1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
DIỆP THỊ HUYỀN TRANG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO
TRYPANOSOMA EVANSI Ở TRÂU, BÒ TẠI THÁI NGUYÊN VÀ LẠNG SƠN VÀ PHÁC
ĐỒ ĐIỀU TRỊ HIỆU QUẢ
Chuyên ngành: Thú Y
Mã số: 60.62.50
LUẬN VĂN
THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên - năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nƣớc, trâu bò mắc bệnh thể cấp
tính thƣờng sốt cao 41
0
C - 41,7
0
C với các triệu chứng thần kinh nhƣ ngã quỵ, kêu
rống, đi vòng tròn… Trâu bò bệnh sẽ chết sau 7 - 15 ngày. Ở thể mãn tính, các triệu
chứng lâm sàng nhẹ hơn và bệnh kéo dài 1 - 2 tháng, con vật ngày càng gầy, da khô
mốc, niêm mạc mắt tụ máu màu đỏ tía, đôi khi có chấm máu, chảy nƣớc mắt và mắt
có nhiều dử đặc nhƣ keo, niêm mạc mắt vàng nhạt hay sẫm. Sức khoẻ suy yếu dần,
kém ăn, kém nhai lại, đi phân táo có lẫn máu hoặc đi tháo lỏng mùi thối khắm, có
khi con vật đi ỉa ra cả màng ruột, nát từng đoạn. Thƣờng thấy có thuỷ thũng ở hầu,
ức, nách, chân, háng. Trƣờng hợp bệnh nặng, con vật đột ngột sốt cao, bụng chƣớng
to rồi lăn ra chết.
Wuyts N. và cs. (1994) [66] cho biết, tại Đông Nam Á, bệnh tiên mao trùng
do Trypanosoma evansi là một trong những bệnh gây thiệt hại lớn về kinh tế cho
ngƣời chăn nuôi vì nó ảnh hƣởng đến sức khỏe của trâu, bò và lợn. Các triệu chứng
trong giai đoạn cấp tính gồm: sảy thai, rối loạn hệ thống thần kinh trung ƣơng và
thậm chí là chết; nhiễm bệnh thể mãn tính ảnh hƣởng lớn đến khả năng lao tác và
năng suất của vật nuôi.
Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [13], Phan Địch Lân (2004) [18],
Phan Văn Chinh (2006) [2], tỷ lệ mắc Trypanosoma evansi ở gia súc vùng núi và
trung du cao hơn các vùng đồng bằng và ven biển. Trong khi đó, ở nƣớc ta, chăn
nuôi gia súc nhai lại để cung cấp sức kéo, thịt, sữa lại tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền núi và trung du - là các vùng có điều kiện tự nhiên thích hợp cho sự phát triển
chăn nuôi gia súc nhai lại, nhƣng cơ sở hạ tầng phục vụ công tác chẩn đoán và điều
trị tại địa phƣơng còn lạc hậu đã dẫn tới hệ quả là bệnh tiên mao trùng trở nên phổ
biến hơn, nghiêm trọng hơn và gây thiệt hại lớn hơn.
Trong hai năm trở lại đây, ở Việt Nam đã phát hiện Trypanosoma spp. gây
bệnh cho ngƣời. Các nghiên cứu ban đầu cho thấy, loài Trypanosoma spp. gây bệnh
cho ngƣời có các đặc tính sinh học giống với Trypanosoma evansi gây bệnh cho gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
súc. Một số quốc gia trên thế giới nhƣ: Thái Lan, Ấn Độ đã xác định đƣợc
Trypanosoma evansi có khả năng gây bệnh cho cả ngƣời và gia súc. Việc thích nghi
và gây bệnh cho con ngƣời của Trypanosoma evansi, hay ngƣợc lại, việc thích nghi
và gây bệnh cho gia súc của Trypanosoma cruzi, Trypanosoma brucei… là hoàn
toàn có thể xảy ra.
Từ những phân tích ở trên về mức độ phổ biến và những thiệt hại do bệnh
tiên mao trùng gây ra trên vật nuôi ở Việt Nam, những biến đổi về dịch tễ bệnh có
thể tạo ra các chủng Trypanosoma spp. gây bệnh chung cho ngƣời và gia súc, những
khó khăn trong công tác chủ động phòng ngừa bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do Trypanosoma evansi ở trâu, bò tại
Thái Nguyên và Lạng Sơn và phác đồ điều trị hiệu quả”.
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
- Xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của bệnh tiên mao trùng trong điều
kiện chăn nuôi miền núi.
- Xác định phác đồ điều trị bệnh do Trypanosoma evansi có hiệu quả điều trị
khỏi bệnh đạt trên 98%.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ, và quy
trình phòng chống bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo ngƣời chăn nuôi áp dụng
quy trình phòng, trị bệnh tiên mao trùng; nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và thiệt hại do
T. evansi gây ra; góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi; thúc đẩy ngành chăn nuôi
trâu, bò phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Bệnh tiên mao trùng đƣợc Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở Việt Nam.
Sau đó, bệnh đƣợc xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nƣớc.
Bệnh do loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu, bò, ngựa mắc bệnh
dễ chết hoặc thiếu máu, suy nhƣợc, giảm hoặc mất khả năng sinh sản và sức sản xuất.
1.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại tiên mao trùng
1.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Levine và cs. (1980) (dẫn theo Lƣơng Văn Huấn và cs., 1997 [8]), vị trí
của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa) nhƣ sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Steel, 1885)
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài đƣợc tổ chức dịch tễ quốc tế
(OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho ngƣời và động vật có vú, đó là: T.
brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T. siminae, T. vivax.
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi đƣợc xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là một
tế bào, có kích thƣớc nhỏ, chiều dài 18 - 34 μm (trung bình là 25 μm), chiều rộng
1,5 - 2μm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân nhọn. Nhìn
chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống nhƣ cấu trúc của các loài tiên mao
trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ ngoài vào trong đƣợc chia
thành 3 phần chính:
- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ đƣợc chia làm 3 lớp (lớp ngoài
và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp vỏ ngoài
cùng đƣợc cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn biến đổi (Vanant Glycoprotein
Surface -VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo
chiều dài thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên
mao trùng có dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972 [44]; Phạm Sỹ Lăng, 1982
[13]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [5]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có
chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu sáng,
kinetoplast (thể cơ động), mitochrondrio, reticulum (lƣới nội bào) và mạng lƣới golgi.
