Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nâng cao chất lượng huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần công thương Lưu Xá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 108 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



HÀ THU TRANG


LUẬN VĂN THẠC SỸ


NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƢƠNG LƢU



Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 603401


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ngô Xuân Hoàng










THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hoạt động tài chính - ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc
phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng với xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế. Hoạt động tài chính ngân hàng đƣợc ví nhƣ hệ thống “huyết mạch”
của “cơ thể” kinh tế - xã hội. Để hệ thống các ngân hàng thƣơng mại (NHTM), một
trong những kênh phân phối vốn lớn của nền kinh tế có thể tồn tại, phát triển, hoạt
động thông suốt, điều hòa, cần phải nâng cao chất lƣợng huy động vốn nhằm tạo
nguồn vốn dồi dào, đa dạng phục vụ đầu tƣ tăng trƣởng kinh tế, ổn định giá trị đồng
tiền và tạo công ăn việc làm cho toàn xã hội.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc phát
triển vƣợt bậc. Kể từ khi Việt Nam ra nhập WTO ngày 7/11/2006, tốc độ hội nhập
kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam càng diễn ra nhanh chóng vừa là cơ hội,
vừa là thách thức lớn đối với hoạt động của hệ thống các NHTM Việt Nam. Bên
cạnh việc học hỏi đƣợc kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh…., các
NHTM trong nƣớc luôn phải đối mặt với áp lực phải tìm kiếm nguồn vốn có chất
lƣợng cao phục vụ cho nền kinh tế trong môi trƣờng cạnh tranh khốc liệt với các
NHTM trong và ngoài nƣớc.
Chi nhánh Ngân hàng thƣơng mại cổ phần (TMCP) Công thƣơng Lƣu Xá
thuộc hệ thống NH TMCP Công thƣơng Việt Nam - một trong những ngân hàng
thƣơng mại nhà nƣớc hàng đầu Việt Nam đã có nhiều thành công trong công tác
huy động vốn trên thị trƣờng. Tuy nhiên, phải đƣơng đầu với những bất cập trong
các chính sách về tài chính tiền tệ, về tỷ giá, với tình trạng khủng hoảng suy thoái
kinh tế và với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trƣờng tài chính - ngân hàng…, chi

nhánh Ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu Xá ¸ đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế về
qui mô, về lãi suất, về áp dụng các hình thức huy động vốn
Sau một thời gian khảo sát nghiên cứu tình hình thực tiễn công tác huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Công Thƣơng Lƣu Xá với mong muốn đƣợc góp phần nâng cao hiệu
quả huy động vốn của chi nhánh, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

động vốn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Lưu Xá’’ làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hƣớng tới 3 mục tiêu chính sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động huy động vốn và chất
lƣợng huy động vốn của NHTM
- Phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn và chất lƣợng huy động vốn
của Ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu xá. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng
huy động vốn từ đó đánh giá mặt mạnh, mặt còn hạn chế của công tác huy động vốn,
để thấy đƣợc tiềm lực của Ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu Xá, về công tác huy
động vốn.
- Trên cơ sở phân tích những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại trong công tác
huy động vốn, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả chất lƣợng của hoạt động huy động
vốn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu Xá.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: hoạt động huy động vốn của ngân hàng TMCP Công
thƣơng Lƣu xá
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn
của ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu xá
- Phạm vi thời gian: số liệu phục vụ cho phân tích đƣợc lấy chủ yếu trong
khoảng thời gian từ 2009 đến 2011, ngoài ra một số thông tin đƣợc lấy trong giai

đoạn 2005-2007
4. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ hơn những luận cứ khoa học mang tính lý luận, thực tiễn về huy
động vốn và chất lƣợng huy động vốn.
- Tìm ra những hạn chế trong công tác huy động vốn và phân tích nguyên
nhân của những hạn chế trong công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng
TMCP Công thƣơng Lƣu Xá .
- Đƣa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng huy động vốn
tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thƣơng Lƣu Xá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, một số biểu bảng, hình vẽ, đồ thị, danh mục các
công trình nghiên cứu của tác giả và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
gồm 3 chƣơng
Chƣơng 1: Một số vấn đề cơ bản về NHTM và chất lƣợng huy động vốn của NHTM
Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu vá chỉ tiêu nghiên cứu
Chƣơng 3. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHTM CP Công thƣơng
Lƣu Xá
Chƣơng 4. Giải pháp nâng cao chất lƣợng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Công thƣơng Lƣu Xá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5

Chƣơng 1
MỘT SÔ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ CHẤT LƢỢNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA NGÂN

HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm và vai trò của NHTM trong nền kinh tế
 Khái quát về NHTM
Theo Peter S. Rose (2001), Ngân hàng thƣơng mại ra đời và phát triển gắn
liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều
kiện thuận lợi và đòi hỏi phải có sự phát triển của ngân hàng, đến lƣợt mình, sự phát
triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Cùng với sự phát triển kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng
đã có những bƣớc tiến mạnh mẽ. Trƣớc hết là sự đa dạng về các hình thức sở hữu
và các hoạt động ngân hàng. Bên cạnh các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nƣớc là số
lƣợng lớn các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và ngân hàng nƣớc ngoài.
Nhiều nghiệp vụ ngân hàng hiện đại đang ngày càng phát triển bên cạnh các nghiệp
vụ ngân hàng truyền thống. Nhiều ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng,
cho vay đầu tƣ bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài
chính,… Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú, đa dạng; các loại hình
tiền gửi khác nhau đƣợc đƣa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày
nay, việc ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã và đang góp phần làm thay đổi
căn bản các hoạt động của ngân hàng thƣơng mại. Thanh toán điện tử chiếm ƣu thế
và thay thế dần thanh toán thủ công, làm đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện và an
toàn trong thanh toán. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ ngân
hàng trực tuyến đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho xã hội.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian quan trọng, không thể thiếu với
nền kinh tế của bất kì một quốc gia nào.

