Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu đặc tính nông sinh học và kỹ thuật nhân giống cây lê tại tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 99 trang )


1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN THỊ PHƢƠNG OANH






NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH NÔNG SINH HỌC
VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG CÂY LÊ
TẠI TỈNH CAO BẰNG









LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. GS.TSKH ng







THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lê là cây ăn quả ôn đới quan trọng, thường trồng ở các vùng ôn đới có khí
hậu lạnh. Quả lê có giá trị cao bởi trong thịt quả chứa nhiều chất dinh dưỡng, kết
quả phân tích trong quả lê chín có chứa 9,44% đường tổng số; 0,4% axit nitric;
14,9mg/100g vitamin C; phần ăn được chiếm 89,88%, theo (Võ Văn Chi, 1997)
[4; 668] thì công dụng chính của lê là ăn quả, quả khô dùng làm thuốc trị lỵ, quả
tiêu thử, kiện vị, thu liễm, ngoài ra quả lê còn có một số đặc điểm và tác dụng
như sau: quả lê có vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt, nhuận táo, sinh
tân chỉ khát. Nhà học giả Lê Quý Đôn từ thế kỷ 18 [7] đã viết: “đi đường khát
nước và mỏi mệt, được ăn mấy quả lê thấy đỡ ngay, lúc bấy giờ nghĩ là uống
nước Quỳnh tương, Ngọc dịch cũng không hơn gì, mía và chuối so với lê thì chỉ
là hạng đầy tớ, tay gọt vỏ lê suốt ngày thấy hương thơm’’. Tại một số nước ở
Châu Âu quả lê dùng chủ yếu để ăn tươi, sấy khô, làm nước quả. Ở nước ta
quả lê chủ yếu được dùng để ăn tươi, ngoài ra ở một số nơi còn phơi khô
ngâm rượu, hoặc muối chua sử dụng làm thực phẩm thay rau xanh lúc giáp
vụ Quả lê khi chín kỹ thịt quả màu trắng, ăn giòn vị ngọt mát và đặc biệt có

mùi thơm rất hấp dẫn, trong nhân dân còn gọi lê là "quả 7 vị 5 mùi".
Trên thế giới có khoảng 78 nước trồng lê, được trồng nhiều nhất ở châu
Âu, châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương. Trên thế giới Nga, Braxin, Đức, Pháp,
Trung Quốc và các nước vùng Địa Trung Hải rất chú trọng tới việc trồng lê, ở
những nơi đó được trồng chủ yếu là những giống lê ngon và có giá trị kinh tế.
Cao Bằng là tỉnh miền núi phía Bắc, có rất nhiều tiềm năng về đất đai và
khí hậu thích hợp với nhiều loại cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới
như: hạt dẻ, lê, mơ, mận, đào, cam, quýt… trong đó có cây lê là loại cây ăn quả
đặc sản, mang lại hiệu quả kinh tế cao, là cây ăn quả đã gắn liền với đời sống của
đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên ở Cao Bằng cây lê chỉ được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
trồng phân tán, nhỏ lẻ trong các vườn hộ gia đình, trồng trọt chủ yếu theo lối
quảng canh không được chăm sóc nên dẫn đến những giống lê quý đang có nguy
cơ bị thoái hoá, làm cho năng suất, chất lượng giảm sút. Đồng thời kỹ thuật nhân
giống lê của người dân vẫn còn đơn giản nên hệ số nhân giống không cao, chưa
có nhiều cây giống tốt phục vụ cho việc phát triển lê tại Cao Bằng.
Để khắc phục những hạn chế trên cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề, đó
là điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình sản xuất lê và khả
năng thích ứng của các giống lê đối với từng vùng sinh thái, nghiên cứu nhân
giống vô tính thích hợp đối với cây lê để nhân nhanh những giống lê có triển
vọng và phát triển mở rộng diện tích. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc tính nông sinh học và kỹ thuật nhân giống cây lê tại
tỉnh Cao Bằng”.
2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu
-Xác định các dạng lê hiện được trồng ở Cao Bằng, những thuận lợi và
khó khăn của việc trồng lê

- Nghiên cứu đặc tính nông sinh học của một số giống lê được trồng tập
trung tại một số vùng ở tỉnh Cao Bằng.
- Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống lê ở một số thời vụ.
2.2. Yêu cầu
- Điều tra, đánh giá thực trạng và xác định yếu tố hạn chế trong sản xuất lê
của tỉnh Cao Bằng.
- Nghiên cứu đặc tính nông sinh học của các dạng lê phải đại diện và đủ
dung lượng mẫu cần thiết
- Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống lê cần bố trí ở nhiều thời vụ khác nhau

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
3.1. Ý nghĩa khoa học
Các kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho việc chọn lọc các dạng lê có
năng suất cao và phẩm chất tốt phù hợp cho sản xuất đồng thời nghiên cứu
một số biện pháp kỹ thuật nhân giống lê, nhằm tạo ra nhanh những giống lê
tốt góp phần nâng cao diện tích, năng suất và chất lượng lê cho Cao Bằng.
Mặt khác còn là tài liệu tham khảo cho các nhà làm vườn, các hộ gia đình, cán
bộ khuyến nông, các nhà khoa học nông nghiệp nghiên cứu những vấn đề về
chọn tạo, nhân giống lê và là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về cây lê ở
Cao Bằng và các tỉnh miền núi phía Bắc.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần giúp tỉnh Cao Bằng xác định thực trạng về tình hình sản
xuất lê, làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch phát triển cây lê và lựa chọn
ra được những dạng lê tốt, phục vụ cho việc sản suất lê thực sự có hiệu quả,
góp phần đa dạng hoá sản phẩm, tạo việc làm cho người lao động, tăng thu
nhập và từng bước nâng cao đời sống của đồng bào vùng cao.
- Xác định biện pháp nhân giống lê bằng phương pháp ghép cành để áp

dụng rộng rãi trong công tác nhân giống, nhằm nâng cao tỷ lệ sống sau ghép
và tạo ra số lượng lớn những cây con có đủ tiêu chuẩn, chất lượng cao đưa ra
sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Cơ sở khoa học của việc điều tra nghiên cứu cây lê
Cao Bằng là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, với điều
kiện khí hậu, sinh thái cũng như những đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã
hội mà đồng bào các dân tộc nơi đây sống chủ yếu dựa vào nghề nông lâm
nghiệp, điều này đã cho phép nghề trồng cây ăn quả phát triển rất rộng. Hơn
nữa Cao Bằng nằm ở độ cao so với mặt nước biển trung bình từ 600 - 1000m,
khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất 35
0
C, thấp nhất 0
0
C,
mùa đông nhiệt độ trung bình từ 5-6
0
C lạnh nhất là vào tháng 1, lượng mưa
trung bình 1.500mm, cùng với diện tích đất đai dồi dào đã cho phép Cao Bằng
có rất nhiều tiềm năng thích hợp với việc phát triển các loại cây ăn quả ôn đới,
trong đó có cây lê. Lê được trồng ở Cao Bằng từ rất lâu đời, ít nhất cũng phải
trên 100 năm trở về trước, chưa có tài liệu nào đề cập tới nguồn gốc cây lê ở
nơi đây, chỉ qua công tác điều tra phỏng vấn trực tiếp những cụ già trên 90 tuổi