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình trứng.
Nhân thƣờng nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể. Ngoài nhân, về
phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa ADN (KADN). Từ kinetoplast có một roi
chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể thành một roi tự do. Roi của
tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi
ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoare,
1972 [44]; Nguyễn Quốc Doanh,1999 [5]).
Tiên mao trùng di động đƣợc trong máu nhờ một roi tự do xuất phát từ phía
sau thân, chạy vòng quanh thân tạo thành một màng rung. Khi di động, roi tự do
vung ra phía trƣớc và màng rung chuyển động giúp cho tiên mao trùng di chuyển rất
nhanh trong máu của vật chủ (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2002 [15]).
Hình 1.1. Cấu tạo của Trypanosoma
A. Roi; B.Tổ hợp cytoskeleton; C. Nhân; D. Mitochrondrio; E. Thể cơ động kinetoplast;
F. Thể đặc; G. Túi tiên mao; H. Phần thân chính; L. Golgi; J. Lƣới nội sinh chất;
K. Màng rung; L. Chỗ tiếp xúc roi với màng rung; M. Chỗ tiếp xúc roi với thân.
(Nguồn: Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [11])
1.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của T. evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định (kháng
nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi trong
quá trình sống ký sinh. Bằng phƣơng pháp điện di miễn dịch huyết thanh thỏ tối
miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30 thành phần kháng
nguyên khác nhau. Ngƣời ta xác định có ba loại kháng nguyên không biến đổi ở
màng nguyên sinh chất tế bào (ISG: Invanant Surface Glycoprotein): ISG 65, ISG
75 và ISG 100. Do cấu trúc không gian ba chiều và đặc tính ƣa nƣớc, các loại này
không kết hợp với kháng thể của vật chủ.
* Kháng nguyên biến đổi
Cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG (Variant Surface Glycoprotein),
những quan điểm mới về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và
cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11], nhờ kháng thể đặc hiệu đƣợc đánh
dấu mà Vickerman và Luckins (1969) đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng
nguyên bề mặt. Cross (1975) đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên mao trùng có thành
phần là glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằng một lớp phân tử giống
nhau (mỗi tiên mao trùng có 10
7
phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ thể vật
chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi VAT (Variable
Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả năng kích thích vật chủ
tạo miễn dịch chủ động. Ngƣời ta ƣớc lƣợng rằng, một tiên mao trùng có ít nhất vài
trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5% - 10% số gen của tiên mao trùng cung cấp
cho kháng nguyên bề mặt này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng biến đổi
kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ. Tuy nhiên, Van
Meirvence (1995) [62] cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề mặt của ký sinh trùng
đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trƣớc khi xuất hiện đáp ứng miễn
dịch của cơ thể vật chủ). Theo Hajduc và Vickernlan (1981), hiện tƣợng biến đổi
kháng nguyên bề mặt của tiên mao trùng còn thấy ở gia súc đã bị tiêm thuốc làm
suy giảm miễn dịch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Weir et al (1986) [65] cho biết, glucoprotein chịu trách nhiệm về sự thay đổi
kháng nguyên của T. evansi. Cấu trúc kháng nguyên, đặc tính và chức năng của
glucoprotein bề mặt là khó hiểu nhất của một kháng nguyên ký sinh trùng. Giai
đoạn nhân lên của T. evansi ở trong máu dài hơn, còn giai đoạn Trypamasigote ngắn
ngủi. Sự nhân lên của T.evansi tiếp tục tới khi ký chủ có khả năng sản sinh kháng
thể làm ngƣng kết, tiêu tan T. evansi. Kháng thể xuất hiện đã làm số lƣợng T. evansi
giảm tụt xuống. T. evansi mới xuất hiện có tính kháng nguyên khác với tính kháng
nguyên của T. evansi xuất hiện lần đầu, ngay sau đó T. evansi đợt mới lại bị kháng
thể tiêu diệt, tới khi T. evansi phát triển giai đoạn thứ ba. Quá trình phát triển nhịp
nhàng của T. evansi và kháng thể của ký chủ đã làm T. evansi suy yếu và gây nên
thể bệnh mãn tính. Chu kỳ xuất hiện này thƣờng là 7 ngày. Sự thay đổi tính kháng
nguyên là do có sự thay đổi độ dày chất bề mặt của T. evansi.
Nishikawa H. và cs. (1990) [49] đã nghiên cứu kháng nguyên T. evansi ở
Thái Lan, bằng phƣơng pháp miễn dịch huỳnh quang thấy rằng, kháng nguyên T.
evansi không phản ứng chéo với Babesia bovis, Babesia bigemina, Anaplasma
maginale và Theileria sergenti ở hiệu giá 1:30.
Dome T.W. (1992) [42] khi so sánh các type kháng nguyên từ 15 chủng của
T. evansi phân lập từ các vùng khác nhau của Indonesia thấy, có 2 nhóm chính và 2
nhóm phụ, 4 nhóm có khác nhau về type kháng nguyên, các type kháng nguyên này
cũng giống nhƣ các type kháng nguyên phân lập từ Châu Phi và Nam Mỹ.
Những quan điểm này là hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện kháng
nguyên biến đổi của tiên mao trùng. Nhƣ vậy, quan điểm về sự biến đổi kháng
nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng cho đến nay vẫn chƣa thống nhất.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt (VSG),
làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy sự hoạt hoá
của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG đƣợc thay đổi hoàn toàn bằng
các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể đặc hiệu lúc trƣớc đã không còn tác dụng
đối với kháng nguyên mới này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Theo Barry J. D. và cs. (1991) [37], Vanhamme và cs. (1995) [63], các VSG
đƣợc mã hoá nhờ các gen chuyên biệt, từ kho chứa hàng nghìn các gen khác nhau,
một gen VSG đƣợc hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp ra một loại kháng
nguyên VSG. Mỗi bên VSG mới tạo ra một loại kháng nguyên VSG mới. Trong bộ
gen của tiên mao trùng tồn tại một số lớn gen VSG, các gen này sử dụng nhiều cơ
chế sắp xếp khác nhau, do vậy tiên mao trùng đã tạo ra nhiều VSG khác nhau ở gia
súc bị bệnh mãn tính. Cơ chế biến đổi kháng nguyên theo 2 cách: cách thứ nhất là
sử dụng lần lƣợt các điểm biểu hiện gen khác nhau, không có sự sắp xếp của ADN.