Nghề ngân hàng bắt đầu từ các thợ vàng hoặc những kẻ cho vay nặng lãi và
phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa. Cho đến nay, sự phát triển
của hệ thống ngân hàng trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả, thành động lực
cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Các cách định nghĩa về NHTM cũng rất khác nhau. Có thể định nghĩa dựa vào
chức năng, dựa vào các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp hoặc có khi là vai trò của
ngân hàng trong nền kinh tế. Tuy vậy, với sự phát triển không ngừng của thị trƣờng
tài chính, ngày càng có nhiều các tổ chức nhƣ công ty chứng khoán, các công ty bảo
hiểm, các quỹ tiết kiệm…đang cung cấp một số dịch vụ của ngân hàng và ngƣợc lại
ngân hàng cũng đang tìm cách mở rộng các dịch vụ cung cấp để tìm kiếm thêm lợi
nhuận, đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Có thể tham khảo một
số quan niệm về NHTM nhƣ sau:
Tại Anh, ngân hàng đƣợc xem là tổ chức tài chính cung cấp 3 loại hình dịch
vụ chính là dịch vụ trung gian tài chính (nhận tiền gửi và cho vay); dịch vụ thanh
toán và các loại hình dịch vụ khác.
Tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác thì “ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (Peter S. Rose, 2001)
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam “hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thƣờng xuyên là nhận tiền gửi
và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Nhƣ vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đƣa ra các khái niệm về ngân
hàng thƣơng mại. Có khái niệm đƣa ra thông qua chức năng, hoạt động, thông qua
các dịch vụ hoặc có khá i niệ m thông qua vai trò c ủa ngân hàng thƣơng mại trong
nền kinh tế. Đặc trƣng của các ngân hàng thƣơng mại so với các tổ chức tài chính
khác là chuyên về nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Bấ t kỳ
ngân hàng thƣơng mại hay tổ chức tài chính nào đều hoạt động trong phạm vi pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7


luật cho phép và đều hoạ t độ ng dựa trên cơ sở sự phát triển của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế. Cách tiếp cận có tính logic hơn là xem xét ngân hàng
thƣơng mại trên phƣơng diện những loại hình dịch vụ cung cấp. Theo đó, Luật các
tổ chức tín dụng của Việt Nam ban hành năm 2010 (Quốc hội, 2010) đã định nghĩa:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định Luật này
và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
Và:
“Ngân hàng loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
Và vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả sẽ sử dụng định nghĩa của luật tổ
chức tín dụng của Việt Nam ban hành 1998 về ngân hàng để làm cơ sở cho các
phân tích kế tiếp.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thƣơng mại
Ngày nay, trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng và không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội. Ngân hàng là tổ chức
cung cấp tín dụng chủ yếu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
và với hầu hết các thành phần kinh tế khác nhau . Ngân hàng cũng là tổ chƣ́ c cho
vay chủ yếu đối với các cá thể và hộ gia đình. Khi doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng
phải thanh toán các khoản mua hàng hoá, dịch vụ, họ có thể thay thế việc dùng tiền
mặt bằng việc sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản của hệ thống ngân hàng.
Nhƣ vậy, ngân hàng thƣơng mại vừa có chức năng là trung gian tài chính,
trung gian thanh toán đồng thời ngân hàng thƣơng mại cũng có chức năng cung ứng
các dịch vụ ngân hàng. Theo David Cox (1997) thì ngân hàng thƣơng mại có các
chức năng nhƣ sau:
Chức năng trung gian tài chính:
Ngân hàng thƣơng mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ
yếu là huy động mọi nguồn vốn từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân,

doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong xã hội và chuyển toàn bô nguồn vốn này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8

thành đầu tƣ, cho vay trong nền kinh tế. Có thể nói chức năng trung gian tài chính là
một trong những chức năng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng thƣơng mại.
Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
cung cấ p cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhƣ thanh toán bằng séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ, … tổ chƣ́ c mạng lƣới thanh toán điện tử. Các ngân
hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ƣơng.
Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô ứng dụng
công nghệ ngày càng đƣợc mở rộng và phát triển.
Chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
Trong điều kiện quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển, ngân hàng
thƣơng mại còn có thêm chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Nhiều ngân
hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả
mãn mọi nhu cầu. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào khả năng cung ứng và
thực hiện các dịch vụ ngân hàng có hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thƣơng mại
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống ngân
hàng cũng có những thay đổi cả về quy mô, cơ cấu tổ chức lẫn phƣơng thức hoạt
động…để phù hợp với tình hình mới. Nền kinh tế càng phát triển, hệ thống ngân
hàng càng có vai trò quan trọng, khái quát lại ta có thể thấy ngân hàng thƣơng mại
có vai trò sau:
- Ngân hàng thƣơng mại( NHTM) là trung gian cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Bằng các kênh huy động khác nhau, NHTM thu hút các luồng tiền nhàn rỗi trong
dân cƣ, các tổ chức kinh tế sau đó truyền tải đến cho các đối tƣợng cần sử dụng vốn

phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ NHTM mà các nhu cầu về vốn,
đặc biệt là vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp đƣợc đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Nhờ
đó hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế đƣợc diễn ra liên tục, nhịp nhàng.
- Ngân hàng thƣơng mại góp phần quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9

các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Doanh nghiệp phải tuân thủ những nguyên tắc
nhất định khi tham gia vào quan hệ tín dụng với ngân hàng nhƣ: tiền vay phải sử
dụng đúng mục đích, cam kết hoàn trả đủ vốn và lãi đúng hạn, thực hiện bảo đảm
tiền vay…Ngân hàng chỉ tài trợ cho các dự án hiệu quả về kinh tế - xã hội, đúng
pháp luật, vì vậy ngân hàng không chỉ là ngƣời cung cấp vốn cho các doanh nghiệp
kinh doanh mà còn gián tiếp giúp nhà nƣớc quản lý doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả, đúng pháp luật.
- Ngân hàng thƣơng mại là trung gian tài chính giúp chính phủ thực thi chính
sách tiền tệ. Qua hoạt động của NHTM, Ngân hàng Nhà Nƣớc( NHNN) có thể điều
chỉnh khối lƣợng tiền trong lƣu thông, tập hợp và phân chia vốn của thị trƣờng một
cách hợp lý và có hiệu quả hơn. Cũng từ đó chính phủ nắm bắt các tín hiệu phản hồi
của thị trƣờng thông qua NHTM để hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng thƣơng mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hiện nay, với chính
sách đối ngoại mở rộng, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, NHTM việt
Nam có vai trò quan trọng, với các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái,
bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, huy động vốn nƣớc ngoài…một mặt, tạo điều kiện
giao lƣu hàng hóa giữa các quốc gia, giúp các doanh nghiệp hội nhập thuận lợi vào
khu vực và quốc tế, là cầu nối nền tài chính quốc gia và quốc tế.
1.1.4 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
Khi nền kinh tế phát triển hơn, các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng và phức
tạp. Do đó các nhu cầu giao dịch tài chính ngày càng phong phú. Để đáp ứng điều này,
các dịch vụ ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng hoàn thiện hơn.