ở các huyện Trà Lĩnh, Hà Quảng cho thấy, khi lớn lên đã nhìn thấy cây lê cao
chừng 10-11m. Điều này chứng tỏ cho thấy lê là cây ăn quả đặc sản và có khả
năng thích ứng cao với điều kiện sinh thái của Cao Bằng. Đây là tiền đề cơ bản
có thể mở rộng diện tích và phát triển cây lê với qui mô lớn tiến tới sản xuất
hàng hoá đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tập đoàn cây ăn quả tại Cao Bằng khá phong phú và đa dạng như: dẻ,
nhãn, vải, lê, cam, quýt, chuối, dứa… nhưng lê chỉ đứng ở vị trí thứ 3 sau dẻ
và mác mật [18]. Thực tế qua công tác điều tra, nghiên cứu chúng tôi thấy
mặc dù lê là cây ăn quả đặc sản quan trọng như vậy, song từ trước đến nay kỹ
thuật nhân giống, kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản chưa
được chú ý và áp dụng đúng, dẫn đến hiệu quả kinh tế từ cây lê đem lại thực
sự chưa phát huy hết được những tiềm năng, thế mạnh sẵn có. Vì vậy việc
điều tra, nghiên cứu về cây lê là rất cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
1.2. Nguồn gốc, phân loại lê
1.2.1. Nguồn gốc
Nguồn gốc của cây lê đã có khá nhiều tác giả đề cập tới và có nhiều ý
kiến khác nhau. Theo Bành Kính Ba và các cộng sự (1991) [1] khi nghiên
cứu về nguồn gốc của cây lê đã kết luận là lê bắt nguồn từ vùng núi phía Tây
Nam của Trung Quốc, tác giả còn cho biết ở Trung Quốc lê được trồng ở hầu
hết các tỉnh, chỉ trừ những vùng quá lạnh giá và quá khô hạn. Lê được trồng
tập trung và nhiều nhất ở phía Bắc, Đông Bắc và phía Đông.
Djukovxki P. M (1971)[31] lại cho rằng: nguồn gốc của cây lê là ở Hy
Lạp, vì tại đây đã có mặt cây lê dại cách đây 1000 năm trước công nguyên, cụ
thể có giống lê dại Pyrus nivalis là nguồn nguyên liệu được thuần hóa trồng ở
vườn nhà vùng Địa Trung Hải. Dẫn theo tài liệu của Ăngđrây Fêdôrốp thì
Djukovxki P. M đã chỉ ra các trung tâm khởi nguyên về loài bao gồm: trung
tâm Đông Á, cầu nối giữa vùng Đông Á và Trung Á là các loài Pyrus ở

Himalaya, Caucuse và các vùng gần đó là Iran và các nước vùng Tiểu Á là
vùng khởi nguyên quan trọng có nhiều thành phần loài. Trung tâm khởi
nguyên thứ 2 là Krưm và vùng phía đông bán đảo Balkan, Châu Âu là trung
tâm của giống lê dại P.Communis. Các giống lê trồng nổi tiếng trên thế giới
được tạo ra từ các giống lai giữa P. Communis và P.Nivalis. Cây lê được trồng
ở Liên Xô (cũ) từ rất sớm, trong đó Trung tâm cây ăn quả trên đất châu Âu là
Ycrain. Nhà cây ăn quả Nga ở cuối thế kỷ 18 Bôlôtôva A.T đã mô tả 39 giống
lê và nửa cuối thế kỷ 19 vườn thực vật Nikitxki ở Krưm đã có 1 tập đoàn các
giống lê rất lớn đến 550 giống.
Nguồn gốc của cây lê ở Việt Nam đã có một số tác giả đề cập tới. Theo
(Võ Văn Chi, 1997) [4,168] thì lê ở nước ta là lê Pyrus pyrifolia Nakai, cây
được nhập từ Trung Quốc vào trồng ở những vùng núi cao miền Bắc Việt
Nam như: Cao Bằng, Lạng Sơn Cây trồng chủ yếu để lấy quả ăn tươi và quả
khô dùng để làm thuốc chữa bệnh. Các tác giả (Nguyễn Văn Phú, Trần Thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Tục, 1969) [17,110] khi điều tra về cây ăn quả ở một số tỉnh miền núi phía
Bắc đã cho rằng các giống lê ở Cao Bằng đều thuộc dòng họ Salê (Pyrus
pyrifolia Nakai) và đều có nguyên sản từ vùng Tây Nam Trung Quốc, cho đến
nay thì cây lê được trồng khá phổ biến ở các vùng cao thuộc các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta.
1.2.2. Phân loại
Lê thuộc chi Pyrus. Nhóm Pyrus gồm có:
- Lê châu Âu P.communis bao gồm có các giống: Clapps favorite,
Comise, Harraw delight…chúng yêu cầu có đơn vị lạnh CU từ 600 – 1400 và
có khả năng chống chịu bệnh đốm lá ở mức trung bình, nhưng có ưu điểm là
đạt năng suất cao, chất lượng quả tốt.
- Lê châu Á P. pyrifolia bao gồm có:
+ Lê Nhật Bản có những giống như: Chojuro, Hosui, Kikusui, Shinko,

Shinsui. Chúng yêu cầu có đơn vị lạnh CU từ 400 – 900.
+ Lê Trung Quốc gồm có giống: Tsuli, Yali những giống này yêu cầu
đơn vị lạnh CU từ 300 – 450.
Cả giống lê Trung Quốc và Nhật Bản đều có khả năng chống chịu tốt
đối với bệnh đốm lá.
Theo (Rubtsov. G, 1994) [37] dựa vào một số đặc điểm của quả như số
tử phòng (ô) đài quả còn dính lại hoặc đã rụng, màu sắc vỏ quả và răng cưa ở
lá đã phân loại các giống lê Trung Quốc thành 3 nhóm giống:
1. Nhóm đại diện chính (Eupyrus Kikuchi) bao gồm:
- Thu tự lê P. ussuriensis maxim, mọc dại ở Đông Bắc, Hoa Bắc, Nội
Mông Cổ, Tây Bắc Trung Quốc, Bắc Triều Tiên.
- Bạch lê P. bretschneideri Rehd, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Hà Bắc,
Sơn Đông, Liễu Ninh, Sơn Tây; ngoài ra các tỉnh Hoa Bắc, Tây Bắc và một số
địa phương khác vùng lưu vực sông Hoàng Hà đều có trồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Sa lê P. pyrifolia Nakai phân bố chủ yếu ở vùng lưu vực phía nam
sông Trường Giang, ngoài ra ở Nhật Bản và Triều Tiên cũng có trồng.
- Lê Tân Cương P. sinkiangensis Yu, phân bố ở Tân Cương, Cam túc,
Thanh Hán, Ninh Hạ
- Lê Châu Âu P. communis Linn, cây dại phân bố vùng Tiểu Á và phía
Bắc Iran.
2. Nhóm Đổ đường lê (Micropyrus Kikuchi) gồm:
- Lê hạt đậu P. callryana Done, mọc dại ở các tỉnh Hoa Trung, Hoa
Đông, Hoa Nam, Tây Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Là cây làm gốc ghép chủ
yếu cho Salê ở Hoa Trung.
- Đổ lê P. betulaefolia Bge, dung làm gốc ghép cho lê ở các tỉnh phía
Bắc Trung Quốc.
3. Nhóm giống trung gian ( Intermedia Kikuchi) gồm có 8 loại:

P. pashia Buch . Ham, P.pseudopashia Yu, P. serrulata Rehd…trong
số này phần lớn quả nhỏ, hạt quả thô, có vị chat, ít có giá trị sử dụng và ý
nghĩa kinh tế thấp.
Tác giả (Lưu Chí Dân và cộng sự, 1998) [6], khi nghiên cứu phân vùng
các nhóm giống lê của Trung Quốc: Bạch lê, Thu tự Lê, Sa lê, Lê Châu
Âu…cho rằng các nhóm giống Sa lê có khả năng thích nghi với điều kiện
nhiệt độ cao và ẩm độ cao hơn các nhóm giống khác. Vùng thích nghi của Sa
lê là ở Giang Nam có nhiệt độ và ẩm độ cao bao gồm phía Nam sông Hoài,
các tỉnh phía Nam sông Trường Giang, nhiệt độ bình quân năm 15 – 23
0
C,
nhiệt độ tháng giêng từ 1 – 15
0
C, trong năm nhiệt độ thấp < 10
0
C có 80 – 140
ngày, lượng mưa 800 – 1900mm, đất trồng lê gồm: đất vàng, đất đỏ, đất nâu,
đất tím. Các giống lê điển hình gồm: lê thế kỷ 20, lê Thương Khê, lê Hoàng
Hoa, Minh Nguyệt, Nhị Cung Bạch, Tân Thế Kỷ, Cúc Thủy, Hạnh Thủy…
Theo (Шепелький.АИ, 1996) [39, 103] thì lê có 2 loại, đó là lê châu Á
và lê châu Âu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
- Lê châu Á: Gặp nhiều ở Trung Quốc, có khoảng 15 loài tất cả, được
gọi chung là “Sa li” .Sali có 2 biến chủng:
+ Var. Stapfiana Rchd (1)
+ Var. Culta Red (2)
Trong đó biến chủng (2) là quan trọng hơn cả, nó được trồng ở Nhật
Bản và Triều Tiên, khoảng hơn 20 năm trước đây đã được nhập vào trồng ở

Lào Cai và chủ yếu ra quả trên cành một năm, khả năng chịu lạnh của chúng
kém, quả hình trứng ngược màu vàng xanh, phẩm chất khá tốt.
- Lê châu Âu: Trong những giống lê châu Âu có các giống điển hình
như sau:
+ P. Calleryana Decne
+ P. Betulaefolia Bunge
+ P. Phacocarpa Rehd
+ P. Sesrulata Rehd.
Các giống này thường gặp ở độ cao 500-1.400m so với mặt nước biển,
độ lớn của cây vừa phải, các chồi non có lông tơ mịn, lá nhỏ hơn lá lê châu Á,
có hình trứng ngược, thuôn dài và mép lá chỉ lượn sóng, cuống lá dài 3-4 cm,
quả tròn nhỏ, vỏ mịn màu nâu, loại này dùng làm gốc ghép rất tốt cho các
giống được trồng ở các tỉnh phía Nam của Trung Quốc.
Tác giả cũng căn cứ vào thời vụ chín của Lê để chia ra thành các nhóm
giống như sau:
+ Giống chín sớm: quả chín vào cuối tháng 8 đầu tháng 9.
+ Giống chín trung bình: quả chín vào hạ tuần tháng 9.
+ Giống chín muộn: là những giống quả chín sát mùa đông
Ở Việt Nam tác giả (Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến, 1978) [3, 158]
cho rằng, Lê thuộc họ Hoa hồng Rosaceae, thuộc chi Pyrus. Chi Pyrus có loài
lê và loài mác coọt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
- Loài lê (P. communis L.) là cây ở vùng ôn đới, quả ngon và mát, có
nhập nội, ở ta được trồng ở vùng Cao - Lạng.
- Loài mác coọt (P. pashia Buch. Ham. exD. Don) là cây nhỡ, lá khía
răng, hoa màu trắng, quả có vỏ đốm nhiều, thịt quả cứng ăn chát, vị ngọt kém.
Cả lê và mác coọt đều thuộc phân họ Táo Maloideae được đặc trưng
bởi lá đơn, 2-5 lá noãn hợp, bầu dưới, đế hoa lõm, công thức hoa như sau:

K
4-5
C
4-5
A
5-18
G
(2-5
1.3. Tình hình sản xuất lê trong và ngoài nƣớc
1.3.1. Tình hình sản xuất lê ở ngoài nƣớc
Trên thế giới có khoảng 78 nước trồng lê, được trồng nhều nhất ở châu
Âu, châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương. Lê thích nhiệt độ lạnh nhưng
kém chịu rét đậm. Những vùng trồng lê chính của Nga là: Cranođaxki,
Capkaja, Ucraina. Đặc biệt là vùng Địa Trung Hải và Nam Capkaja, người
ta rất chú trọng tới việc trồng lê, ở những nơi đó được trồng chủ yếu là
những giống lê ngon và có giá trị kinh tế nhất.
Ở Pháp, lê được trồng rộng rãi ở tất cả các vùng với diện tích khá lớn,
trong năm 1981 sản lượng lê của Pháp đứng thứ ba, sau Italia và Etats-Unis
với 420 nghìn tấn/ năm trên diện tích 22.000 ha. Trung bình hàng năm
trong những năm 1990 ở Pháp sản xuất được 3,5 triệu tấn quả các loại
(đứng thứ ba trong khối Tây Âu, sau Italia và Tây Ban Nha), trong đó lê
chiếm 8,5%, sản phẩm lê của nước này dùng để ăn tươi khoảng 87-89%,
còn lại 11-13% là sử dụng làm nguyên liệu chế biến.
Theo số liệu thống kê của FAO thì hiện nay sản lượng lê tại một số nước
trên thế giới khá cao và liên tục tăng trong những năm qua.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Bảng 1.1: Sản lƣợng lê tại một số nƣớc trên thế giới giai đoạn 2007 -2009
Đơn vị tính: tấn

TT
Tên nƣớc
2007
2008
2009
1
Austria
175,526
84,735
168,663
2
Brazil
17,074
17,391
14,856
3
Bungari
0,965
0,924
1,442
4
Canada
13,381
9,594
8,400
5
Trung Quốc
13.045,429
13.676,381
14.416,450

6
Ai Cập
50,414
48,908
52,000
7
Pháp
202,708
159,865
185,857
8
Đức
49,918
38,076
52,319
9
Italia
835,700
770,100
847,500
10
Kazaktan
11,070
7,990
11,000
11
Thổ Nhĩ Kỳ
356,281
355,476
384,244

(Nguồn: FAOSTAT. FAO. ORG)
So sánh sản lượng trong 3 năm qua chúng ta thấy một số nước liên tục tăng
như: Trung Quốc năm 2007 đạt hơn 13 triệu tấn thì đến năm 2009 đã lên tới
hơn 14 triệu tấn, kế đến là Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức. Tuy nhiên có một số
nước lại giảm như: Canada, Brazil
Bảng 1.2: Sản lƣợng lê trên thế giới và một số khu vực
Đơn vị tính: tấn
TT
Khu vực
2007
2008
2009
1
Thế giới
20.893,424
21.261,587
22.466,529
2
Châu Mỹ
634,946
684,712
652,334
3
Châu Á
15.065,882
15.757,684
16.517,391
4
Châu Âu
3.199,408