Các điểm biểu hiện khác nhau sẽ mang các gen VSG khác nhau, sự luân phiên này
dẫn đến sự thay đổi type kháng nguyên. Cơ chế này quan sát đƣợc chủ yếu ở giai
đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chƣa có đáp ứng miễn
dịch của vật chủ đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự
nhiên của các điểm biểu hiện gen này. Cách thứ hai là, tập hợp lại các đoạn ADN
khác nhau để tái tổ hợp gen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn
hoặc từng phần gen; hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi gen chứ
không phải dựa vào tái tổ hợp gen. Trƣờng hợp này đƣợc diễn giải nhƣ sau: một gen
hoạt hoá đƣợc thay thế bằng bản sao chép của một gen khác. Do có sự thay thế một
phần của gen nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trƣng.
1.1.2. Dịch tễ học bệnh T. evansi
1.1.2.1. Phân bố bệnh T. evansi
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông bán cầu.
Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ châu Phi cho đến
Philippine.
Theo Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nƣớc nhiệt đới ở
châu Phi, châu Á và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa mạc
Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique của Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi, Yêmen,
Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan, Pakistan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ, Malaysia,
bán đảo Đông Dƣơng, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã đƣợc thanh toán), hiện chỉ
còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu Úc cũng đã đƣợc xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2000 [52]).
Losos G. J. (1972) [45] cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ở châu
Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan, Lào,
Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái khác
nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng (1982) [13],
bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm bệnh với tỷ lệ cao và
thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng bằng nhiễm tiên mao trùng cao
hơn vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển
xuống vùng đồng bằng).
Theo Nguyễn Phƣớc Tƣơng (2002) [34], hai “bệnh ngủ” ở ngƣời bị lây
nhiễm bởi các ký sinh trùng máu của trâu bò là các bệnh tiên mao trùng do
Trypanosoma gambiense và Trypanosoma rhodesiense, thƣờng thấy nhất ở miền
Trung và miền Tây của Châu Phi.
Bệnh tiên mao trùng do Trypanosoma gambiense ở ngƣời do sự lây bệnh từ
trâu bò mắc bệnh này thông qua loài ruồi Glossina palpalis. Loài ruồi này hoạt
động vào ban đêm và chủ yếu sống bằng hút máu ngƣời, đồng thời chúng cũng hút
máu trâu bò từ 30% - 38% bữa ăn của chúng. Do đó truyền bệnh tiên mao trùng từ
bò sang ngƣời.
Bệnh tiên mao trùng từ trâu lây sang ngƣời do Trypanosoma rohodesiene
cũng có cơ chế truyền bệnh tƣơng tự. Bệnh thƣờng thấy ở vùng sa mạc Sahara -
Châu Phi gây ra những cơn ngủ liên miên, hồng cầu bị phá vỡ dẫn đến mất máu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
suy nhƣợc cơ thể mà chết.
Ở ngƣời, ngoài quá trình lây truyền qua loài ruồi Glossina palpalis, còn có
cơ chế truyền bệnh từ ngƣời sang ngƣời qua sữa, truyền máu hay mắc bệnh bẩm
sinh do lây truyền qua bào thai.
1.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền T. evansi
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và thú
hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hƣơu, nai, hổ, báo, sƣ tử, chó,
mèo, lạc đà, voi thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch , nhƣng không ký sinh ở ngƣời.
Sự lây truyền của bệnh tiên mao trùng là từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là
nhờ các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút máu
(thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả tiên
mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong khi hút máu sẽ truyền
tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này mang tính chất
cơ học. Nhƣ vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi giới truyền bệnh tiên mao
trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [16], (2004) [18], phần lớn các loài mòng tập
trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53 loài mòng thì có tới 44 loài phân bố
ở vùng rừng núi có độ cao dƣới 1.000 mét so với mặt nƣớc biển, càng lên cao số
loài càng ít dần (độ cao trên 1.000 mét chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thƣa,
độ cao không quá 500 mét so với mặt nƣớc biển) có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có
9 - 11 loài; vùng rừng núi ven biển phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ
biến ở tất cả các vùng là: Tabanus rubidus, Tabanus striatus, Chrysops dispar,
Chrysozoma assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus, Tabanus
fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nƣớc ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài phổ biến
ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài chỉ thấy ở
những vùng sinh cảnh đặc biệt là Bdellolarynx sanguinolentus (chỉ xuất hiện ở vùng có
độ cao dƣới 1000 mét), Stomoxys indica (chỉ thấy ở vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
Phan Địch Lân (2004) [18] cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm thấy hai loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
mòng Tabanus rubidus và Tabanus striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ 15,2% và
14,0%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với tỷ lệ 12,5%. Ở
những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và mòng hút máu dễ dàng
tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào vòi hút ruồi và mòng, tiên mao trùng
vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ
thứ 34, trung bình là 24 giờ. Sự hoạt động của tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ
35 - 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên mao trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời gian:
từ 1 - 34 giờ có hình thái, kích thƣớc bình thƣờng; 35 - 45 giờ: tiên mao trùng có
hình dạng thay đổi, tăng kích thƣớc chiều rộng và thô dần; 46 - 53 giờ: tiên mao
trùng trƣơng to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh, khả năng gây bệnh của tiên mao trùng sau khi
xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus nhƣ sau: thời gian từ giờ thứ 1 đến thứ 5, tiên
mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch tƣơng tự nhƣ khi truyền
thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6 đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột
thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo dài và thời gian chết của chuột cũng
dài. Điều này có thể giải thích là do độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số
lƣợng tiên mao trùng còn hoạt lực gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập
vào mòng Tabanus rubidus. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Phạm Sỹ
Lăng (1982) [13] cho rằng, thời gian xâm nhập của tiên mao trùng càng lâu thì tỷ lệ
gây bệnh càng giảm, điều này có thể do giảm số lƣợng và độc tính của T. evansi
trong máu của mòng Tabanus rubidus.