Ngân hàng thƣơng mại có các nghiệp vụ cơ bản:
- Huy động vốn, lợi nhuận của các khoản tín dụng giúp ngân hàng tồn tại và
phát triển, do đó các ngân hàng luôn tìm cách mở rộng quy mô cho vay trong những
điều kiện nhất định. Tuy vậy, vốn để cho vay thuộc sở hữu của ngân hàng không
nhiều, nên ngân hàng phải huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng rất đa dạng, có thể là tiền gửi, tiền vay hoặc các
quỹ…Nghiệp vụ này huy động những khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10

chuyển đến cho những đối tƣợng cần vốn để sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập cho
ngƣời gửi tiền, thúc đẩy lƣu thông tiền tệ.
- Cho vay, tài trợ dự án. Trong cho vay bao gồm, thứ nhất là cho vay thƣơng
mại, ban đầu các ngân hàng chiết khấu thƣơng phiếu mà thực tế là cho vay đối với
ngƣời bán. Và, sau đó chuyển sang cho vay với ngƣời mua, giúp họ có vốn để mua
hàng hóa dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Thứ hai là cho vay tiêu dùng,
sự gia tăng thu nhập của ngƣời tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc
các ngân hàng hƣớng tới ngƣời tiêu dùng nhƣ khách hàng tiềm năng. Hiện nay ở
Việt Nam, tín dụng tiêu dùng có những điều kiện thuận lợi để phát triển và tăng
trƣởng. Bên cạnh các hình thức cho vay truyền thống, các ngân hàng ngày càng trở
nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các
ngành công nghệ cao. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nhƣng lãi thu
đƣợc lớn, nên vẫn hấp dẫn các ngân hàng tham gia.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi các doanh
nhân gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản tiền mà còn thực hiện
các lệnh chi trả cho khách hàng của ngƣời gửi tiền. Thanh toán qua ngân hàng mở
đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là ngƣời gửi tiền chỉ cần viết giấy chi
trả cho khách và khách mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận đƣợc tiền. Các tiện ích
của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian và nâng cao thu
nhập cho các doanh nhân. Khi các ngân hàng mở thêm chi nhánh, mở rộng phạm vi

hoạt động, cung cấp thêm nhiều tiện ích sẽ thu hút các doanh nhân gửi tiền để nhờ
ngân hàng thanh toán hộ. Nhƣ vậy tài khoản tiền gửi đƣợc phát triển, cho phép
ngƣời gửi tiền thực hiện chi trả cũng nhƣ nhận tiền một cách nhanh chóng, tiết
kiệm chi phí. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều hình thức thanh
toán đƣợc phát triển nhƣ: Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
- Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tƣ chứng khoán. Các ngân hàng phấn
đấu ngày càng cung cấp nhiều các dịch vụ tài chính nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu của
khách hàng. Do đó, hiện nay các ngân hàng đã thành lập các công ty chứng khoán
hoặc công ty môi giới chứng khoán nhằm cung cấp cho khách hàng những dịch vụ
môi giới chứng khoán, các cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu.
- Cho thuê thiết bị trung và dài hạn. Nhằm để bán đƣợc các thiết bị, đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11

các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thƣơng mại đã cho thuê các thiết bị,
cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua lại (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê
mua). Để cạnh tranh, các ngân hàng tích cực mua các máy móc thiết bị sau đó cho
khách hàng thuê thông qua hợp đồng thuê mua. Hợp đồng này thƣờng phải thỏa
mãn yêu cầu là khách hàng phải trải tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Hình
thức cho thuê này cũng có nhiều điểm giống nhƣ cho vay và đƣợc xếp vào tín dụng
trung và dài hạn.
- Kinh doanh ngoại tệ. Theo đó, ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền
này lấy một loại tiền khác và hƣởng phí dịch vụ. Việc mua bán ngoại tệ yêu cầu
phải có trình độ chuyên môn cao, do mức độ rủi ro rất cao. Do vậy, mua bán ngoại
tệ thƣờng chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện.
- Bảo quản vật có giá. Ngân hàng thực hiện việc lƣu giữ vàng và các vật có
giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản, và trao cho khách giấy biên nhận. Do
khả năng chi trả bất kỳ lúc nào của giấy biên nhận nên chúng đƣợc sử dụng nhƣ tiền
để thanh toán nợ trong phạm vi ảnh hƣởng của ngân hàng phát hành. Hiện nay
khách hàng phải trả phí bảo quản.

- Bảo lãnh, do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng là lớn
và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín cao trong
việc bảo lãnh cho khách hàng. Để thu hút và tạo mối liên hệ mật thiết với khách
hàng, ngân hàng thƣờng bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và
trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác, dự thầu,
xuấn nhập khẩu… trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng
và phát triển mạnh.
- Cung cấp dịch vụ ủy thác và tƣ vấn. Các ngân hàng có rất nhiều chuyên
gia về quản lý tài chính, do đó, nhiều khách hàng đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản
và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển cả ủy thác vay hộ, ủy
thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tƣ…với nhiều khách hàng ngân
hàng còn là chuyên gia tƣ vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sang tƣ vấn về đầu tƣ, về
quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
- Cung cấp các dịch vụ đại lý. Các ngân hàng không thể thiết lập văn phòng
đại diện, chi nhánh ở khắp nơi. Do đó, nhiều ngân hàng lớn đã cung cấp dịch vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12

ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác nhƣ: thanh toán hộ, phát hành hộ các
chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ. Với khả năng huy động và cho vay
với khối lƣợng lớn, ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Các
chính phủ thƣờng phải chi tiêu nhiều và gấp, trong khi thu không đủ, nên đều muốn
tiếp cận với các khoản cho vay của các ngân hàng. Hiện nay các chính phủ đều
giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng, do vậy các ngân hàng
đƣợc cấp phép thành lập với điều kiện là phải tài trợ và thực hiện một mức độ nào
đó các chính sách của chính phủ.
- Quản lý ngân quỹ. Nhiều cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản và gửi tiền
ở ngân hàng. Các ngân hàng, bên cạnh mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, cùng
kinh nghiệm quản lý ngân quỹ và thu ngân, đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ

quản lý ngân quỹ. Theo đó, ngân hàng quản lý việc thu – chi cho khách hàng và đầu
tƣ vào các nghiệp vụ tài chính ngắn hạn thu lợi, cho đến ki khách hàng cần tiền để
thanh toán.
1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.2.1. Các khái niệm về huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại
Để tiện cho việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề huy động vốn của ngân hàng
thƣơng mại, trƣớc hết chúng ta cần nắm đƣợc định nghĩa vốn của ngân hàng thƣơng
mại là gì ? Cũng giống nhƣ mọi hoạt động kinh tế khác, ngân hàng thƣơng mại
muốn hoạt động thì phải có vốn, nhƣng vì hàng hoá mà các ngân hàng kinh doanh
là hàng hoá đặc biệt - đó là tiền nên buộc họ phải tìm cách mua vốn trên thị trƣờng
tài chính. Thực chất là các ngân hàng kinh doanh “quyền sử dụng vốn” tức ngƣời
cần vốn phải trả lãi cho ngƣời có vốn trên thị trƣờng một khoản phí để có đƣợc
quyền sử dụng vốn trong thời gian xác định. Thông qua thị trƣờng, vốn đƣợc lƣu
chuyển rộng rãi, từ đó mới có thể thể hiện đủ bản chất và vai trò của mình.
Nhìn chung, vốn của ngân hàng thƣơng mại có thể đƣợc hiểu là những giá trị
tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động đƣợc dùng để đầu tƣ, cho vay hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng
thƣơng mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vốn kinh doanh của
ngân hàng thƣơng mại đƣợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ vốn tự có,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13

vốn huy động, vốn trong thanh toán Về bản chất vốn của ngân hàng là một bộ
phận thu nhập quốc dân nhàn rỗi trong quá trình phân phối và tiêu dùng mà ngƣời
chủ sở hữu với các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng.
Do vậy, nhu cầu về vốn của ngân hàng là rất lớn và việc tạo vốn cho ngân
hàng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thƣơng mại, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao thì
hoạt động huy động vốn cần phải đƣợc quan tâm đúng mức. Vậy hoạt động huy
động vốn là gì?

Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có thể hiểu rằng huy động vốn là
hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thƣơng mại, là những giá trị tiền tệ mà
ngân hàng huy động đƣợc từ lƣợng tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và các cá
nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn từ
nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay
vốn của ngân hàng nhà nƣớc làm nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình (Quốc hội, 2010).
1.2.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn đối với NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng
phải có vốn, vì vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất. Đối với ngân
hàng cũng vậy, là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó là tiền, tiền
vừa là vốn vừa là hàng hoá. Do vậy, muốn kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng
cần thực hiện tốt hoạt động huy động vốn vì những lý do sau:
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, vì khác với
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thông thƣờng, hoạt động kinh doanh
tiền của ngân hàng có những đặc trƣng riêng. Vốn không chỉ là phƣơng tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tƣợng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh
doanh hàng hoá đặc biệt trên thị trƣờng tiền tệ và những ngân hàng có lƣợng vốn
dồi dào là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Vì vậy ngoài nguồn vốn
ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới
việc tăng trƣởng vốn trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14

Trong điều kiện bình thƣờng, đầu vào luôn ảnh hƣởng trực tiếp tới đầu ra.
Đối với ngân hàng vốn là yếu tố đầu vào, còn tín dụng, đầu tƣ là yếu tố đầu ra. Vì
vậy, so với ngân hàng lớn các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tƣ và cho vay kém
đa dạng hơn. Hơn nữa, do vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng

nhanh nhạy với những đợt biến động lãi suất, ảnh hƣởng trực tiếp đến khả năng huy
động vốn đầu tƣ từ dân chúng và các thành phần kinh tế, đồng thời khó có thể mở
rộng đầu tƣ vào cơ sở vật chất hạ tầng, công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh,
cũng nhƣ việc đầu tƣ vào các danh mục đầu tƣ dài hạn, tham gia vào thị trƣờng
chứng khoán trong điều kiện nhƣ hiện nay.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trƣờng. Cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng
vốn là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng
minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện
tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về
quy mô, khối lƣợng tín dụng, chủ động về thời gian, lãi suất. Kết quả của sự gia
tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trƣờng, phân tán rủi ro, và khi
đó, tất yếu trên thị trƣờng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tƣởng lẫn nhau, vì bản chất của ngân
hàng là “đi vay để cho vay”, nếu không có uy tín thì ngân hàng không thể tồn tại và
phát triển. Uy tín thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng
của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao khi vốn khả dụng của
ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân
hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng
nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy
mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa
giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thƣơng trƣờng.
Tóm lại, bản chất của ngân hàng là huy động để cho vay hay nguồn vốn ngân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15


hàng huy động đƣợc lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên hoạt động
huy động vốn càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Do vậy, hoạt động huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các ngân hàng
thƣơng mại và nó quyết định rất lớn đến thành công hay thất bại của ngân hàng.
1.2.3. Các nguồn huy động vốn trong NHTM tại Việt Nam
 Vốn chủ sở hữu
Cũng giống nhƣ bất kỳ một doanh nghiệp nào, để bắt đầu hoạt động ngân
hàng phải có một lƣợng vốn nhất định (theo pháp luật quy định từng thời kỳ) (Peter
S. Rose, 2001). Đây là nguồn vốn sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà
cửa cho ngân hàng, gồm:
• Nguồn vốn hình thành ban đầu, tùy theo tính chất sở hữu của mỗi ngân
hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác nhau. Là ngân hàng Quốc doanh thì do
Ngân sách Nhà Nƣớc cấp, là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông đóng góp thông qua
mua cổ phần hoặc cổ phiếu, là ngân hàng Liên doanh thì do các bên liên doanh
đóng góp, là ngân hàng Tƣ nhân thì vốn của tƣ nhân.
• Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Trong quá trình hoạt động,
các ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phƣơng thức khác
nhau, cụ thể là: nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành them cổ phần, góp
them, cấp thêm…
• Các quỹ, các ngân hàng thƣờng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng.
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng, nguồn hình thành các quỹ
này là từ thu nhập của ngân hàng.
 Vốn nợ
Vốn nợ là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động ngân hàng, nguồn này rất quan
trọng và đa dạng gồm:
 Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vƣợng và phát triển của ngân hàng .Tiền gửi
là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải
đƣợc thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi kì hạn chƣa tới