2.837,848
3.299,926
5
Châu Đại Dương
169,764
162,992
152,176
(Nguồn: FAOSTAT. FAO. ORG)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Nếu xét tại một số quốc gia thì sản lượng tăng không đều, nhưng ở các
châu lục và trên thế giới tăng liên tục qua các năm. Trên thế giới năm 2007
sản lượng là hơn 20 triệu tấn, đến năm 2009 đã đạt trên 22 triệu tấn. Giữa các
châu lục thì Châu Á tăng nhanh hơn cả, năm 2007 đạt trên 15 triệu tấn đến
năm 2009 đã hơn 16 triệu tấn.
1.3.2. Tình hình sản xuất lê ở trong nƣớc
Cây lê được trồng ở Việt nam từ bao đời nay tại các tỉnh miền núi
phía Bắc, nơi có mùa đông lạnh như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Bắc Kạn… với các giống lê phổ biến là lê
Nâu quả tròn, lê Xanh quả tròn…có năng suất, chất lượng khá tốt. Lê chủ
yếu được dùng để ăn tươi trên thị trường tiêu thụ nội địa, chưa có cơ sở chế
biến nào đối với lê, bởi sản lượng chưa cao và còn phân tán. Trong những
năm qua công tác nhập nội một số giống lê mới đã được tiến hành tại một
số địa phương, cây lê Tai Nung 6 (Đài Loan) đã được đưa vào trồng khảo
nghiệm tại huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai từ tháng 8 năm 2002 và tỏ ra khá
phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương. Lê Tai Nung có
ưu điểm là ra hoa muộn hơn đào và mận nên có thể tránh được thời điểm
rét đậm trong mùa đông; thời gian thu hoạch vào tháng 7 (sau mùa thu
hoạch đào và mận) và chín trước lê Trung Quốc khoảng 1 tháng nên rất

thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay những cây lê Tai Nung 6
trồng tại Bắc Hà đã cho quả với năng suất khá cao, trọng lượng quả khoảng
300 – 330g, có vị ngọt đậm đà và hương thơm quyến rũ. Bên cạnh đó tỉnh
còn nhập thêm một số giống trồng thử nghiệm như: Giống Phong Thuỷ,
Thương Khê, Kim Hoa chín trong tháng 8 [22].
Tại Hà Giang từ năm 2001 – 2006 Trung tâm giống cây trồng và gia
súc Phó Bảng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Giang) đã nhập
nội và khảo nghiệm 5 giống lê Đài Loan, trong đó có 2 giống ký hiệu là ĐV1
và ĐV2 tỏ ra rất thích hợp với điều kiện khí hậu của địa phương và có nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
ưu điểm nổi trội hơn cả như: ra hoa muộn hơn nhưng lại chín trước các giống
lê của địa phương, nên có quả bán sớm ra thị trường. Đến nay có thể nói lê
Đài Loan đang dần khẳng định được tính ưu việt, hy vọng nó sẽ trở thành cây
có thế mạnh để phát triển thành vùng chuyên canh hàng hóa và được khuyến
cáo rộng rãi ra sản xuất, các giống này khi gọt vỏ không bị thâm đen nên được
bà con rất ưa chuộng.
Ngoài ra một số nơi như: Lạng Sơn, Bắc Kạn, Phú Thọ cũng đã nhập
nội một số giống như: Hoàng Hoa, Thương Khê để trồng thử nghiệm, nhưng
kết quả thu được chưa như mong muốn, có thể tại những nơi này chưa đủ độ
lạnh cho sự phát triển của lê.
Hiện nay nguồn số liệu từ niên giám thống kê về Nông lâm nghiệp chưa
đề cập tới cây lê, các số liệu về diện tích, sản lượng của lê ở bảng 1.3 sau đây
chỉ là những số liệu thu thập từ nguồn các Sở Nông Nghiệp và Phát triển
Nông thôn ở các tỉnh.
Bảng 1.3: Diện tích, năng suất, sản lƣợng lê tại một số tỉnh Miền núi Phía
Bắc năm 2006 - 2010

TT


Tỉnh
2006
2010
Diện tích
(ha)
Sản lƣợng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Sản lƣợng
(tấn)
1
Cao Bằng
159,0
630,6
203,0
1.280,45
2
Hà Giang
571,2
4.056,8
580,0
4.656,8
3
Lào Cai
180,0
750,0
230,0
1.100,5

4
Bắc Kạn
148,0
612,3
166,0
677,8
5
Lạng Sơn
178,6
625,4
192,2
1.120,4
6
Tuyên Quang
98,0
566,2
176,0
1.020,0
7
Yên Bái
65,2
405,6
87,0
532,4
(Nguồn: Sở NN&PTNT các tỉnh)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Ở nước ta lê chủ yếu được dùng để ăn tươi. Ngoài ra, ở một số địa phương
người ta còn chế biến bằng cách ngâm rượu lê, muối lê, sử dụng làm thực phẩm

thay rau xanh lúc giáp vụ Ngoài giá trị dinh dưỡng, giá trị sử dụng của quả lê đã
được các nhà khoa học khẳng định thì bên cạnh đó giá trị kinh tế mà cây lê đem lại
là rất lớn, chính vì vậy tại một số hộ gia đình ở một số tỉnh đã trồng lê và cho thu
nhập rất khá. Theo tác giả (Trần Hoàn, 2001) [11, 10] đã đề cập tới cây lê ở Ngân
Sơn- Bắc Kạn như sau: “Năm 1999 toàn huyện Ngân Sơn có 4,25 ha lê đang cho
thu hoạch và 8,43 ha trồng mới. Đến năm 2001 đã trồng thêm được 11 ha và
người trồng lê không phải trăn trở tìm đầu ra cho sản phẩm của mình. Theo tính
toán 1 cây lê tốt có tuổi thọ cao thì cho thu nhập 500.000-600.000đ, 1kg quả to bán
tại thị trường Ngân Sơn hiện nay với giá dao động từ 8.000-12.000đ”. Theo tác giả
(Lê Phương Bắc, 2003) [2, 10] thì ở huyện Simacai tỉnh Lào Cai thì có thể coi cây lê
là cây xóa đói giảm nghèo, nhất là cây lê xanh với giá bán 5.000đ tại chợ huyện,
ông Vàng A Chứ ở xã Mản Thẩn cho biết: “Tôi có 6 cây lê trồng từ vài năm nay đã
cho thu hoạch. Ngày nào tôi cũng bán ít nhất là một gùi lê, chưa bao giờ bị ế. Loại lê
này được bà con, đặc biệt là những khách dưới xuôi mê lắm. Ông khoe hôm nọ có
mấy người vào tận vườn của ông chọn và xin chiết mấy cây về để trồng”.
Tại bản Khau Tràng, xã Hồng Thái, tỉnh Tuyên Quang có gia đình
ông Đặng Văn Tình là chủ vườn lê lớn nhất, hiện nay vườn của ông có tới
100 cây lê, mỗi vụ cũng có thu nhập gần 20 triệu đồng. Như vậy hiệu quả
từ cây lê đem lại là rất lớn, thực sự là cây ăn quả quý mang đến cho người
dân vùng cao cuộc sống ngày ổn định và được nâng cao.
1.4. Những nghiên cứu về cây lê trong và ngoài nƣớc
1.4.1. Các giống lê và đặc điểm nông sinh học
Hiện nay trên thế giới lê được trồng ở rất nhiều nước, nhất là những
nước có khí hậu lạnh.Vì vậy thành phần giống lê cũng khá phong phú, mỗi
giống ở mỗi vùng, miền lại có những đặc điểm khác nhau, sau đây là mô tả
tóm tắt về đặc điểm nông sinh học của một số giống mang tính đại diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Kết quả nghiên cứu của Chevalier A(1942) [30, 373-376] đã mô tả một