1.1.2.3. Đặc điểm sinh trưởng của T. evansi
Trong cơ thể vật chủ, Trypanosoma evansi ký sinh ở trong máu (ngoài hồng
cầu), đôi khi còn thấy chúng xuất hiện trong các tổ chức nhƣ gan, lách.
Trypanosoma evansi thực hiện sinh sản trong máu vật chủ bằng cách chia
đôi hay chia làm nhiều phần theo chiều dọc (trực phân theo chiều dọc) và theo cấp
số nhân, nên khi chúng xâm nhập vào vật chủ thì số lƣợng sẽ tăng lên rất nhanh
trong máu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Trong cơ thể vật chủ, tiên mao trùng tự nuôi dƣỡng bằng cách thẩm thấu các
chất dinh dƣỡng (đạm, đƣờng, chất béo, khoáng ) từ trong máu hoặc dịch thể vật
chủ để duy trì hoạt động sinh trƣởng và sinh sản, đầu tiên kinetoplast và nhân phân
chia trƣớc hình thành một cục roi mới, sau đó nguyên sinh chất phân chia.
1.1.2.4. Tuổi vật chủ, mùa mắc T. evansi
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao trùng và
đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhƣợc, thiếu máu, giảm sức đề
kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (2004) [18], đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu ở các tỉnh
đồng bằng và cho biết: trâu dƣới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2% - 6,l%), trâu 3 -
5 tuổi nhiễm cao hơn (10,6% - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9% -
14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006) [2], tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất ở 4 - 8
năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%) và thấp nhất là trâu, bò dƣới 3 năm tuổi (6,92%
và 2,31%).
Mùa lây lan bệnh thƣờng xảy ra nhiều nhất trong các tháng nóng ẩm, mƣa
nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Vì vào khoảng thời gian này, các điều kiện sinh thái
rất thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển. Đây là khoảng thời gian chúng hoạt
động bay đi hút máu, truyền bệnh tiên mao trùng vào cơ thể vật chủ mạnh nhất.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [15] cho biết, từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu
mùa xuân trâu, bò bị nhiễm tiên mao trùng. Theo tác giả, vào thời gian này, trâu, bò
phải làm việc nặng trong điều kiện thời tiết lạnh, thức ăn xanh thiếu nên sức đề
kháng của con vật giảm, dẫn đến tình trạng phát triển bệnh tiên mao trùng vào cơ
thể vật chủ mạnh nhất. Hiện tƣợng này vẫn xảy ra hàng năm ở các vùng chăn nuôi
trâu bò đàn cũng nhƣ các nông trƣờng nuôi bò sữa.
Theo Luckins A. G. (1988) [46], sự xuất hiện lƣợng lớn ruồi, mòng trong mùa
mƣa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trâu bò nhiễm tiên mao
trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu thức ăn nên sức đề kháng giảm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
bệnh thƣờng phát ra vào thời gian này và trâu bò bị đổ ngã hàng loạt.
1.1.2.5. Cơ chế sinh bệnh T. evansi
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2008) [10], khi vào máu vật chủ, tiên mao
trùng sinh sản bằng hình thức phân đôi theo chiều dọc nhiều lần, số lƣợng tăng lớn,
gây tắc mạch máu. Độc tố của tiên mao trùng vào, làm con vật trúng độc (độc tố
gồm chất độc tiết ra của tiên mao trùng, xác của chúng bị tan ra, những sản phẩm
của quá trình trao đổi chất). Độc tố làm rối loạn chức năng điều hòa thân nhiệt gây
sốt. Tiên mao trùng còn ngăn chức năng tạo hồng huyết cầu của lách, tủy xƣơng,
làm lƣợng hồng cầu giảm nhiều, máu nhạt, huyết sắc tố biến thành chất vàng của
mật (đảm sắc tố), ngấm vào cơ thể làm niêm mạc vàng.
Tiên mao trùng sinh sản nhiều còn làm tắc các mạch máu nhỏ, do các niêm
mạc bị tụ máu. Do tiên mao trùng làm tổn thƣơng thành mạch máu, huyết dịch xuất
ra ngoài nhiều sinh thủy thũng, dần dần máu chảy xuống vùng thấp. Huyết dịch
đông lại, một phần tổ chức biến thành mỡ, nên thủy thũng chứa chất đặc nhƣ keo.
Do hệ thần kinh bị trúng độc, con vật ốm, phát ra những triệu chứng thần kinh nhƣ:
run rẩy, bại liệt, cứng chân, làm trâu, bò điên cuồng trƣớc khi chết. Chất độc của
tiên mao trùng làm con vật ảnh hƣởng đến gan, làm chức năng dự trữ đƣờng của
gan giảm, trong khi cơ thể vẫn sử dụng đƣờng, ký sinh trùng cũng tiêu hao đƣờng,
nên lƣợng đƣờng trong máu giảm sút. Hồng cầu giảm sút, máu thiếu huyết sắc tố, vì
vậy axít tích lại trong máu gây nhiễm độc.
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của T. evansi
1.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu, bò, ngựa,
tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da. Theo Luckin A. G.
(1988) [46], có thể quan sát đƣợc phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm
thực nghiệm tiên mao trùng, kích thƣớc chỗ viêm phụ thuộc vào số lƣợng tiên mao
trùng đƣợc tiêm truyền (ƣớc chừng khoảng 10
8
tiên mao trùng có thể gây viêm da - ở vị
trí tiêm truyền), một số lƣợng lớn tiên mao trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong bạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia theo chiều dọc.
