sản phẩm phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên, giá nguyên vật liệu đầu vào, giá nhân công, công
nghệ sản xuất để sản xuất ra sản phẩm đó. Sự khác biệt về giá cả và chi phí
tương đối là cơ sở của thương mại quốc tế. Một nước sẽ chuyên môn hóa sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà nước đó có khả năng sản xuất với chi
phí so sánh thấp nhất. Khía cạnh thứ hai cần xét đến là giá xuất khẩu. Căn cứ
để xác định giá xuất khẩu là giá thành sản phẩm, chi phí vận chuyển, lợi
nhuận doanh nghiệp có thể đạt được, thuế, phí và chi phí khác. Gỉa định các
yếu tố không đổi, giá xuất khẩu tăng thì tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng,
nếu giá xuất khẩu giảm thì tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm. Tuy nhiên
trên thực tế, nghiên cứu sự ảnh hưởng của giá xuất tới tổng kim ngạch xuất
khẩu phải xét tới sự ảnh hưởng của các yếu tố khác là sức cạnh tranh về giá
và chất lượng của sản phẩm đó với các sản phẩm cùng loại nhưng được sản
xuất ở các quốc gia khác, tỷ giá hối đoái,…
1.6. Vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với phát triển kinh tế
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một
bộ phận quan trọng, nó quyết định đến lợi thế của quốc gia trên trường quốc
tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và đẩy mạnh
việc xuất khẩu nói riêng là một mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia. Thực tế
đã chứng minh những nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật, Singapore,
Đài Loan… là những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. Do
vậy, xuất khẩu hàng hóa có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Một là, xuất khẩu để thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân
thanh toán. Kết quả của hoạt động ngoại thương sẽ được phản ánh trong
cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “cán cân thanh toán xuất – nhập
khẩu”. Kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của một quốc gia nên
nó tác động đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tăng xuất khẩu có thể
làm tăng GDP của một nước.
Hai là, xuất khẩu hàng hóa tạo điều kiện cho mỗi quốc gia có thể khai
thác tối đa lợi thế so sánh của mình. Khi tận dụng các lợi thế so sánh đó,
nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn nên khiến cho sự cạnh
tranh của hàng hóa được nâng cao, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Ba là, xuất khẩu hàng hóa tạo ra nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu công
nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu khác phục vụ cho việc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là con
đường tất yếu giúp cho các nước đang phát triển có thể thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn,
các nước đang phát triển phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị tiên tiến. Nguồn vốn phục vụ cho việc nhập khẩu này có thể được hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đó là: (1) Xuất khẩu hàng hóa; (2) Vốn đầu
tư nước ngoài; (3) Viện trợ, vay nợ… Trong đó thì các nguồn đầu tư nước
ngoài hay viện trợ vay nợ là nguồn chịu ràng buộc không những về kinh tế mà
còn về chính trị, chỉ có nguồn vốn xuất khẩu là nguồn quan trọng nhất, là
nguồn thu chính để quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Bn là, xuất khẩu hàng hóa đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của
xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là: (1) Xuất
khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do dư cung nội địa (sản xuất
trong nước vượt quá nhu cầu nội địa). Tuy nhiên, đối với các nước đang phát

triển thì việc sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước còn chưa đủ. Do đó,
xuất khẩu và thay đổi cơ cấu kinh tế rất chậm chạp. (2) Quan điểm này xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Theo đó, các nước
theo quan điểm này cần coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức
sản xuất. Điều này sẽ tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khi đó, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi. Ví dụ như ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ tạo điều kiện cho
ngành sản xuất nguyên liệu như bông, sợi, thuốc nhuộm… Đồng thời, xuất
khẩu sẽ tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ và khả năng cung cấp đầu
vào cho sản xuất.
Năm là, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân. Một mặt, khi xuất khẩu tăng mạnh kéo theo đó là
sự tăng lên của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu.
Đây chính là nơi thu hút một lực lượng lao động không nhỏ với thu nhập khá.
Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn là xuất khẩu có
tác động trực tiếp đến sản xuất làm tăng quy mô và tốc độ sản xuất, khi đó có
sự khôi phục ngành nghề cũ và sự gia tăng thêm ngành mới sẽ thúc đẩy quá
trình phân công lao động, tăng năng suất lao động và đời sống nhân dân
được cải thiện.
Sáu là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Hoạt động kinh tế đối
ngoại của một quốc gia bao gồm: (1) hoạt động ngoại thương; (2) hoạt động
hợp tác đầu tư và hợp tác khoa học công nghệ; (3) Hoạt động dịch vụ. Trong
đó, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động còn lại nên nó có tác động thúc đẩy
cho các quan hệ này phát triển.
1.7. Sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam

1.7.1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản và thị trường nông sản trên thế giới
a. Đặc điểm mặt hàng nông sản
- Các mặt hàng nông sản như: Gạo, ngô, lạc, đậu, cà phê, quế, cao
su là những hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất của mỗi quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
gia. Vì thế, đa số các nước trên thế giới đều trực tiếp hoạch định các chính
sách can thiệp vào sản xuất, xuất khẩu lương thực và nước nào cũng chú
trọng chính sách dự trữ quốc gia và bảo hộ nông nghiệp, coi an ninh lương
thực là vấn đề cấp bách.
- Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng có tính chiến lược,
Do vậy, đại bộ phận buôn bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện thông
qua hiệp định giữa các Nhà nước mang tính dài hạn.
- Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ.
- Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết.
- Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính
mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy, nó luôn là yếu tố đầu tiên được
người tiêu dùng quan tâm.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá
cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng
nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất
nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng
nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của
cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự
đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau.
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị
trường này, song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở

thị trường này, song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh
hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu,
thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp.
b. Thị trường nông sản thế giới
Trong thương mại quốc tế nói chung và trong xuất khẩu hàng nông sản
nói riêng, việc nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là rất quan trọng. Nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×