số giống lê ở Pháp như sau:
- Pyrus loquiho: Cây leo, lá nhẵn, không biểu sinh, tựa vào các cây khác,
cao từ 6-8m, phát triển làm rám nắng những cành con, để lại những vết tròn
tương ứng với lá rụng. Lá hơi dài, có đầu nhọn, thót ở hai đầu, hơi tù, nhạt phía
trên, vàng nhạt và bẹ ở phía dưới, gân phụ từ 5 đến 8 đôi, mảnh khảnh nhưng
lồi ra ở phía dưới,cuống lá từ 15 đến 25mm chiều dài. Quả đơn ở kẽ lá, hình lê,
bẹt ở phía trên, dài từ 15 đến 25mm, 3 ngăn, cuống từ 10 đến 15.
- Pyrus candidissima: Cây nhỏ cao từ 5 đến 6 m, ban đầu rụng lá sau đó
thì đến quả, thân cây đường kính 80cm, cành nhỏ với vỏ nâu và những lỗ bì
trắng hình nấm. Lá vàng, phủ trên hai mặt của lá kể cả lá non và cụm hoa có
lông trắng như bông, không bền, hình oval nhọn, dài có mũi nhọn ở đầu, hình
nêm ở cuống, dài 4-5cm, rộng 2cm, có răng cưa rất nhỏ, gân phụ 5-6 đôi,
cuống lá có lông trắng 2-2,5cm chiều dài. Hoa trắng rất thơm, một cụm ở
ngọn, cuống hoa 2-3mm, loại 3, dính liền theo cột vào gốc. Quả tròn hoặc lê
cụt đầu, có vết tròn, không có vết của đài hoa, đường kính 10mm, 3 ngăn.
- Pyrus (Micomeles) rhamnoides Dcne: Cây nhỏ 5-6m, cây biểu sinh, lá
có đầu nhọn, dài, uốn nếp theo gân phụ rất bẹt từ 12-14 đôi, cuống lá ngắn 5-
15mm và mảnh khảnh, cụm hoa có lông, rất nhiều hoa, quả nhỏ tròn, không
chấm, 2 ngăn.
- Pyrus ligustrifolia: Cây biểu sinh cao 4m, thân đường kính 3cm, cành
nhỏ với lá tập trung ở đầu cành. Lá hơi dài, nhạt ở phía trên, hình oval có đầu
nhọn, hơi tù, dài 4-6cm, rộng 1,5-3cm, hơi răng cưa ở viền, 6-8 đôi gân phụ
hơi khó nhìn ở trên và ở dưới, cuống lá ngắn 3-6mm. Quả đơn hoặc đôi, tròn,
đường kính 8-12mm, nâu với chấm nhạt hơn, cuống từ 1,5-2cm.
Tác giả (Chattopadhyay.T.K,2003) [29, 53] đã mô tả 25 giống lê,
nhưng đáng chú ý là 1 số giống sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
- Victoria: Đó là giống giữa mùa, quả chín từ tháng 7 tới đầu tháng 8.

Quả trung bình hoặc to, màu sắc của vỏ quả có màu xanh vàng pha lẫn hơi đỏ.
Thịt quả mịn, nhiều nước và ngọt, là giống có sản lượng cao.
- Conference: Đây là giống chín giữa mùa, cỡ quả trung bình và có hình
dạng của lê điển hình, vỏ quả có màu xanh pha chút nâu đỏ. Thịt quả màu
hồng, vị ngọt và nhiều nước. Đó là giống tốt có giá trị tương đối và nhiều quả,
thu hoạch quả từ cuối tháng 6 tới đầu tháng 8.
Lê không những cho sản phẩm là quả, mà nó còn là cây cảnh rất có giá
trị, các loài điển hình như: P.amygdaliformis Will, P.elaeagrifolia Pall,
P.pyrifolia (Burm)Nakai và P.ussuriensis Maxim, chúng đang được trồng phổ
biến tại Washington State University ở trung tâm nghiên cứu Puyallup.WA.
Chúng được lựa chọn bởi khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, có đặc
điểm là: cây xanh, hình dáng nhỏ gọn, đẹp, rất phù hợp khi chọn chúng làm
cây cảnh.
Ở Việt Nam lê được trồng ở vùng núi cao nơi có mùa đông lạnh, đặc
điểm chung về cây lê là loại cây thân gỗ, sống lâu năm có thể cao tới 9-11m,
tán hình mâm xôi, đường kính tán từ 7- 13m, đường kính thân có thể đạt tới
30-40cm, độ cao phân cành từ 37 - 102cm, cành cấp 1 có góc phân cành 30-
70
0
. Lá lê hình mai rùa, có 90 đến 140 răng cưa và rụng vào mùa đông. Lê ra
hoa vào cuối tháng 2 đầu tháng 3, màu hoa trắng và khi nở rộ tạo cảnh rất đẹp
cho vườn lê. Lộc phát vào mùa xuân, quả hình thành sau khi hoa tàn và phát
triển tới cuối tháng 8 thì chín. Quả lê hình tròn hơi dẹt (lê nâu) xong đa phần
hình bóng điện với trọng lượng bình quân 350 - 500g/quả. Khi chín vỏ quả
chuyển nâu hoặc xanh vàng, vỏ nhẵn. Thịt quả màu trắng, giòn, ngọt mát hơi
pha chua chát, đặc biệt có mùi thơm dễ chịu. Các tác giả Hoàng Ngọc Đường
và các cộng sự (1996) [8, 18 - 23] nghiên cứu cây ăn quả đặc sản ở vùng núi
Đông Bắc Việt Nam, đã nghiên cứu và mô tả quả lê và mác cọt của một số
tỉnh phía Bắc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
- Mác cọt nâu vàng (Sìn Hồ - Lai Châu): Quả có hình tròn, vỏ quả màu
nâu vàng, chiều dài quả 3,3cm, rộng 3,4cm. Trọng lượng 50g/quả, thịt quả
màu trắng độ sạn ít, ăn có vị chua chát, tâm bì 5 chứa từ 8-10 hạt, màu sắc hạt
nâu sáng.
- Lê xanh quả tròn dẹt (Sìn Hồ - Lai Châu): Quả có hình tròn dẹt, vỏ
quả màu xanh sáng, chiều dài quả 3,1cm, rộng 4,3cm. Trọng lượng 75g/quả
- Lê xanh quả tròn (Sìn Hồ- Lai Châu): Quả có hình tròn , vỏ quả màu
xanh vàng, chiều dài quả 5,2cm, rộng 5,3cm. Trọng lượng 149g/quả , cuống
dài 1,2cm, thịt quả màu trắng, độ sạn trung bình, ăn có vị ngọt nhạt, tâm bì 5
chứa từ 8-10 hạt, màu sắc hạt nâu sáng.
- Lê xanh quả bầu dục (Sìn Hồ - Lai Châu): Quả có hình bầu dục, vỏ
quả màu xanh, chiều dài quả 5,9cm, rộng 5,8cm. Trọng lượng 200g/quả
- Lê nâu (Văn Chấn - Yên Bái): Quả có hình tròn, vỏ quả màu nâu,
chiều dài quả 5,4cm, rộng 5,0cm. Trọng lượng 150g/quả , cuống dài 3,0cm,
thịt quả màu trắng, độ sạn rất ít, ăn có vị ngọt, nhạt, nhiều nước, tâm bì 5 chứa
khoảng 2 hạt, hạt màu nâu .
- Lê nâu (Ngân Sơn- Cao Bằng): Quả có dạng hình tròn, vỏ quả màu
nâu, chiều dài quả 5,0cm, rộng 5,2cm. Trọng lượng 210g/quả , cuống dài
4,4cm, thịt quả màu trắn vàng, độ sạn rất ít, ăn có vị ngọt,thơm mát, tâm bì 5
chứa từ 3-8 hạt.
- Lê xanh má đào (Hà Giang): Quả có hình tròn, vỏ quả màu xanh vàng
xen lẫn chút đỏ, chiều dài quả 5,2cm, rộng 6,0cm. Trọng lượng 175g/quả, thịt
quả màu trắng, độ sạn rất ít, ăn nhạt và nhiều nước, tâm bì 5 chứa từ 5-6 hạt,
màu sắc hạt nâu sáng.
Theo báo cáo kết quả nghiên cứu 1 số giống lê Tứ Xuyên tại huyện Bắc
Hà- Lào Cai thì hiện nay Lào Cai mới nhập nội một số giống mới gồm:
- Giống Phong Thuỷ: Chín trong tháng 8. Quả hình cầu trung bình 230 -
250 gram, vỏ quả màu nâu vàng nhạt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
- Giống Thương Khê: Chín cuối tháng 8. Quả hình trứng, quả trung
bình 250-260 gram, vỏ quả màu nâu vàng sẫm, thịt quả màu trắng.
- Giống Kim Hoa: Chín trong tháng 8. Quả hình bóng điện trung bình
280 - 300 gram. vỏ quả màu xanh vàng có chấm nhỏ màu rỉ sắt.
Các giống lê Tai Nung 6 có nguồn gốc (Đài Loan) đã được trồng khảo
nghiệm tại huyện Bắc Hà đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT có kết luận tốt
đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận giống đặc cách, được trồng gần 50 ha
ở một số xã: Bắc Hà, Sa Pa, Mường Khương, Bát Xát, Si Ma Cai, Thành phố
Lào Cai, là giống chín sớm đầu tháng 7. Quả hình tròn dẹt, trọng lượng quả
trung bình 350 gram, khi chín vỏ quả màu xanh vàng. Thịt quả trắng mịn, lõi
nhỏ, vị ngọt mát, tỷ lệ phần ăn được cao 85-90 %, hàm lượng Ta nin thấp [22].
Ngoài ra còn có một số giống như:
- Giống lê Đại Hồng: Giống này có nhiều ở Lạng Sơn. Cây mọc khoẻ,
phân cành thưa, sai quả và có chất lượng cao được thị trường ưa chuộng. Quả
dài, đỉnh hơi nhọn và chính giữa lõm xuống, vỏ quả màu xanh vàng, thịt quả
mịn nhiều nước, cát nhỏ, vị ngọt, mùi thơm giống lê Vân Nam (Trung Quốc).
- Lê đen Cao Bằng: Giống này được trồng phổ biến ở các địa phương
tỉnh Cao Bằng. Đây là giống lai tự nhiên giữa lê và táo dại. Quả nhỏ giống
Mắc coọc nhưng hương vị thơm ngon hơn.
- Lê Sali Hà Giang: Giống được trồng nhiều ở các huyện của tỉnh Hà
Giang cây tương đối khoẻ, phân cành mạnh. Chống chịu điều kiện bất thuận
khá. Thịt quả cứng, mùi vị thơm ngon, thị trường ưa chuộng.
- Giống lê xanh: Giống thường trồng những vùng có độ lạnh cao từ
600m trở lên. Cây sinh trưởng khoẻ, năng suất khá cao, tính chống chịu lạnh tốt
.Ra hoa vào tháng 4,chín cuối tháng 7 đầu tháng 8 trọng lượng quả tương đối
lớn từ 300 - 400 gram, màu sắc vỏ quả khi chín xanh mịn, dám màu hồng, vỏ
nhẵn, cuống ngắn.Quả có dạng bầu hoặc hình trứng. Thịt quả màu trắng xốp,