Số lƣợng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng nhƣ nhau. Mật độ tiên
mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng tiên mao trùng cho thấy, xen kẽ giữa
những sóng tiên mao trùng mạnh là những đợt sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao
trùng bắt đầu bằng sự tăng số lƣợng tiên mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó
phát hiện thấy tiên mao trùng. Mỗi đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu
hiện sự xuất hiện một quần thể tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới,
quần thể này có thể tiếp tục sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể xuất
hiện kháng thể đặc hiệu với chúng.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2008) [10], (2012) [11], tiên mao trùng
phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các chất đạm, chất béo và khoáng
chất trong máu ký chủ bằng phƣơng thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể để duy trì
hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh, trong 1 ml máu có thể có 10.000 - 30.000
tiên mao trùng. Với số lƣợng nhiều nhƣ vậy, tiên mao trùng chiếm đoạt dinh dƣỡng
nhiều, làm cho súc vật bệnh gầy còm, thiếu máu và mất dần khả năng sản xuất sữa,
thịt, mất dần khả năng sinh sản và giảm sức đề kháng với các bệnh khác.
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố Trypanotoxin, độc
tố này gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân trong quá trình sống và
độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân huỷ trong máu sau 15 - 30 ngày. Độc tố
của tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh trung ƣơng làm rối loạn trung khu điều
hoà thân nhiệt, gây sốt cao và gián đoạn (lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt
thƣờng có rối loạn về thần kinh (kêu rống, run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá
huỷ hồng cầu, ức chế cơ quan tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhƣợc dần.
Độc tố còn tác động tới bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm con vật ỉa chảy. Hội
chứng tiêu chảy thƣờng xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lƣợng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc các mao
mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ thũng chất keo
vàng dƣới da.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh T. evansi ở trâu, bò
Bệnh tiên mao trùng thƣờng biểu hiện ở hai thể là thể cấp tính và thể mãn
tính, tuy nhiên trong thực tế thƣờng gặp ở dạng mãn tính là chủ yếu.
+ Thể cấp tính: con vật vẫn béo tốt, đang đi làm đột nhiên bị ngã hoặc không
thể đi làm đƣợc nữa, sốt rất cao ở trâu, bò là 39
0
5 - 41
0
5, ở ngựa là 41
0
C - 42
0
C, con
vật thở mạnh. Lúc này nếu lấy máu kiểm tra sẽ phát hiện ra tiên mao trùng. Trong
lúc sốt và sau cơn sốt con vật có hiện tƣợng bỏ ăn, miệng cắn chặt, nƣớc bọt chảy ra
liên tiếp, đầu rủ xuống, nƣớc mắt và nhử mắt chảy rất nhiều, phân nhão có lẫn máu.
Sau cơn sốt con vật gầy đi rất nhiều, nếu không can thiệp kịp thì con vật co giật,
giẫy dụa và chết sau khoảng một vài giờ.
+ Thể mãn tính: triệu chứng ở trâu, bò nhiễm T.evansi thƣờng không rõ ràng,
chúng có hiện tƣợng chung là gầy yếu và chỉ đến khi thời tiết rét, thức ăn thiếu thốn,
với lao tác nặng nhọc làm giảm sức đề kháng thì bệnh mới biểu hiện lâm sàng rõ
ràng hơn. Lúc này con vật có biểu hiện sốt cách nhật, lông xù, mắt có nhử, giác mạc
viêm, hay chảy nƣớc mắt, vùng bụng và chân sau bị phù thũng. Ở một số trƣờng
hợp còn thấy trâu, bò bị sảy thai (Nguyễn Đăng Khải, 1995 [9]) càng về sau con vật
càng yếu dần và dễ bị kế phát các bệnh khác.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2008) [10], trâu, bò bị bệnh thể hiện các
triệu chứng lâm sàng chủ yếu nhƣ sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền tiên
mao trùng, trâu, bò thƣờng đột ngột lên cơn sốt (40
0
C - 41,7
0
C) kéo dài 2 - 4 ngày
rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa hai cơn sốt dài hay
ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu thƣờng thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện hội
chứng thần kinh nhƣ điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tƣờng, chạy vòng quanh
kêu rống lên. Trƣờng hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn ngƣợc rồi đổ ngã vật
xuống, sùi bọt mép giống nhƣ trâu bị cảm nắng. Sau 20 - 30 phút con vật lại đứng
dậy đi lại đƣợc. Những trâu bò mắc bệnh có triệu chứng lâm sàng nhƣ trên thƣờng
là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Trâu, bò bị bệnh mãn tính thƣờng kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân sau,
nằm tƣ thế quỳ và không đi lại đƣợc. Mặc dù nằm liệt nhƣng vẫn ăn và nhai lại cho
đến khi sắp chết.
- Phù thũng dƣới da: phù thũng thƣờng thấy ở vùng thấp của cơ thể nhƣ ở
bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu, bò
bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sƣng đỏ ngầu. Khi
khỏi bệnh, mắt có màng trắng (cùi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng, màu
vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp theo
những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thƣờng dai dẳng và
con vật vẫn ăn đƣợc.
- Gầy yếu, suy nhƣợc: ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ sau 7 -
14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh kéo dài thì
con vật gầy xơ xác, lông dựng ngƣợc, da khô nhăn nheo, niêm mạc mắt nhợt nhạt,
lông dễ rụng, dần dần suy nhƣợc cơ thể nặng, mất khả năng cày kéo và sinh sản.
Nếu gặp điều kiện bất lợi nhƣ thiếu ăn, rét mƣớt thì trâu, bò dễ chết. Trong thực tế,
có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm việc bình thƣờng khi đƣợc
chăm sóc nuôi dƣỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo Silva
Rams và cs. (1995) [54], số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng huyết sắc tố giảm, số
lƣợng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đổi: bạch cầu lymphô, bạch cầu ái
toan tăng nhƣng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và Albumin giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (1984) [14] cho biết, khi protein tổng số và Albumin
giảm thì các thành phần α, β và γ globulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
Theo Damayanti R. và cs. (1994) [39], trâu bệnh có những biểu hiện gầy yếu,
ủ rũ, kém vận động, bỏ ăn. Khối lƣợng cơ thể giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng (1982) [13] cho biết, đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm theo
dõi các triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng trên trâu, bò. Hytura F. và cs.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
(1949) cho biết, bò nhiễm T. evansi thể cấp tính có các triệu chứng lâm sàng nhƣ
sau: sốt cao gián đoạn, thiếu máu, suy nhƣợc, chảy nƣớc mắt, bại liệt chân sau, thủy
thũng dƣới mỏm ức và phần bụng sau. Một số trƣờng hợp bò nhiễm T. evansi thể
cấp tính chết nhanh, chỉ trong vòng vài ngày, một số trƣờng hợp kéo dài tới 6 tháng.