hạn. Sự thay đổi của tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16

khoản của ngân hàng. Quy mô của tiền gửi cũng lớn so với các nguồn khác, tiền gửi
là đối tƣợng phải dự trữ bắt buộc, phải mua bảo hiểm, do vậy chi phí tiền gửi
thƣờng cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thƣờng
nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều
nhân tố khác. Tiền gửi tại ngân hàng có nhiều loại, các ngân hàng thƣờng dựa vào
lãi suất để cạnh tranh với nhau. Hiện nay, các ngân hàng đã đƣa ra nhiều hình thức
huy động tiền gửi khác nhau:
- Tiền gửi giao dịch. Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà
ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để giữ và thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi
giao dịch đòi hỏi ngân phải thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho một cá nhân
hay cho bên thứ ba, đƣợc chỉ rõ là ngƣời thụ hƣởng. Các khoản thu bằng tiền của
khác hàng đều có thể nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. lãi suất của tiền gửi
giao dịch rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể đƣợc hƣởng các dịch vụ ngân
hàng với mức phí thấp. Hiện nay một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh
toán với các tài khoản cho vay hoặc nâng lãi suất để cạnh tranh vớ ngân hàng khác.
- Tiền gửi phi giao dịch, là tài khoản tiền gửi tiết kiệm đƣợc lập ra để thu hút
vốn của những ngƣời hay doanh nghiệp muốn dành riêng một khoản tiền cho những
mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính đƣợc dự tính trong tƣơng lai. Lãi suất áp
dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so vời tiền gửi giao dịch.Tuy chi phí trả
tiền lãi cao nhƣng chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm phi
giao dịch nói chung là thấp. Mặt khác với tiền gửi phi giao dịch, ngƣời gửi không
đƣợc sử dụng các hình thức thanh toán nhƣ đối với tiền gửi giao dịch. Nếu cần chi
tiêu, ngƣời gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra. Tuy phải trả phí cao hơn so với tiền
gửi giao dịch nhƣng đổi lại tiền gửi phi giao dịch có tính ổn định cao hơn, giúp ngân
hàng có thể chủ động lập kế hoạch sử dụng nguồn này một cách có hiệu quả.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cƣ. Khi ngƣời dân có các khoản thu nhập tạm

thời chƣa sử dụng, trong khả năng có thể tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi
tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lợi. Để thu hút tiền tiết kiệm, các ngân
hàng luôn khuyến khích ngƣời dân thay đổi thói quen để tiền tại nhà bằng nhiều
phƣơng thức nhƣ: mở rộng mạng lƣới huy động, lãi suất cạnh tranh, đa dạng hình
thức huy động…trong thời gian gần đây tiền gửi tiết kiệm của dân cƣ ngày càng gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17

tăng và có tính ổn định cao, đóng vai trò quan trọng trong nguồn vốn của các ngân
hàng thƣơng mại.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác. Với mục đích nhờ thanh toán hộ và thu lãi,
NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác, tuy nhiên quy mô nguồn này thƣờng
không lớn và thời gian thƣờng không lâu. Tuy nhiên, nguồn tiền này cũng có vaia trò
quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng trong những điều kiện nhất định.
 Nguồn đi vay
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu vay vốn
của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các
NHTM có thể đi vay ở ngân hàng trung ƣơng, ở các ngân hàng khác, vay ở thị
trƣờng tiền tệ, vay các tổ chức ngoài nƣớc…Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có
thể chấp nhận đƣợc trong kết cấu nguồn vốn, nhƣng nó rất cần thiết và có vị trí quan
trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thƣờng.
Dƣới đây sẽ xem xét một số nguồn vay chủ yếu:
- Vay ngân hàng trung ƣơng (NHTW). Ngân hàng thƣơng mại phải cho vay
tới mức mà NHTW cho phép để tối đa hóa lợi nhuận. Nhƣng không phải lúc nào
hoạt động của ngân hàng cũng đều thuận lợi. Dù rất thận trọng trong cho vay,
NHTM cũng khó tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt tiền mặt.
Ngân hàng trung ƣơng là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các
ngân hàng trong các trƣờng hợp kẹt tiền, là nguồn cho vay sau cùng. Thông thƣờng,
tất cả các ngân hàng và một số tổ chức tài chính khác trong nƣớc đƣợc NHTW cho
phép thành lập đều đƣợc hƣởng quyền vay tiền tại NHTW trong những tình huống

thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Cho dù NHTW áp dụng mức lãi suất chiết khấu
hoặc mức lãi phạt cao hay thấp thế nào đi nữa, nó vẫn phải cho NHTM vay khi họ
gặp khó khăn trong thanh khoản để tránh những khủng hoảng tài chính không đáng
xảy ra. Đứng về phía NHTM, vay mƣợn tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi
và hào hứng vào những khi NHTW hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng
tiền nới lỏng để kích thích cho vay và đầu tƣ, lúc này khoản vay từ NHTW trở nên
lớn hơn. Ngƣợc lại, khi NHTM đến vay giữa lúc NHTW không muốn sự bành
trƣớng tín dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát.
Lúc đó lãi suất chiết khấu đƣợc nâng lên cao và với các khoản lỗ trông thấy khi vay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18

vốn của NHTW, các ngân hàng chỉ miễn cƣỡng vay trong những tình huống thật
ngặt nghèo và tìm cách trả nợ rất nhanh. Khi ấy khoản vay từ NHTW chỉ chiếm một
phần rất ít trong tài sản nợ. Đứng về phía NHTW, với tƣ cách là ngân hàng của các
ngân hàng, NHTW luôn luôn là chủ nợ của hệ thống ngân hàng. Có là chủ nợ,
NHTW mới đễ điều khiển và giám sát hệ thống NHTM. Vị trí chủ nợ này là cần
thiết để NHTW có thể điều tiết việc mở rộng khối lƣợng tiền tệ. Cũng chính vì lẽ đó,
các NHTM không bao giờ đƣợc phép gửi tiền có lãi tại NHTW, vì điều đó sẽ chôn
vùi vị trí chủ nợ của NHTW. Một vấn đề chủ yếu đối với khả năng điều tiết của
NHTW là việc NHTW chỉ đƣợc phép cho các NHTM vay ngắn hạn. Đây là điều
cần thiết, vì và chỉ có nhƣ vậy NHTW mới có thể phản ứng nhanh trƣớc những rối
loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí cấp vốn.
- Vay các tổ chức tín dụng khác, trên thị trƣờng liên ngân hàng khi một
ngân hàng nảy sinh nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách thì có thể liên hệ trực tiếp với
các ngân hàng khác – ngân hàng đang có dự trữ vƣợt yêu cầu để vay, trong nhiều
trƣờng hợp đây có thể là khoản vay bổ sung hoặc thay thế cho các khoản vay từ
NHTW. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc đƣợc đảm bảo bằng chứng
khoán chính phủ.
- Vay trên thị trƣờng vốn, vay NHTW và vay các tổ chức tín dụng khác