nhiều nước, lõi to, khi bổ ra rễ bị thâm đen. Độ ngọt vừa, vị chát, khá chua.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
- Giống Lê Ngân Sơn: Giống lê nâu, chín cuối tháng 7 đầu tháng 8.
Trọng lượng quả trung bình 180 – 340 gram, vỏ quả màu nâu, thịt quả màu
trắng, cát, lõi to, tỷ lệ phần ăn được 75 % khi chín quả cứng vị chát, hơi chua.
- Giống lê nâu: Trồng được nhiều vùng hơn so với lê xanh. Ra hoa
giữa tháng 3 đầu tháng 4, thu hoạch trong tháng 8. Quả nhỏ trọng lượng
trung bình 200 - 240 gram, vỏ quả màu nâu thô giáp, thịt quả màu trắng,
nhiều cát, lõi to, bổ ra rễ bị thâm đen, ngọt vừa phải, vị chát, hơi chua. Quả
tròn, tròn dẹt, hình trứng ngược [5].
1.4.2. Yêu cầu về sinh thái đối với cây lê
- Về độ cao: Cây lê được trồng ở những nơi phải có độ cao so với mặt
nước biển, (Chattopadhyay T.K, 2003) [29, 52] trích dẫn của ( Henry et al,
1984) thì cây lê có thể sinh trưởng tốt ở độ cao so với mặt nước biển từ
1.200m đến 2.250m, nhưng độ cao so với mặt nước biển quá cao thì sẽ gặp
hiện tượng vận tốc gió ở trên cao mạnh, làm cho sự hoạt động của ong mật sẽ
kém và ảnh hưởng trực tiếp tới sự thụ phấn cho hoa lê, vì vậy nên tránh trồng
lê ở những nơi quá cao so với mặt nước biển. Ở Việt Nam cây lê có thể trồng
được ở nơi có độ cao so với mặt nước biển từ 400 - 900m trở lên . Vùng phân
bố chính là từ vĩ tuyến 30
0
Vĩ Bắc trở lên, tuy nhiên với khí hậu của các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta ở những nơi có độ cao 600m cũng có thể trồng lê
tốt, cá biệt như ở Lạng Sơn có độ cao 400m so với mặt nước biển nhưng việc
trồng lê vẫn rất thuận tiện [5, 118].
- Yếu tố nhiệt độ: Nhiệt độ ảnh hưởng khá lớn đến cây lê, yêu cầu nhiệt
độ đối với lê cho thấy sự hình thành mầm hoa không thể xảy ra được trong
điều kiện nhiệt độ quá ấm. Vào mùa đông bằng cách sử dụng phương pháp

tính toán chính xác để xác định, thì tổng giờ lạnh tối thiểu phải là 1000 giờ.
Các giống lê Châu Âu trồng ở phía Tây nước Mỹ cây phát triển bình thường,
độ lạnh đòi hỏi nhiệt độ từ 70 - 80
0
F (21,1 - 29,4
0
C) trung bình cho một ngày
trong suốt thời kỳ hoa nở, nhưng tốt nhất là ở nhiệt độ 55
0
F (12,8
0
C).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Tác giả (Richard, 2002) [36] nghiên cứu sự sinh trưởng của cây lê ở
vùng Virginia đã khảng định: Khí hậu ở vùng này rất mát mẻ và thích hợp cho
cây lê phát triển, hầu hết các giống lê yêu cầu khoảng 1.000 đến 1.200 giờ
dưới 45
0
F (7,2
0
C) trong suốt mùa đông để cây hoàn thành giai đoạn ngủ nghỉ.
Mặc dù cây cần có độ lạnh như vậy, nhưng nếu nhiệt độ quá thấp cũng sẽ ảnh
hưởng tới vấn đề nở hoa. Kết quả theo dõi cho thấy cây lê bắt đầu xuất hiện
nụ hoa và cả trong giai đoạn hoa nở đều có thể bị chết nếu gặp mùa xuân quá
lạnh giá, ở nhiệt độ 26
0
F (-3,3
0