Theo Nguyễn Quốc Doanh và cs. (1997) [4], các triệu chứng lâm sàng chủ
yếu ở thỏ nhiễm T. evansi gồm:
- Thủy thũng tai (tai cụp xuống) ở ngày 25 - 52.
- Thủy thũng bẹn ở ngày 25 - 36.
- Thủy thũng mi mắt (mắt có nhử) ngày 26 - 52.
- Khó thở ở ngày 26 - 52.
- Phân nhão ở ngày 15 - 30.
1.1.3.3. Bệnh tích của T. evansi
Những trâu, bò bị mắc bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám
thấy có những biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: tim nhão,
xoang bao tim tích nƣớc vàng; phổi xuất huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan sƣng
to, nhạt màu; lách sƣng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sƣng và có tụ máu
trong hạch; cơ nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nƣớc; xoang ngực và xoang bụng
tích dịch màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dƣới vùng da thuỷ thũng
(Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [11]).
Nguyễn Quốc Doanh và cs. (1997) [4] cho biết, T. evansi gây cho thỏ một
thể bệnh toàn thân, khi mổ thỏ bệnh ở ngày 70 thấy bệnh tích đại thể nhƣ sau: bao
tim có dịch màu vàng; gan cứng; lách nhũn; phổi bám dính màu vàng, có vùng bị
khí thũng; một số khớp bị viêm, trong có dịch màu vàng.
Damayanti R. và cs. (1994) [39] đã gây nhiễm 10
5
T. evansi/trâu cho 6 trâu
tại Indonesia. Mổ khám trâu gây nhiễm ở tuần 1, 2, 3, 4, 8 và 12 sau gây nhiễm để
nghiên cứu bệnh lý. Bệnh tích đại thể gồm có: xuất huyết màng tim, viêm phổi,
viêm gan, lách sƣng phù, hạch bạch huyết sƣng to và tủy xƣơng tăng sinh. Bệnh tích
vi thể thấy rõ ở tuần 1 - 7 sau gây nhiễm, các tổn thƣơng đƣợc mô tả gồm: viêm
phổi kẽ, viêm cơ tim kẽ, hoại tử lách, viêm cơ và tăng sản sinh tủy xƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Nguyễn Quốc Doanh và cs. (1997) [4] cũng cho biết, bệnh tích vi thể ở thỏ
nhiễm T. evansi gồm:
- Vân các sợi cơ tim bị mờ rất khó nhận biết, bào tƣơng nở to, bị thoái hóa
dạng hốc và thoái hóa dạng hạt.
- Các xoang gan và tĩnh mạch dãn, tế bào gan thoái hóa mô rải rác, tế bào
Kupffer tăng sinh, tế bào Lympho và một số ống mật giãn, trong lòng ống phát hiện
ký sinh trùng.
- Lách: một số nang Lympho có xơ hóa, các xoang giãn có nhiều đại thực
bào, một số đại thực bào lớn có nhiều nhân, trong bào tƣơng đại thực bào chứa
hemosiderine ở các mức độ khác nhau.
- Thận: sung huyết, một số ống thận giãn.
1.1.4. Chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
1.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trƣng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
không phải lúc nào cũng phát hiện đƣợc. Rất nhiều gia súc mang bệnh nhƣng khó
phát hiện các triệu chứng đặc trƣng, nhất là đối với những gia súc mắc bệnh tiên
mao trùng mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính, các biểu hiện bệnh
đặc trƣng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên loạn) và chết nhanh. Trâu
bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu chứng: sốt gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo
dài, viêm giác mạc, phù thũng ở bụng và chân sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng,
1982 [13]). Triệu chứng sảy thai có thể thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng
(Nguyễn Đăng Khải, 1995 [9]).
1.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phƣơng pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí nghiệm,
mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng trƣờng hợp bệnh,
tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phƣơng pháp hoặc lựa chọn một
phƣơng pháp phù hợp và có độ chính xác, có thể áp dụng những phƣơng pháp sau:
* Phương pháp phát hiện T. evansi trực tiếp
- Phƣơng pháp xem tƣơi (Direct smear)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thƣờng xuất hiện trong mao quản ngoại vi; vì
vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tƣơi. Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến kính đã
có sẵn 1 giọt Natri citrat 3,8%; dùng góc của la men khuấy đều, đậy la men lên để
máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x
10 và 10 x 20) để phát hiện tiên mao trùng sống.
- Phƣơng pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phƣơng pháp giọt dầy: đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng một
góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đƣờng kính khoảng 1 - 1,25
cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng cồn Methanol, nhuộm
Giemsa [1 giọt Giemsa + 1 ml dung dịch PBS (Phosphat Buffered Saline) pH = 7,2]
trong 35 - 40 phút. Rửa tiêu bản dƣới vòi nƣớc chảy mạnh, để khô rồi soi dƣới kính
hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Phƣơng pháp này có nhƣợc điểm là dễ làm tổn thƣơng tiên mao trùng, do đó
khó phân biệt đƣợc các loài khác nhau trong trƣờng hợp nhiễm nhiều loài tiên mao
trùng cùng một lúc.
+ Phƣơng pháp giọt mỏng: đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2 cm, dùng
la men ria máu thành một lớp mỏng. Để khô, cố định bằng cồn Methanol trong 2
phút. Nhuộm Giemsa trong 25 phút (l giọt Giemsa + 1 ml dung dịch PBS pH = 7,2).
Rửa tiêu bản dƣới vòi nƣớc chảy mạnh, để khô, soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại
10 x 100 hoặc 10 x 90).
Ƣu điểm của phƣơng pháp giọt mỏng là có thể phân biệt đƣợc hình thái các
loài tiên mao trùng khác nhau.