thƣờng chỉ đáp ứng đƣợc nhu cầu về vốn ngắn hạn, trong khi ngân hàng phải đáp
ứng các khoản vay trung và dài hạn cho khách hàng. Trong những trƣờng hợp thiếu
hụt này, các ngân hàng thƣờng vay trên thị trƣờng vốn bằng cách phát hành các giấy
nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Thông thƣờng đây là khoản vay không đảm bảo,
cho nên ngân hàng nào có uy tín và lãi suất huy động cao hơn sẽ vay mƣợn đƣợc
nhiều hơn. Ngoài ra, khả năng vay mƣợn còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị
trƣờng tài chính. Thủ tục vay mƣợn trên thị trƣờng vốn tƣơng đối phức tạp nên ngân
hàng cần nghiên cứu kỹ thị trƣờng để đƣa ra quy mô, thời hạn, lãi suất… phù hợp.
 Nguồn vốn nợ khác
Ngoài các nguồn chủ yếu trên, nguồn vốn của ngân hàng còn đƣợc cấu thành
bởi các nguồn khác, đó là: tiền ủy thác, tiền trong thanh toán và các khoản tiền khác.
- Tiền ủy thác, trong hoạt động của mình ngân hàng nhận làm đầu mối ủy
thác cho các đối tƣợng có nhu cầu, nhƣ: ủy thác cho vay, ủy thác cấp phát, ủy thác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19

đầu tƣ, ủy thác thu hộ…tạo nên các nguồn ủy thác cho ngân hàng, làm gia tăng
nguồn vốn của ngân hàng.
Tiền trong thanh toán, sự phát triển mạnh của thanh toán không dùng tiền
mặt hiện nay đã hình thành nguồn tiền trong thanh toán, hoặc các ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ cũng hình thành nguồn tiền này.
1.3. HIỆU QUẢ TRONG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.3.1 Khái niệm hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại
Bất cứ hoạt động nào của mình, con ngƣời cũng đều quan tâm đến hiệu quả.
Điều này có nghĩa với một lƣợng chi phí nhất định, con ngƣời đều mong muốn có
một kết quả lớn nhất, đáp ứng nhu cầu cao nhất của con ngƣời hoặc muốn tạo ra
một khối lƣợng sản phẩm cho trƣớc, con ngƣời muốn chi phí ít nhất. Hiện nay có
nhiều quan niệm về hiệu quả, có thể xem xét một số định nghĩa sau về hiệu quả:
- Trong “ Đại từ điển tiếng Việt”, hiệu quả là” kết quả đích thực”.
- Trong “ Đại từ điển kinh tế thị trƣờng”, thì ” Hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu

ích ich tế”, là so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế với thành
quả có ích đạt đƣợc. Nói một cách đơn giản, đó là sự so sánh giữa đầu vào với
đầu ra, giữa chi phí với kết quả. Nó là thƣớc đo khách quan để đánh giá chính sách
kinh doanh, hoạt động kinh tế. Nói chung, sản phẩm có ích cho xã hội đƣợc sản
xuất ra cùng một số lƣợng, chất lƣợng thì lƣợng lao động chiếm dụng và tiêu hao ít
thì hiệu quả kinh tế sẽ cao, còn ngƣợc lại là kém.
Phạm trù hiệu quả phản ánh mối quan hệ tƣơng hỗ giữa mục đích, kết quả, chi
phí, nguồn lực trong huy động, hay một quá trình đƣợc nghiên cứu. Theo đó để
đánh giá hiệu quả :
- Một là, cần so sánh giữ mục đích đề ra với kết quả thu đƣợc.
- Hai là, so sánh kết quả thu đƣợc với chi phí.
Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn, em nhìn nhận hiệu quả huy động vốn của
ngân hàng thương mại là kết quả đích thực thu được của hoạt động huy động
vốn ngân hàng.
Để hoạt động kinh doanh đạt đƣợc lợi nhuận cao, các ngân hàng phải đảm bảo
cho các hoạt động đạt hiệu quả. Huy động vốn là một hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thƣơng mại, hiệu quả trong huy động vốn góp phần quan trọng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20

hoạt động ngân hàng nói chung và trong việc tạo nên lợi nhuận nói riêng. Là một
hoạt động kinh doanh nên có thể hiểu hiệu quả huy động vốn với ngân hàng là mối
tƣơng quan so sánh giữa các kết quả đạt đƣợc và chi phí bỏ ra. Hiệu quả này càng
cao khi kết quả đạt đƣợc càng cao và chi phí bỏ ra càng thấp. Hiệu quả huy động
vốn góp phần quan trọng tạo nên lợi nhuận ngân hàng, tạo sự ổn định của nguồn
vốn, thúc đẩy tăng trƣởng và hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại
Nhƣ đã biết, hoạt động của các ngân hàng là hoạt động với mục đích có lãi và
trong điều kiện nguồn lực ngày càng khan hiếm thì buộc các ngân hàng phải quan
tâm đến hiệu quả hoạt động. Nâng cao hiệu quả trong hoạt động là cơ sở vật chất để

đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói
chung. Huy động vốn là một hoạt động quan trọng của ngân hàng thƣơng mại, vì vậy
muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì phải nâng cao hiệu quả huy động vốn. Hiệu
quả huy động vốn là phạm trù phức tạp, phản ánh trình độ huy động nguồn lực nhằm
đạt đƣợc các mục tiêu kinh doanh (Frediric S. Mishkin, 1995).
Do vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, xét cả về mặt định tính và định
lƣợng có thể đánh giá dựa trên các tiêu thức chính sau:
• Quy mô và cơ cấu vốn huy động.
• Chi phí huy động vốn.
• Sự phù hợp giữa mục đích huy động với yêu cầu sử dụng vốn.
1.2.2.1 Quy mô và cơ cấu vốn huy động
* Quy mô vốn huy động
Các ngân hàng luôn kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn huy động, để đảm bảo khả
năng chi trả và khi có nhu cầu vốn bất ngờ ( để không phải huy động từ các nguồn
với chi phí cao). Thông thƣờng, ngay từ đầu năm tài chính các ngân hàng đều lập kế
hoạch huy động vốn, và tiến hành huy động trong năm để có đƣợc lƣợng huy động
thực tế. Và các ngân hàng thƣơng mại thƣờng dùng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy
động (TLHTKHHĐ) để đánh giá quy mô vốn huy động đƣợc.

TLHTKH =
Tổng vốn huy động
(%)
Kế hoạch huy động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21

Nếu tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động lớn hơn 100%, tức là lƣợng vốn huy
động thực tế lớn hơn kế hoạch. Khi đó ngân hàng phải cố gắng sử dụng hợp lý số
vốn thừa ( theo kế hoạch), nếu không chi phí sẽ tăng do không sinh lời mà vẫn phải

trả lãi và các chi phí huy dộng khác. Ngƣợc lại, nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100%, điều
đó nghĩa là, ngân hàng sẽ phải huy động từ các nguồn khác ( nếu cần) để bổ sung
vốn hoạt động. Khi đó, có thể ngân hàng sẽ mất thêm chi phí hoặc mất cơ hội tăng
thu nhập, làm ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy vậy tỷ lệ này
không phải bằng 100% là tốt nhất, mà phải căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn thực tế.
Quy mô nguồn vốn cần đƣợc xây dựng cho từng giai đoạn cụ thể, bao gồm: kế
hoạch gia tăng nguồn, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn, và khả năng tìm kiếm nguồn
vỗn mới. Kế hoạch huy động vốn phải đƣợc đặt trong mối liên hệ với kế hoạch sử
dụng vốn và lợi nhuận kỳ vọng.
* Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn huy động có vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng.
Khi xem xét cơ cấu nguồn vốn, ngƣời ta thƣờng xét tỷ lệ vốn huy động từ các
nguồn trên tổng vốn huy động. Đây là việc làm cần thiết khi ngân hàng xem xét
hiệu quả huy động vốn, bởi vì, kỳ hạn , lãi suất, sự ổn định của từng nguồn vốn cụ
thể sẽ ảnh hƣởng đến kỳ hạn , lãi suất, sự ổn định của tổng nguồn vốn huy động. Tỷ
lệ này đƣợc thể hiện qua công thức:
Tỷ lệ huy động từ các nguồn =
Lƣợng vốn huy động từ nguồn cụ thể
(%)
Tổng vốn huy động
Việc huy động, điều chỉnh tỷ lệ này sẽ do nhu cầu sử dụng vốn thực tế của
từng nguồn cụ thể. Cơ cấu nguồn vốn là hợp lý khi cơ cấu đó phù hợp với kế hoạch
sử dụng vốn, và có chi phí huy động thấp.
Khi xác định quy mô và cơ cấu nguồn vốn cũng cần tính đến tính thanh khoản
của nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn đƣợc đo bằng khả năng tìm kiếm
nguồn vốn mới với chi phí và thời gian ít nhất.
1.2.2.2. Chi phí vốn
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn chủ sở hữu của các
ngân hàng thƣờng không thể đáp ứng đƣợc nhu cầu sử dụng, do vậy ngân hàng phải
huy động vốn để sử dụng với một chi phí nhất định. Do chi phí huy động vốn tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22

động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng nên khi xét hiệu quả huy động
vốn, ta phải xét đến chi phí huy động vốn. Chi phí huy động vốn đƣợc tính nhƣ sau:
Chi phí huy động vốn = Lãi trả cho nguồn huy động + Chi phí huy động khác.
Trong đó, lãi trả cho nguồn huy động là thành phần quan trọng ảnh hƣởng đến
quy mô và hiệu quả huy động:
 Lãi trả nguồn huy động = Quy mô huy động*Lãi suất huy động
 Chi phí huy động khác trong huy động vốn rất đa dạng, và không ngừng gia
tăng trong điều kiện các ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi
phí trả trực tiếp cho ngƣời gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thƣởng, kèm bảo
hiểm…), chi phí tăng tính tiện ích cho ngƣời gửi tiền (mở chi nhánh, quầy phòng,
điểm huy động, trang bị máy đếm, soi tiền cho khách kiểm tra, huy động tại nhà, tại
cơ quan…), chi phí lƣơng cán bộ phòng nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi…Một
số chi phí khác đƣợc tính chung vào chi phí quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt
động huy động vốn.
Việc xác định chi phí huy động vốn là công việc phức tạp và khó khăn, quyết
định tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại. Vì vậy, huy động vốn
đƣợc coi là hiệu quả xét trên phƣơng diện chi phí khi:
 Ngân hàng huy động đƣợc vốn với chi phí thấp để sử dụng, trong khi vẫn đạt
đƣợc yêu cầu về sự phù hợp giữa huy động và sử dụng vốn.
 Ngân hàng quản lý chi phí thƣờng xuyên, coi đây là công việc quan trọng, vì khi
có thay đổi cơ cấu nguồn hay lãi suất đều làm thay đổi chi phí trả lãi.
Thông thƣờng các ngân hàng chịu chi phí thấp với nguồn có thời hạn ngắn do
tính ổn định không cao, và ngƣợc lại chịu chi phí cao với nguồn có thời hạn dài do
tính ổn định của nó.
Việc chi phí vốn huy động sẽ tác động đến thu nhập của việc sử dụng nguồn
vốn huy động, vì thế các ngân hàng luôn tìm cách giảm tối đa chi phí để tăng lợi
nhuận. Thu nhập sẽ là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả huy động vốn.

Chỉ tiêu này đƣợc tính nhƣ sau:
Thu nhập từ sử
dụng vốn
=
Doanh thu từ lãi
sử dụng vốn

Chi phí huy động
vốn .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23

Ngoài ra, để xem xét hiệu quả huy động vốn, ngƣời ta cũng thƣờng sử dụng
thêm chỉ tiêu: Tỷ suất lợi nhuận vốn huy động( TSLNVHĐ). Chỉ tiêu này đƣợc
tính theo công thức sau:
TSLNVHĐ =
Thu nhập sau thuế vốn huy động
(%)
Chi phí vốn huy động

Tỷ suất này càng cao thì hiệu quả huy động vốn càng cao.
1.2.2.3. Phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Hoạt động chính của ngân hàng thƣơng mại là huy động vốn để sử dụng nhằm
thu lợi nhuận. Theo đó ngân hàng sẽ chuyển hóa nguồn vốn – tiền gửi, tiền vay, vốn
của chủ - thành các loại tài sản nhƣ ngân quỹ, tín dụng, chứng khoán, các tài sản
khác theo một phƣơng thức thích hợp, nhằm thỏa mãn các mục tiêu mà ngân hàng
đặt ra (Frediric S. Mishkin, 1995) .
Tài sản mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng còn nguồn vốn liên quan tới
chi phí chủ yếu của ngân hàng, chi phí trả lãi. Quy mô huy động càng tăng, tài sản

càng tăng, khả năng sinh lời có thể càng lớn hơn hoặc ngƣợc lại. Nếu dùng chỉ tiêu
chênh lệch thu chi từ lãi ( thu nhập từ lãi – chi phí trả lãi) để đo mối liên hệ sinh lời
giữa nguồn vốn và tài sản, thì sinh lời tăng khi lãi suất bình quân của tài sản phải
lớn hơn lãi suất bình quân của nguồn vốn, hoặc lãi suất biên của tài sản phải lớn
hơn lãi suất biên của nguồn vốn. Điều này có nghĩa là nguồn vốn và sự gia tăng
nguồn vốn với quy mô và cấu trúc nhất định, cần đƣợc phân bổ ( tạo thành) các tài
sản sinh lời thích hợp.
Ngân hàng có thể theo đuổi lãi suất huy động cao để tìm kiếm các nguồn tiền
với quy mô lớn, để cho vay với lãi suất cao, hoặc từ lãi suất cho vay phải chấp nhận
trên thị trƣờng, lỗ lực tìm kiếm các nguồn với chi phí thấp. Những ngân hàng không
tham gia đặt giá, phải tự điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và tài sản nhằm thỏa mãn nhu
cầu sinh lời.
Quy mô và cấu trúc tiền gửi liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ và chứng khoán
thanh khoản cũng nhƣ kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng. Một số ngân hàng từ cấu
trúc, tính ổn định và thanh khoản của nguồn, sẽ quyết định cấu trúc, tính thanh
khoản của tài sản. Một số ngân hàng, ngƣợc lại, từ quy mô và cấu trúc tài sản tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24

tính sẽ tìm kiếm, quản lý quy mô và cấu trúc nguồn cho thích hợp. Một danh mục
tài sản bao gồm các khoản cho vay và rủi ro cao, có thể bị tổn thất lớn, làm giảm uy
tín của ngân hàng. Phản ứng của dân chúng là rút tiền ra khỏi ngân hàng. Nguồn
tiền suy giảm nhanh và mạnh sẽ đẩy ngân hàng đến phá sản. Ngƣợc lại, một danh
mục tài sản nếu bao gồm phần lớn các tài sản rủi ro thấp sẽ hạn chế thu nhập của
ngân hàng, hạn chế ngân hàng mở rộng quy mô trong môi trƣờng kinh doanh đầy
biến động. Khả năng mở rộng thị trƣờng nguồn vốn của ngân hàng sẽ bị giảm sút.
Sau khi nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn, ta sẽ tiếp tục
nghiên cứu các nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả huy động vốn để từ đó dƣa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại

Có nhiều nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thƣơng
mại, sau đây là một số nhân tố chủ yếu.
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
 Chính sách huy động vốn của ngân hàng: Lãi suất là nhân tố quan trọng khi
khách hàng gửi tiền. Lãi suất cũng là một chính sách quan trọng trong hoạt động
ngân hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng phải thể hiện đƣợc sự linh hoạt, hấp
dẫn khách hàng đồng thời đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hiện nay, các ngân
hàng thƣờng sử dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút tiền gửi. Bên cạnh đó
các hình thức huy động phong phú và đa dạng, tạo đƣợc nhiều tiện ích cho ngƣời
gửi tiền cũng sẽ huy động đƣợc nhiều vốn hơn.
 Uy tín của ngân hàng: Khách hàng thƣơng lựa chọn ngân hàng có uy tín để
gửi tiền. Uy tín của ngân hàng thể hiện qua quá trình hoạt động của ngân hàng, loại
hình ngân hàng, quy mô vốn, trình độ cán bộ ngân hàng, gia trị thƣơng hiệu, hay kết
quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng có thể tạo uy tín cho mình
bằng cách làm cho ngƣời gửi tiền tin tƣởng về phong cách phục vụ, khoản tiền gửi
phải đƣợc trả lại cả gốc và lãi đúng hạn. Bên cạnh đó chính sách quảng bá thƣơng
hiệu cũng là một biện pháp tốt để tăng uy tín ngân hàng. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng lẫn phong cách phụ vụ cũng sẽ ảnh hƣởng đến hiệu
quả huy động vốn.
 Các dịch vụ do ngân hàng cung cấp: Một ngân hàng có các dịch vụ đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25

hơn thì sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác.
Ngoài cạnh tranh về lãi suất, thì việc cung cấp đa dạng các dịch vụ cũng đóng
vai trò quan trọng, bởi vì việc duy trì lãi suất huy động cao trong thời gian dài là rất
khó thực hiện (điều này làm tăng chi phí hoạt động, làm giảm lợi nhuận). Bên cạnh
dó, trong điều kiện cạnh tranh nhƣ hiện nay, lãi suất của các ngân hàng là tƣơng đối
đồng đều, thì việc đa dạng và nâng cao chất lƣợng dịch vụ ngân hàng là giải pháp
cần đƣợc chú trọng .Sản phẩm huy động đa dạng: Trƣớc sự cạnh tranh ngày càng

khốc liệt không chỉ của các ngân hàng cổ phần trong nƣớc mà hiện nay các ngân
hàng quốc doanh cũng chịu sụ cạnh tranh quyết liệt của các ngân hàng nƣớc ngoài.
Do vậy, sự đa dạng trong các sản phẩm huy động vốn nhƣ: đa dạng về kỳ hạn tiền
gửi, đa dạng về loại tiền gửi, đa dạng về lãi suất…nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho ngƣời gửi tiền cũng là nhân tồ quan trọng trong việc thu hút khách hàng.
 Công nghệ ngân hàng: Kết quả kinh doanh ngân hàng một phần phụ thuộc
vào cách thức ngân hàng cung ứng dịch vụ tới khách hàng. Nếu ngân hàng cung
ứng dịch vụ một cách chuyên nghiệp, đơn giản, thuận tiện, áp dụng công nghệ hiện
đại vào dịch vụ ngân hàng, thì sẽ dạt hiệu quả cao hơn. Với mức sống và nhận thức
ngày càng cao nhƣ hiện nay, khách hàng ngày càng yêu cầu phải nâng cao chất
lƣợng các dịch vụ ngân hàng. Để có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu đó, đòi hỏi ngân
hàng phải không ngừng nâng cấp công nghệ ngân hàng.
 Chất lƣợng sử dụng và quản lý tài sản của ngân hàng: Việc ngân hàng sử
dụng tốt và hiệu quả nguồn vốn huy động không những tạo ra nguồn thu trang trải
lãi vay mà còn tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, vì thế ngân hàng ngày càng phát
triển, củng cố niềm tin của khách hàng vào ngân hàng, sẽ thu hút đƣợc thêm lƣợng
tiền gửi vào ngân hàng. Mặt khác, với chất lƣợng khoản vay và đầu tƣ cao sẽ tạo
đƣợc cả sự tin tƣởng của ngƣời vay tiền, nhƣ vậy khi họ có vốn dƣ thừa họ sẽ gửi
tại ngân hàng.
 Hoạt động Marketing ngân hàng : Marketing là sản phẩm của nền kinh tế thị
trƣờng. Marketing đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong các doanh nghiệp
nói chung và trong các NHTM nói riêng. Marketing ngân hàng thuộc nhóm
Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của ngành dịch vụ. Marketing ngân hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×