C) hoặc thấp hơn thì nhìn chung hoa nở sẽ bị
chết. Giai đoạn thụ phấn của lê cần nhiệt độ khoảng 22
0
C, sau khi hình thành
quả non mà nhiệt độ vẫn còn thấp thì sẽ ảnh hưởng đến sản lượng quả, ở nhiệt
độ từ 13
0
C - 17
0
C đặc biệt ở nhiệt độ 13
0
C kéo dài thời gian trong khoảng 6
ngày thì nhận thấy sự ảnh hưởng rõ rệt hơn.
Sự thụ phấn của hoa lê cũng liên quan đến nhiệt độ, các tác giả
(Langridge. D.F, Jenkins. P.T, 2002) [34] cho thấy nhiệt độ có thể rất có lợi
hoặc không có lợi cho sự thụ phấn, thụ tinh. Sự thụ phấn ở trong các vườn quả
tốt nhất là được thực hiện từ 10h sáng đến 4h chiều trong ngày, ngoài ra nhiệt
độ không khí còn ảnh hưởng đến cuống quả và đường kính quả lê trong suốt
giai đoạn quả non, và sản lượng quả. Sự lớn lên của quả rất nhanh ở nhiệt độ
23
0
C, tiếp theo là ở 30
0
C và kém nhất là ở nhiệt độ 16
0
C, còn ở nhiệt độ thấp
hơn 16
0
C thì sự lớn lên của quả còn thấp hơn nữa. Tác giả (Mann. S.S, Singh.
H, Singh. R, 2001) [35, 30-33] cũng đề nghị để các tiêu chuẩn kỹ thuật của cây

lê đạt được kết quả cao thì nên trồng lê ở những nơi có độ lạnh từ 0 - 3
0
C trong
3 - 6 ngày, sau khi quả chín nên bảo quản ở nhiệt độ 20
0
C trong phòng là tốt
nhất. Tác giả (Vũ Công Hậu, 1982) [10, 81-82] cho rằng: lê được xếp vào hàng
thứ ba trên thế giới trong các cây ăn quả rụng lá vào mùa đông, và là cây của
miền ôn đới. Nhiệt độ cần có hai tháng mùa đông có nhiệt độ bình quân từ 10 -
12
0
C [5, 118].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Đối với cây ăn quả ôn đới như: lê, đào, mận…cần phải có mức độ lạnh
cần thiết để phân hóa mầm hoa. Nhìn chung, chúng đều có yêu cầu đơn vị
lạnh cao (high chill), nếu nhóm cây này trồng ở những vùng không đủ độ lạnh
theo yêu cầu thường có những biểu hiện: lá phát triển kém, khả năng đậu quả
thấp, chất lượng quả kém. Năm 1980 các nhà khoa học ở George và Florda –
Mỹ đã đưa ra nhận định chỉ có những tháng lạnh nhất trong năm mới có tác
động tới khả năng tích lũy đơn vị lạnh mà cây cần. Từ đó Alan George và Bob
Nissen (1998) đã đưa ra công thức tính số đơn vị lạnh cho một vùng dựa vào
nhiệt độ bình quân của tháng lạnh nhất, công thức tính rất đơn giản như sau:
phương pháp đánh giá đơn vị lạnh CU (Chilling units) cho từng tiểu vùng, theo
công thức tính đơn vị lạnh CU của (George. A.P et al., 1998) [12], dựa trên nhiệt
độ trung bình cao nhất và thấp nhất của tháng lạnh nhất trong năm.
Y = a + b√x
2
Y = Đơn vị lạnh CU

a = - 1425,5
b = 6280,2
x =
t
0
1
+ t
0
2

2
t
0
1
: Nhiệt độ bình quân tối cao tháng lạnh nhất trong năm
t
0
2
: Nhiệt độ bình quân tối thấp tháng lạnh nhất trong năm
Tuy nhiên trong phạm vi một vùng, sự chênh lệch nhiệt độ chủ yếu do
có sự khác biệt về độ cao, dưới thung lũng thấp thường có đơn vị lạnh CU cao
hơn sườn và đỉnh đồi do luồng khí lạnh đọng lại, nên có thể trồng được những
giống có yêu cầu đơn vị lạnh cao hơn và sẽ cho chất lượng quả tốt hơn. Như
vậy bằng công thức của Alan George và Bob Nissen ta có thể tính toán được
đơn vị lạnh CU của một vùng, từ đó hoàn toàn chủ động trong sử dụng giống
hoặc nhập nội những giống có yêu cầu đơn vị lạnh CU thích hợp với điều kiện
của địa phương. Với cách tính như vậy, tác giả (Lê Đức Khánh, 2005) [12] đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22

nghiên cứu đơn vị lạnh CU bình quân tại một số vùng từ năm 1998 – 2002 và
có kết quả cụ thể như sau: tại Trùng Khánh (Cao Bằng) 291,30; thị xã Cao
Bằng 229,20; Nguyên Bình (Cao Bằng) 236,70; Bắc Sơn (Lạng Sơn) 217,50;
Sa Pa (Lào Cai) 615; Hoàng Su Phì (Hà Giang) 139,70…tác giả cũng chỉ ra
rằng những vùng có nhiệt độ trong mùa đông thấp, đủ đơn vị lạnh CU tích lũy
từ 150 – 350 CU cho phép phát triển một số giống cây ăn quả ôn đới như:
mận, hồng, đào, táo, lê.
- Lượng mưa:
Ngay cả tại Trung Quốc là nơi có diện tích và sản lượng lê rất cao,
nhưng lượng mưa trung bình hàng năm chỉ có 600mm. Các loại cây ăn quả ở
đây bao gồm: lê, táo, mận, do thiếu nước nên năng suất thấp và chất lượng quả
rất kém. Những người dân nơi đây đào những hố xung quanh cây để giữ nước,
hoặc trực tiếp tưới nước cho cây, nhờ đó mà năng suất của các loại quả được
tăng lên một cách đáng kể, đặc biệt là có khả năng duy trì và cải thiện chất
lượng quả, ngoài ra khi nghiên cứu về chất lượng của nước mưa, cụ thể là đo
độ pH trong nước mưa, nếu nước có độ pH là 3,0 - 4,0 thì sẽ ảnh hưởng tới
năng suất và chất lượng của quả lê (Willett. I, 1994) [38].
- Ánh sáng:
Lê là thuộc loại cây thích ánh sáng, yêu cầu từ 1600 - 1700 giờ trong 1
năm, cường độ ánh sáng mạnh quang hợp càng có hiệu quả tốt, trong toàn bộ
tán cây thì phần trên tán quang hợp sẽ chiếm tới 70%, còn bên trong tán và
nửa cuối tán trở xuống quang hợp chỉ chiếm 30%. Do đó những lá ở phía
ngoài tán và ở phía trên tán luôn đủ ánh sáng nên có màu đậm hơn, cành sung
sức và khoẻ, quả có hàm lượng đường cao nên có phẩm chất ngon (Lục Thu
Nông, 1999) [15, 41-42]. Theo (Trần Kiết Trung, 2003) [21, 110-202] thì
cường độ quang hợp của lê tương đối lớn, từ 30.000 - 50.000 lux, tuy nhiên
nếu lớn hơn 100.000 lux thì cường độ quang hợp lại giảm. Nếu ánh sáng quá
yếu không đủ cho cây quang hợp thì sẽ có hiện tượng cây mọc vống, thân cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23
không chắc, ảnh hưởng đến phân hoá mầm hoa và phát dục kém, ảnh hưởng
đến màu sắc quả vì sắc tố quả sẽ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng, nếu quá thiếu thì
dẫn đến cây bị chết.
1.4.3. Những nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống lê
Giống cây trồng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, sử dụng giống kém chất lượng sản xuất sẽ không có hiệu quả thậm chí
còn gây thiệt hại lớn cho nông dân. Trong tự nhiên việc nhân giống có thể là
từ hạt (hay còn gọi là cây thực sinh), hoặc từ nhân giống vô tính. Tuy nhiên
nhân giống từ hạt sẽ bộc lộ rõ những nhược điểm rất lớn đó là cây con không
giữ được những đặc tính tốt của bố mẹ, quần thể cây không được đồng đều…
nhân giống vô tính đã khắc phục được những hạn chế này. Thực tiễn sản xuất
cây trồng nói chung, trong quá trình trồng trọt con người đã biết chọn lọc ra
những giống cây có năng suất cao, phẩm chất tốt và có khả năng chống chịu với
điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Tuy nhiên để duy trì được những đặc tính tốt đó,
thực tế đã chỉ ra rằng chỉ có con đường nhân giống vô tính.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhân giống lê ở nước ngoài.
Tác giả (Bouma. J; Sedo.V.EN, 1988) [28] cho biết tại European, Russia. Để
cải thiện các bộ giống sẵn có ở các nơi này người ta đã sử dụng biện pháp lai
tạo nhờ sự thụ phấn và kết quả là đã đạt được một số giống mới như:
- Giống Lada là kết quả lai giữa giống (Tema x Lyubimitsa Klappa).
- Giống Rossoshanskaya Krasivaya là kết quả lai giữa giống
(Tonkovetka x Lyubimitsa Klappa).
Mặc dù Lê là cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới, phải được trồng ở những
vùng lạnh thì mới cho năng suất, tuy nhiên ở những nơi mà nhiệt độ quá thấp
Lê cũng có thể bị chết rét, bởi vậy việc nghiên cứu để chọn ra những bộ giống
có khả năng chịu rét đã được các nhà khoa học đề cập tới.
Các nhà khoa học còn nghiên cứu về khả năng thay đổi tính chín sớm
của vườn lê bằng cách ghép ngọn của giống chín sớm trên gốc ghép là các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