* Phương pháp tập trung T. evansi
Ngƣời ta đã sử dụng phƣơng pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng bằng ống
Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng bằng gen DEAE - cellulose.
- Phƣơng pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit: cho máu động vật
nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống đƣợc bịt kín bằng chất dẻo matit,
một đầu ống để hở. Ly âm với tốc độ 14.000 vòng/phút trong 5 phút. Sau đó kiểm
tra sự tập trung của tiên mao trùng tại vị trí tiếp giáp giữa huyết tƣơng và hồng cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
(độ phóng đại 10 x 10).
Phƣơng pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phƣơng pháp
xem tƣơi và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chƣa cao.
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phƣơng pháp Darkground: dùng
cƣa y tế cắt ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết tƣơng và
hồng cầu), nhỏ 1 giọt huyết tƣơng lên phiến kính, đậy la men và kiểm tra dƣới kính
hiển vi (độ phóng đại 10 x 40).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm
Đây là phƣơng pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thƣờng đƣợc ứng dụng
nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Phƣơng pháp này có ƣu điểm
là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao trùng sau khi nhân chúng lên trong
động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhƣợc điểm của phƣơng pháp tiêm truyền
động vật thí nghiệm là khi cần chẩn đoán nhanh, với số lƣợng nhiều và thời gian
ngắn thì phƣơng pháp này không thể đáp ứng đƣợc (Lê Ngọc Mỹ, 1994 [21]; Đoàn
Văn Phúc và cs., 1994 [24]).
* Phương pháp huyết thanh học chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
Bằng phƣơng pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc kháng
nguyên tiên mao trùng. Đây là các phƣơng pháp huyết thanh học đặc hiệu.
* Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu chống
lại tiên mao trùng. Những phƣơng pháp sau cho phép phát hiện kháng thể kháng
tiên mao trùng trong máu vật chủ:
- Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination Test)
Theo Đoàn Văn Phúc (1989) [23], Lê Ngọc Vinh (1992) [35], phƣơng pháp
đƣợc tiến hành nhƣ sau: hoà tan 1 giọt huyết thanh trâu, bò nghi mắc bệnh vào 1
giọt nƣớc muối sinh lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều
tiên mao trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 200
- 400 lần). Nếu thấy ngƣng kết hình hoa cúc là (+) và ngƣợc lại là (-). Phƣơng pháp
này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
- Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test)
LATEX là phƣơng pháp đƣợc dùng để phát hiện kháng thể lƣu động có
trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phƣơng pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T. evansi
gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng ở trên bản
nhựa, thì sẽ xảy ra phản ứng ngƣng kết giữa kháng nguyên với kháng thể. Hiện
tƣợng ngƣng kết có thể quan sát đƣợc bằng mắt thƣờng và đƣợc giải thích là do
kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng đƣợc gắn lên các hạt latex là loại kháng
nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết định tính kháng nguyên bề mặt (epitop
surface). Còn kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể
(receptor) tƣơng ứng, đặc hiệu với các điểm quyết định của kháng nguyên. Do đó,
khi kháng nguyên tiên mao trùng gặp kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ
có hiện tƣợng một phân tử kháng thể đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng
nguyên và ngƣợc lại. Kết quả là các hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo
thành đám ngƣng kết có thể quan sát bằng mắt thƣờng. Kháng nguyên dùng cho phản
ứng là kháng nguyên bề mặt đƣợc tinh chế từ chủng T. evansi không nhuộm màu.
Phƣơng pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể ứng
dụng ở cơ sở. Tuy nhiên, tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phƣơng pháp này cho
kết quả dƣơng tính cả khi con vật khỏi bệnh nhƣng vẫn còn kháng thể tồn tại trong
huyết thanh. Mặt khác, đối với những súc vật mới nhiễm bệnh tiên mao trùng trong
huyết thanh chƣa có kháng thể nên khi kiểm tra bằng phƣơng pháp LATEX sẽ cho
kết quả âm tính.
- Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phƣơng pháp ngƣng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng thể
trên bản nhựa, đƣợc dùng để phát hiện kháng thể lƣu động trong máu động vật
nhiễm bệnh.
Nguyên lý: kháng nguyên tiên mao trùng đã đƣợc nhuộm màu kết hợp với
kháng thể tạo thành những đám kết tủa li ti màu xanh.
Cách tiến hành: dùng ống hút 2,5 ml dung dịch Buffer cho vào lọ kháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
nguyên chuẩn đã đƣợc nhuộm màu (CATT reagent), lắc đều. Cho vào lọ kháng
nguyên đối chứng (đối chứng dƣơng, đối chứng âm) mỗi lọ 0,5 ml dung dịch buffer,
lắc đều. Dùng micropipette pha loãng huyết thanh theo tỷ lệ cần chẩn đoán (1/8).
Cho các mẫu huyết thanh cần chẩn đoán đã đƣợc pha loãng lần lƣợt vào các vòng
tròn của bản CATT, cho kháng nguyên đối chứng vào hai vòng tròn khác của bản,
mỗi loại 1 giọt (tƣơng đƣơng 45µl). Sau đó cho vào tất cả các vòng tròn trên bản
CATT 1 giọt kháng nguyên chuẩn. Dùng que nhựa trộn đều. Cuối cùng cho lên máy
lắc 5 phút (60 - 70 lần/ phút) và đánh giá kết quả.
Ứng dụng phƣơng pháp CATT ở Việt Nam để chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng, Lƣơng Tố Thu và cs. (1996) [32] cho biết, phƣơng pháp này dễ sử dụng, có
độ nhạy, độ đặc hiệu cao. Theo tác giả ứng dụng IFAT chẩn đoán các mẫu thu thập
ở địa phƣơng cho độ nhạy của CATT gần gấp đôi phƣơng pháp tiêm truyền chuột
bạch (CATT 73,75%; tiêm truyền chuột bạch 100%).
- Phương pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect
Fluorescent Antibody Test)
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao, đƣợc
ứng dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa. Ngoài việc đƣợc dùng làm
phản ứng chuẩn để so sánh với các phƣơng pháp huyết thanh khác, phƣơng pháp
IFAT còn đƣợc dùng trong nghiên cứu các dòng kháng nguyên, phát hiện kháng thể
(Luckins, 1988 [46]; Davison, 1999 [40]).