24
giống chín muộn, kết quả quan sát về sự tiếp hợp và hình thức bên ngoài cho
thấy với phương pháp này sự tiếp hợp giữa gốc ghép và cành ghép rất tốt đồng
thời sự sinh trưởng cũng khả thi (Gil-Albert,-F; Perez-de-Oteyza,-A;
Lissarrague,-JR, 1989) [33, 77-84].
Liên quan giữa gốc ghép và cành ghép (Elkins R.B, DeJong T.M, 2002)
[32, 603-607] còn nhận thấy ảnh hưởng của cành ghép và gốc ghép đến sự ra
hoa của lê. Cụ thể là vào vụ trồng thứ 3 và thứ 4(1987-1988) về việc ghép 10
giống lê Châu Á (Pyrus pyrifolia) được ghép trên 3 loại gốc ghép (Shinko,
Niitaka và Tsu Li) thì ra hoa rất sớm. Nói chung sự trao đổi qua lại giữa chồi
ghép và gốc ghép có ảnh hưởng rõ rệt tới sự sinh sản, đó là ra hoa và số lượng
quả nhiều hoặc ít, thậm chí là ảnh hưởng cả tới chất lượng của quả, ngoài ra tác
giả cho thấy việc chọn lựa gốc ghép và cành ghép phù hợp còn thúc đẩy sự tăng
trưởng về thân, cành rất nhanh, tạo điều kiện để tăng năng suất và chất lượng.
Ở nước ta hiện nay đã có những công trình nghiên cứu về nhân giống
lê, đó là kỹ thuật nhân giống vô tính: ghép cành, giâm cành và chiết cành.
- Kỹ thuật nhân giống lê bằng phương pháp ghép:
Ghép là sự kết hợp một bộ phận của cây này với một bộ phận của cây
khác, sao cho tầng sinh gỗ (mô phân sinh) trên mặt cắt của phần ghép tiếp hợp
với tầng sinh gỗ trên mặt cắt của cây gốc ghép, tạo thành một tổ hợp ghép
cùng sinh trưởng phát triển bình thường. Ghép là phương pháp nhân giống vô
tính được thực hiện bằng sự kết hợp của bộ phận cây này với bộ phận cây
khác tạo thành một tổ hợp ghép cùng sinh trưởng, cùng phát triển như một cây
thống nhất. Khi ghép ta gắn một bộ phận của cây giống (mắt ghép hay cành
ghép) sang một gốc cây khác (gọi là gốc ghép) để tạo nên một cây mới mà vẫn
giữ được các đặc tính của cây giống ban đầu.
Trên thân cây ta thấy có 2 phần (phần vỏ và phần gỗ), ở giữa vỏ và gỗ
có một lớp chất nhầy, lớp này gọi là "tượng tầng". Lớp này gồm các tế bào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


25
rất non trẻ và có khả năng phân chia mạnh, các tế bào này sẽ phân hoá ra
phía ngoài là lớp vỏ, phía trong là gỗ và sinh ra các bó dẫn. Khi ta ghép hai
bộ phận cây với nhau là áp tượng tầng của cành ghép lên tượng tầng gốc
ghép, các tế bào mới sản sinh của thân ghép và cành ghép sẽ liên hệ với
nhau, chất dinh dưỡng của gốc ghép và cành ghép được vận chuyển qua
nhau cuối cùng tạo thành một cơ thể mới có gốc của gốc ghép và thân cành
của cành ghép. Cây ghép hoàn toàn có thể giữ nguyên được những đặc tính
tính trạng của cây mẹ. Những đặc tính tính trạng đó chỉ có thể được nhân lên
trong trường hợp chúng ta chọn đúng tổ hợp ghép, đồng thời chăm sóc theo
đúng yêu cầu kỹ thuật.
Kỹ thuật nhân giống lê bằng phương pháp ghép muốn đạt kết quả cao thì
việc chọn tổ hợp ghép rất quan trọng. Theo các tác giả (Trần Thế Tục, Hoàng
Ngọc Thuận, 1995) [25, 108] đã chọn cây mác coọt làm gốc ghép cho lê. Tuy
nhiên theo kinh nghiệm của người làm vườn dùng mác coọt làm gốc ghép cho lê
là tốt hơn cả, vì quả có nhiều hạt(hạt có tỷ lệ nảy mọc cao 85%) cây con mọc
khoẻ và chóng đạt tiêu chuẩn ghép, gieo hạt vào tháng 2 nếu chăm sóc tốt thì đến
tháng 9, 10 là đã có thể ghép được. Hiện nay việc sử dụng gốc ghép cho lê tại các
tỉnh miền núi phía Bắc như: Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn đều
dùng hạt mác coọt. Bên cạnh việc chọn gốc ghép, chọn cành ghép cũng rất
quan trọng. Chỉ nên sử dụng những cành từ 4 tháng đến một năm tuổi, đường
kính gốc cành đạt 0,5 - 0,8cm, mọc thẳng, không có nhánh hoặc cành phụ,
không sử dụng cành tăm và cành sâu bệnh. Các cành được chọn trên những
cây mọc khoẻ, ở độ tuổi 10 - 15 năm, sai quả và hàng năm ra quả đều.
Hiện nay kỹ thuật ghép lê có rất nhiều phương pháp ghép: Ghép cành
(ghép chẻ bên, ghép nêm, ghép đoạn cành). Ghép mắt (ghép chữ T, ghép cửa
sổ, ghép mắt nhỏ có gỗ) [25, 108]. Thực tế cho thấy với ghép cành thì áp dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×