Trong phƣơng pháp IFAT, huyết thanh dƣơng chuẩn đƣợc lấy từ trâu bò
mắc bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn đƣợc lấy từ trâu bò khoẻ mạnh,
huyết thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.
Ứng dụng phƣơng pháp này ở Việt Nam, Lƣơng Tố Thu và cs. (1996) [32]
đã chế tạo conjugate huỳnh quang trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn đoán bệnh
tiên mao trùng. Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho phản ứng là 1/8 và
huyết thanh chuẩn pha loãng ở 1/40. Kết quả cho thấy, độ nhậy của phƣơng pháp
IFAT là 71,25.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
quang gián tiếp chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở trâu bò, Vƣơng Thị Lan Phƣơng
(2004) [25] đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi phân lập từ trâu, bò ở 6
tỉnh phía Bắc Việt Nam và cho biết, đã thu đƣợc 6 mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh, tiến
hành phân dòng, phân VAT (Variable Antigenic Type) và thu đƣợc 26 VAT thuộc 6
kho kháng nguyên khác nhau. Bằng phản ứng dung giải miễn dịch và phƣơng pháp
thấm miễn dịch, tác giả đã xác định đƣợc sự thay đổi kháng nguyên bề mặt của T.
evansi: đa số các VAT của các kho kháng nguyên khác nhau là khác nhau, chỉ có 8
VAT/26 VAT có hiệu giá kháng thể đơn giá đặc hiệu, có phản ứng chéo với các
VAT của các kho kháng nguyên khác. Các VAT trội xuất hiện sớm trong 4 tuần lễ
đầu nhiễm bệnh, có tính kháng nguyên mạnh có thể nghiên cứu ứng dụng chế kháng
nguyên chẩn đoán. Từ đó, tác giả đã tinh chế kháng nguyên theo phƣơng pháp tách
tiên mao trùng để dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, chẩn đoán
bệnh tiên mao trùng cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
- Phương pháp ELISA (Enzym Linked Immunosorbent Assay)
Phƣơng pháp ELISA là một trong những phƣơng pháp hiện đại nhất đƣợc
ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng kháng
thể) có mang một enzym (Phosphatase hoặc Peroxydase) đƣợc gắn trên mảnh Fc,
cho kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với kháng nguyên. Sau đó, cho cơ chất sinh
màu vào, cơ chất sẽ kết hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo nên màu. So sánh
với màu của quang phổ kế sẽ định lƣợng đƣợc mức độ của phản ứng.
Phƣơng pháp ELISA hiện đang đƣợc sử dụng rộng rãi ở các nƣớc trên thế
giới. Ở Việt Nam, Lê Ngọc Mỹ và cs. (1994) [21] đã bƣớc đầu chế kháng nguyên
tiên mao trùng và ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở nƣớc ta.
Trần Đức Hạnh và cs. (2009) [6] đã ứng dụng phƣơng pháp ELISA chẩn
đoán tiên mao trùng trâu bò tại huyện Phổ Yên – tỉnh Thái Nguyên cho thấy, quy
trình ELISA đƣợc sử dụng kháng nguyên bề mặt với nồng độ kháng nguyên phủ đĩa
1µg/ml, nồng độ huyết thanh pha loãng 1/400, nồng độ pha loãng conjugate
1/40000 cho kết quả chẩn đoán tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
+ Phương pháp sinh học phân tử (Polymerase Chain Reation)
Phƣơng pháp sinh học phân tử đƣợc coi là phƣơng pháp hiện đại nhất trong
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng. Vào năm 1987, Muliis và cs. đã thiết lập các phản
ứng trong chẩn đoán bệnh tiên mao trùng. Nguyên lý của phản ứng này là dựa vào
sự có mặt của primer đặc hiệu để xác định sự có mặt của ADN của tiên mao trùng
có trong máu động vật nhiễm bệnh. Phƣơng pháp này có đặc điểm là độ nhạy và độ
chính xác cao. Tuy nhiên để thực hiện đƣợc đòi hỏi phải có trình độ cao và trang
thiết bị hiện đại, do đó nó vẫn chƣa đƣợc áp dụng rộng trong chẩn đoán bệnh tiên
mao trùng.
1.1.5. Phòng trị T. evansi cho trâu, bò
1.1.5.1. Phòng bệnh
Để phòng ngừa bệnh tiên mao trùng có hiệu quả cao, các nhà khoa học đã đề
nghị áp dụng 3 biện pháp sau:
* Diệt tiên mao trùng trên cơ thể ký chủ
Diệt tiên mao trùng ký sinh ở vật chủ không những ngăn chặn đƣợc tác hại gây
bệnh của chúng mà còn làm cho bệnh mất khả năng lây lan. Các biện pháp cụ thể là:
- Phát hiện gia súc nhiễm tiên mao trùng ở vùng có bệnh và những vùng lân cận,
nhốt riêng trong chuồng có lƣới để ngăn côn trùng và điều trị triệt để cho gia súc bệnh.
- Ở những vùng không có bệnh thì không nhập gia súc từ vùng có bệnh về.
Nếu thật cần thiết thì chỉ nhập những gia súc khoẻ (có kết quả kiểm tra âm tính với
tiên mao trùng), song vẫn cần nhốt riêng để theo dõi. Nếu không bị bệnh mới cho
nhập đàn. Phát hiện và diệt những loài thú hoang nghi là nguồn tàng trữ mầm bệnh,
hoặc không chăn thả gia súc trong những khu vực có những loài đó sinh sống.
* Diệt côn trùng môi giới truyền bệnh
Diệt côn trùng bằng thay đổi sinh thái nhƣ là thay đổi điều kiện sống, làm
cho côn trùng không sinh sản, không thực hiện đƣợc chu kỳ phát triển.
Phát quang cây cối ở từng khu vực, không để nƣớc tù đọng, ủ phân để diệt
trứng và ấu trùng ruồi, mòng, làm chuồng gia súc có lƣới ngăn côn trùng là các
biện pháp hữu hiệu, tạo ra những điều kiện bất lợi cho đời sống của côn trùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên