Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận môn những nguyên lý của chủ nghĩa mác – lênin ( phần 3 ) những nguyên lý của chủ nghĩa mác – lênin về xã hội chủ nghĩa hiện thực và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.27 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Khoa LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN ( PHẦN 3 ) :
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Khoa LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN ( PHẦN 3 ) :
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
TP.HỒ CHÍ MINH , 12/2009
DANH SÁCH SINH VIÊN LỚP 31 – KHÓA 34
Stt Họ Tên NgàySin
h
Nhiệm Vụ Ký tên
2
01 Lê Hồng Ân 25/09/90 Tìm tài liệu phần II
02 Trần Hải Bắc 25/09/90 Tìm tài liệu
03 Nguyễn Hữu Binh 14/07/90
04 Lê Phước Bình 16/08/90 Tìm tài liệu
05 Nguyễn Công Bình 01/07/90
06 Lê Thị Bích Chi 30/12/90 Tìm tài liệu và tổng hợp phần II
07 Đặng Huy Quốc Cường 01/01/90 Thuyết trình
08 Phan Thị Thùy Dung 27/09/90
09 Nguyễn Võ Duy 30/03/90 Tìm tài liệu phần II
10 Nguyễn Thị Mộng Đào 29/04/90
11 Nguyễn Thị Chí Hân 10/11/90 Tìm tài liệu phần III


12 Trần Nguyên Hiển 15/09/90 Tìm tài liệu phần II
13 Nguyễn Thị Thiều Hoa 11/08/90
14 Cao Việt Hưng 20/01/89
15 Phạm Thị Thúy Lan 10/04/90 Tìm tài liệu phần III
16 Lê Hoàng Lâm 22/08/90
17 Lư Sương Tuyết Lê 05/08/90 Tìm tài liệu phần II
18 Trần Thị Ngọc Nga 07/08/90
19 Bùi Thị Ngọc Ngà 03/06/90 Tìm tài liệu phần III
20 Trần Hoàng Ánh Nguyệt 20/10/90 Tìm tài liệu , tổng hợp phần I
21 Trần Minh Nguyệt 22/05/90 Tìm tài liệu và tổng hợp phần II
22 Đỗ Trọng Nhân 24/10/90 Tìm tài liệu phần
23 Nguyễn Anh Trí Nhân 18/05/90
24 Nguyễn Thị Ái Nhi 02/01/90 Tìm tài liệu phần II
25 Nguyễn Minh Nhựt 02/08/90 Tìm tài liệu và tổng hợp phần III
26 Nguyễn Thị Kim Oanh 10/10/90
27 Võ Thị Kiều Oanh 21/02/90 Tìm tài liệu ngoài , thuyết trình
28 Hoàng Minh Phương 22/08/90 Tìm tài liệu phần II
29 Lê Thị Thanh Phương 18/07/90 Tìm tài liệu phần III
30 Nguyễn Việt Quốc 22/05/90
31 Nguyễn Văn Quỳnh 21/05/90 Tìm tài liệu phần III
32 Lê Hữu Lam Sơn 06/08/90 Tìm tài liệu và tổng hợp phần I
33 Phạm Thị Thanh Tâm 20/12/90 Tìm tài liệu phần III
34 Đỗ Chí Thanh 26/01/90
35 Nguyễn Thị Phương Thùy 28/12/90 Tìm tài liệu
36 Phạm Hưng Thịnh 14/09/90 Powerpoitnt , tìm tài liệu phần II
37 Trần Thị Thùy Trang 19/11/90 Tìm tài liệu
38 Nguyễn Thị Quỳnh Trâm 20/04/90 Tìm tài liệu mô hình CNXH đầu tiên
39 Trương Thị Bích Trâm 24/04/90 Tìm tài liệu phần III
40 Phan Cao Trung 11/09/90 Tìm tài liệu
41 Phạm Thành Trung 11/10/90

3
42 Lưu Đức Trí 11/01/90
43 Trương Bảo Trị 13/02/90
44 Phạm Anh Tuấn 10/08/90 Tìm tài liệu phần II
45 Nguyễn Ngọc Tuyền 01/02/90 Tìm tài liệu
4
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
























5
A. NGUYÊN LÝ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC.
6
I. SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC:
Cách mạng tháng mười Nga, mô hình chủ nghĩa hiện
thực đầu tiên trên thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một
sự kiện lịch sử đánh dấu sự ra đời của nhà nước Nga Xô viết.
Cách mạng tháng Mười nổ ra vào ngày 24 tháng 10 năm
1917, do Vladimir Ilyich Lenin và Ðảng Bolshevik lãnh đạo.
Cách mạng tháng Mười thành công vào ngày 7 tháng 11 năm
1917 (theo lịch Gregory) hay ngày 25 tháng 10 năm 1917
(theo lịch Julius).
• Nguyên nhân :
Tháng 2 theo lịch Nga (tức tháng 3 dương lịch) năm
1917, Nga hoàng bị lật đổ. Nhưng, giai cấp tư sản đã phản bội
nhân dân, những người làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng
đó. Chúng lập ra chính phủ tư sản do Kê-ren-ski cầm đầu, tuyên
bố quản lý đất nước. Thành thử, lúc này ở nước Nga tồn tại
song song hai chính quyền: chính quyền của nhân dân lao động
và chính quyền của tư sản. Trước đó, phái "dân túy", những
phần tử cơ hội chính trị ở Nga đã tung ra thứ lý luận thụt lùi:
hãy để cho chủ nghĩa tư bản phát triển đã, hãy để cho giai cấp tư
sản nắm chính quyền đã, hãy làm cách mạng tư sản đã, sau này
khi chủ nghĩa tư bản Nga phát triển hết mức hãy đặt ra vấn đề
cách mạng vô sản,v.v. và.v.v !
Trong khi ấy, V.I. Lê-nin cùng Ðảng Cộng sản (bôn-sê-
vích) Nga, một mặt chống lại thứ tư tưởng, lý luận cách mạng
nửa vời của những kẻ cơ hội chính trị và giai cấp tư sản, vạch

bộ mặt giả dối, phản động của chính phủ tư sản Kê-ren-ski; mặt
khác đẩy tới khí thế cách mạng của các Xô-viết công-nông-binh ở cơ sở, nhằm lúc tình
thế nhân dân không thể sống như cũ, chính phủ tư sản Kê-ren-ski không thể tiếp tục lừa
dối nhân dân để tham gia chiến tranh thế giới thối nát như cũ, đã tổ chức và lãnh đạo
khắp nơi khởi nghĩa.
7
• Kết quả :
Ngay trong đêm 7 tháng 11 năm 1917 (25 tháng 10 theo lịch Nga), Đại hội Xô
Viết toàn Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập chính
quyền Xô Viết do Lenin đứng đầu. Các sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô Viết đã
được thông qua là Sắc lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô Viết còn
thực hiện các biện pháp thủ tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng
cấp, những đặc quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các dân tộc, chính phủ Xô
Viết công bố bản Tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga khẳng định quyền bình đẳng
của các dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự quyết như công nhận nền độc lập
của Ba Lan, Phần Lan. Các cơ quan trung ương và Xô Viết các địa phương được thành
lập. Tháng 12 năm 1917, Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao được thành lập nhằm xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết kí Hòa
ước Brest-Litovsk với các nước phe Liên minh Trung tâm chính thức rút khỏi Thế chiến
thứ nhất .
Cách Mạng Tháng Mười Nga đã dùng bạo lực cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản
và giai cấp phong kiến địa chủ , lập nên chính quyền của những người lao động , xây
dựng một xã ội hoàn toàn mới , một xã hội không có tình trạng người bóc lột người .
• Nguyên nhân thắng lợi :
Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là do đường lối đấu tranh
và sách lược đúng đắn của đảng Bolshevik mà lãnh đạo là Lenin, biết lợi dụng sức mạnh
quần chúng đang chịu nhiều khổ cực do chiến tranh đế quốc. Ngoài ra, cuộc cách mạng
cũng biết lợi dụng hoàn cảnh quốc tế thuận lợi khi các nước đế quốc đang tham gia vào
Thế chiến thứ nhất, không có điều kiện can thiệp vào nước Nga.
• Bài học lịch sử từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại :

Giáo sư tiến sĩ Sử học, chính trị gia B.Ph. Slavin với bài phát biểu có nhan đề đầy
hứa hẹn nhiều điều thú vị “Cách mạng: huyền thoại và hiện thực”, đã khẳng định rằng
chính biến tháng Mười là đỉnh cao của việc giải quyết các vấn đề xã hội chính trị mà vào
giai đoạn đó, chính quyền đương thời không giải quyết được. Cuộc cách mạng này đã
đưa nhân dân đến với sự bình đẳng giữa các công dân trong xã hội, sự thống nhất và đoàn
kết giữa các dân tộc .
Với những người Cộng sản và các phong trào Giải phóng dân tộc, Cách mạng
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản tiến hành, thắng
8
lợi của cuộc cách mạng đã tạo ra nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới,
đưa nước Nga đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra Cách mạng Tháng Mười Nga còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân quốc tế và ở các nước thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các
dân tộc bị áp bức . Nó đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử - thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới .
• Cách Mạng Tháng Mưới Nga đối với Việt Nam :
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc rất
ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận
động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Cách mạng Tháng Mười Nga đã
tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của Người, giúp Người hiểu rõ: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người cũng
đã nói: “Trong thế giới bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là đã thành công và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải
tự do và bình đẳng giả dối như thực dân Pháp khoe khoang ở Việt Nam”. Ở Paris, Người
đã viết bài báo “Cách mạng Tháng Mười Nga và các dân tộc thuộc địa”, khẳng định con
đường của Cách mạng Tháng Mười Nga chính là con đường chân chính mà cách mạng
của các dân tộc phải đi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định : “ Giống như mặt trời chói lọi , Cách Mạng
Tháng Mười chiếu khắp năm châu , thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức , bóc lột trên trái
đất . Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu

xa như thế ” .
Đối với cách mạng nước ta, Cách mạng Tháng Mười là ngọn đuốc soi đường cho
dân tộc ta thoát khỏi gông xiềng nô lệ, tối tăm, nghèo nàn để vươn lên ấm no, hạnh phúc.
Từ đó, Người dẫn dắt dân tộc ta đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười - gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Đó là
con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta, phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại.
II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN
THỰC:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đến kết thúc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.
9
Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm vi một số
nước như Liên Xô, Mông Cổ. Cuộc cách mạng Tháng Mười là cuộc Cách mạng đầu tiên
trong lịch sử đưa nhân dân lao đông từ những người làm thuê trở thành những người làm
chủ đất nước. Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong
cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc. Với khí thế lao đông
của những con người được giải phóng, thông qua chính sách kinh tế mới, thông qua con
đường hợp tác hóa trong nông nghiệp, công nghiệp hóa đất nước, sau 20 năm Liên Xô đã
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đó là những nguyên nhân giúp Liên Xô
đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân loại khỏi chủ
nghĩa phát xít.
Giai đoạn thứ hai: Từ sau năm 1945 đến đầu những năm 1970.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời,
nhất là từ sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với những thành
tựu to lớn của xã hội chủ nghĩa về kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kĩ thuật, v.v., hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh
vì hòa bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản

động quốc tế.
Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa đã cỗ
vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư
bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng
dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân
tộc với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản thế
giới, Người viết:”…tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các
Đảng anh em!”.
Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Trong giai đoạn này nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác
xây dựng đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ đảng cộng sản. Một số người mắc vào
tệ sung bái cá nhân, không ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, không nhìn thấy và
không đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa tư bản. Ở không ít
10
nước xã hội chủ nghĩa, bộ mày nhà nước trở nên quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ
của nhân dân. Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội, không tuân thủ những quy luật
kinh tế khách quan, chậm đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất. Trong lãnh vực
xã hội thực hiện bao cấp tràn lan, không kích thích được tích cực cá nhân, do vậy không
tạo được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã hạn chế
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm mang
tính chất nguyên tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội
ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong, thậm chí cả những người đứng
đầu cơ quan đảng và nhà nước đã tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô.
Như vậy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có nguyên
nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự

chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một số người cộng sản, chứ hoàn toàn
không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội như
một số người vẫn đang rêu rao.
Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Cùng
với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều đảng cộng sản
và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng. Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa
đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ đây mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần,
các lực lượng phản động giành lại chính quyền đưa đất nước theo con đường khác.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng.
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương, nghìn kế bằng nhiều
luận điệu khác nhau để xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt
đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.
Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới, phải
khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra,
không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức
mạnh mọi mặt của đất nước.
11
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các nước thuộc
Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra sức
tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị của chủ
nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ trên
thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ

đó mà đoàn kết nhau lại để đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và
khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
III. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ:
1. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực :
Trong quá trình ra đời và phát triển của mình, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác đã có một thời kì phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu to lớn.Trước
hết là về chính trị:
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực, chế
độ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản đã bị xoá bỏ, đem lại quyền tự do và vai trò làm
chủ xã hội cho nhân dân lao động, là một tấm gương để cổ vũ nhân dân các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc trên thế giới đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do. Chính điều này đã
góp phần làm thay đổi căn bản tiến trình phát triển của thế giới, mở ra một thời đại mới -
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô, bằng sức mạnh vĩ đại của
mình đã đóng vai trò quyết định góp phần vào việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và
chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là một
chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Chiến công đó đã tạo điều kiện cho sự ra đời hàng
loạt nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô trở thành chỗ dựa quan trọng, là động lực cho phong
trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế phát triển mạnh mẽ, là
trụ cột bảo vệ an ninh và hoà bình thế giới.
Sự tồn tại chủ nghĩa xã hội hiện thực đã dẫn đến cuộc tranh đua giữa hai hệ thống
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sự hiện diện của các nước XHCN như một tấm
gương phản chiếu những mặt trái đầy áp bức và bất công của chủ nghĩa tư bản . Ngay tại
các nước phương Tây , nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của CNXH đã đấu
tranh đòi quyền dân sinh , dân chủ , các phúc lợi xã hội … đã buộc các nước tư bản
phương Tây phải điều chỉnh mình bằng việc xây dựng, cải cách các thể chế dân chủ để ổn

12
định xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Đó cũng là chiến công của chủ nghĩa xã hội
hiện thực
Ngày nay, sự nghiệp cải cách và đổi mới đang được các nước XHCN như Trung
Quốc, Việt Nam, Cuba tiến hành đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Đó chính là
tấm gương, trở thành nguồn cổ vũ, động viên các dân tộc, đặc biệt là các nước ở Châu
Mỹ Latinh đấu tranh chống lại sự bóc lột, bất bình đẳng và sự áp đặt chủ nghĩa tự do mới
của các nước đế quốc. Đồng thời, ở Châu Âu, nhiều đảng cánh tả đã hoạt động trở lại và
tham gia ngày càng tích cực vào đời sống chính trị ở các nước tư bản.
Chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ đảm bảo quyền làm chủ trên thực tế cho nhân
dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa mà còn thúc đẩy phong trào đấu tranh cho
quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên toàn thế giới.
Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù gặp phải nhiều khó khăn từ sau
cuộc chiến tranh chống phatxit và gặp phải sự chống phá từ các nước phương Tây nhưng
nền kinh tế ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đạt được sự phát triển mạnh mẽ
về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn với trình độ
hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện.
Về kinh tế : Trước CM tháng mười, Nga bị lạc hậu so với các nước phát triển khác
từ 50 đến 100 năm.Khi mới bắt đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thu nhập quốc dân
bình quân đầu người chỉ bằng 1/22 của Mỹ cùng thời nhưng chỉ sau thời gian ngắn, Liên
Xô chỉ cần 20 năm để trở thành một nước siêu cường công nghiệp đứng đầu châu Âu và
đứng thứ nhì thế giới trong suốt hơn 40 năm. Trong suốt 70 năm sau Cách mạng tháng
Mười, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Liên Xô luôn gấp đôi Mỹ. Liên Xô đã thực hiện
nhiều kế hoạch dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và
đã thu được nhiều thành tựu to lớn.Năm 1972, so với năm 1922 – 50 năm sau khi thành
lập Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô viết, sản lượng công nghiệp tăng 321 lần, thu
nhập quốc dân tăng 112 lần.
Trong những thập niên 50, 60 và nửa đầu 70, Liên Xô là cường quốc công nghiệp
đứng hàng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mĩ); tới giữa thập niên 70, sản lượng công nghiệp
của Liên Xô đã chiếm khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp của toàn thế giới.Trong

khoảng thời gian 25 năm (từ 1951 đến 1975), mức tăng trưởng công nghiệp hàng năm đạt
9,6%. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ, sản lượng công
nghiệp bằng 85% của Mỹ. Một số ngành công nghiệp có sản lượng cao vào loại bậc nhất
thế giới như: dầu mỏ, than, quặng sắt, gang, thép, xi măng, máy kéo, máy công cụ v.v…
Liên Xô còn đi đầu trong một số ngành công nghiệp mới: công nghiệp vũ trụ, công
nghiệp điện nguyên tử…
13
Về khoa học kỹ thuật: Liên Xô đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: năm 1957, là
nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo của Trái đất; năm 1961, phóng con tàu
vũ trụ đưa nhà du hành vũ trụ Gagarin bay vòng quanh Trái đất, mở đầu cho kỉ nguyên
chinh phục vũ trụ của loài người và cũng là nước dẫn đầu thế giới về những chuyến bay
dài ngày trong vũ trụ. Đầu những năm 70, bằng việc kí kết với Mĩ các hiệp ước về hạn
chế hệ thống phòng, chống tên lửa và về một số biện pháp trong lĩnh vực hạn chế vũ khí
tiến công chiến lược (gọi tắt là Hiệp ước ABM và Hiệp định SALT-1 và SALT-2), Liên
Xô đã đạt được thế cân bằng chiến lược về sức mạnh quân sự nói chung và sức mạnh lực
lượng hạt nhân nói riêng với các nước phương Tây. Đây là một thành tựu có ý nghĩa to
lớn, làm đảo lộn toàn bộ chiến lược của Mĩ và đồng minh của Mĩ.
Về văn hóa – y tế : Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, các nước XHCN đã thanh
toán nạn mù chữ cho toàn thể dân cư chỉ trong vòng 20 năm sau cách mạng, trong khi đó
để xóa mù chữ CNTB đã mất 180 năm đối với nam giới và 280 năm đối với nữ giới. Liên
Xô năm 1917 từ một đất nước có 3/4 dân số mù chữ, thì đến năm 1987 trở thành đất nước
có trình đô học vấn cao nhất thế giới (78% dân cư có trình độ trung học và đại học, chiếm
1/4 số lượng các nhà khoa học và 1/5 phát minh khoa học trên thế giới. Hệ thống y tế và
bảo vệ sức khỏe nhân dân được phát triển rộng rãi
Cùng với sự lớn mạnh toàn diện của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa có ảnh
hưởng sâu sắc trong hệ thống chính trị thế giới, đóng vai trò quan trọng trong sự sụp đổ
của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỉ nguyên mới độc lập dân tộc và
thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, tạo sự thay đổi tương
quan lực lượng có lợi cho lực lượng cách mạng, tiến bộ thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào

dân chủ và hòa bình. Năm 1919, chỉ một nước XHCN với 16% diện tích và 7,8% dân số
thế giới; sau gần 70 năm đã có 15 nước XHCN, chiếm 26% lãnh thổ và 1/3 dân số thế
giới; và với sự ủng hộ, giúp đỡ toàn diện của các nước XHCN, từ sau Chiến tranh thế
giới lần thứ II phong trào giải phóng dân tộc đã giành được những thắng lợi nhất định -
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc với 72% diện tích và 70% dân số thế giới hầu
như hoàn toàn tan rã và đã có hơn 100 quốc gia độc lập trẻ tuổi ra đời.
Không ai có thể phủ nhận được rằng, Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế đã
có công lao vĩ đại góp phần cứu loài người thoát khỏi thảm họa phát xít trong Chiến tranh
thế giới lần thứ II. CNXH hiện thực cũng là lực lượng đấu tranh tích cực để bảo vệ, củng
cố nền hòa bình thế giới; ngăn chặn và làm thất bại nhiều âm mưu xâm lược và gây chiến
tranh hủy diệt của chủ nghĩa đế quốc.
Ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa có sức lan mạnh mẽ, cá nước phương
Tây cũng bị ảnh hưởng không nhỏ, nhân dân lao động ở các nước này cũng đã đấu tranh
đòi các quyền dân sinh, dân chủ, phúc lợi xã hội… Với sức ép từ các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước phương Tây đã phải nhượng bộ và chấp nhận rất nhiều các yêu sách đó.
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trải qua một
thời kì phát triển rực rỡ, đạt được những thành tựu hết sức to lớn, góp phần vào tiến trình
14
phát triển của lịch sử xã hội loài người.Mặc dù thời gian tồn tại của hệ thống xã hội chủ
nghĩa chỉ tồn tại trong thời gian ngắn 70 năm để rồi sau đó rơi vào khủng hoảng và bị sụp
đó nhưng không ai có thể phủ nhận được một Liên Xô, một hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa phát triển rực rỡ.
2. Hạn chế:
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng
như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng
điểm, những ưu tiên của đất nước . Nhưng đồng thời nó thường không gắn liền với hiệu
quả kinh tế nên thường gây lãng phí rất lớn: Kinh tế phát triển nhanh nhờ khai thác rất
lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và năng suất lao động tăng không tương xứng. Các
chỉ tiêu phát triển được duy trì cao nhưng mức sống của nhân dân ngày càng kém so với
các đối thủ tư bản ở nước ngoài.

Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên kinh tế Liên Xô tránh được lạm
phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm. Nhưng nền kinh
tế như vậy là sẽ rất nặng nề không linh hoạt: một doanh nghiệp không hoàn thành kế
hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do đó kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước và có tính
bắt buộc rất cao. Vì kế hoạch hóa mang nhiều tính mệnh lệnh quan liêu và không sát thị
trường là một nguyên nhân chính làm hàng hóa Liên Xô có chất lượng và tính cạnh tranh
ngày càng kém so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với
thu nhập tăng đều theo kế hoạch điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư lớp dưới kém
năng động thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao, nhưng ngược lại
sức mua tăng mà hàng hóa kém chất lượng không theo kịp yêu cầu của xã hội nên gây
nên nạn khan hiếm hàng hóa có giá trị tạo "văn hóa xếp hàng" ở mọi nơi, gây bất bình
trong dân chúng nhất là dân thành thị.
Việc không có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch làm cho người lao động mất
động lực quyền lợi kinh tế dẫn đến sự sa sút kỷ luật và lòng hăng hái, yêu lao động và
nảy sinh bàng quan, vô trách nhiệm.
Hệ thống chính trị của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc tính tập
trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể mang lại tác dụng tốt
nhưng đồng thời nó là nguyên nhân rất dễ dẫn đến các hiện tượng lạm dụng quyền lực
của các cấp đảng vì các cấp ủy đảng thực tế gần như không bị nhân dân kiểm soát vì
Đảng vừa làm ra pháp luật và vừa thi hành pháp luật, mà hệ quả là hiện tượng vi phạm
các quyền tự do của công dân được hiến pháp quy định, cũng như các tiêu cực khác ví dụ
tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhân Trong giai đoạn cuối của Liên Xô hệ
thống này đã mất tính uyển chuyển năng động gây ra thời kỳ được gọi là "thời kỳ trì trệ"
của Brezhnev.
15
IV. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ SỤP ĐỔ:
1. Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ
nghĩa xã hội Xô Viết :
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và tồn tại hơn 70 năm, đã qua những thử thách

khó khăn cực kỳ to lớn, ngay lúc mới ra đời nằm trong vòng vây thù địch của chủ nghĩa
đế quốc và sự phản loạn từ bên trong, dù bị bao vây kinh tế hay chiến tranh thế giới đều
không thể đánh đổ được Liênxô, không thể đánh đổ được chủ nghĩa xã hội. Không những
thế trong khó khăn thử thách đã làm cho chủ nghĩa xã hội không ngừng lớn mạnh, từ một
nước đã trở thành hệ thống thế giới. Liênxô từ một nước kinh tế, văn hoá lạc hậu phát
triển thành một “siêu cường”, đối trọng với Mỹ- cường quốc tư bản chủ nghĩa số một thế
giới. Nhưng tại sao trong một thời gian ngắn lại xảy ra những thay đổi to lớn đến thế?
Nguyên nhân của nó ở đâu? Cần có lời giải xác đáng.
Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản
xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh
quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu,
và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ.
Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục
thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa
tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình
này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy
ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính
chủ động, sáng tạo của người lao động.
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của
một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ, khiến
Đảng không phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân; vừa
không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội , dẫn đến tình trạng quan liêu, tham
nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn.
Một nguyên nhân chủ quan khác là đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá
quá thấp chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn
trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của
Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”,
“CNXH phát triển” ), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kỳ

quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH.
16
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi
mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng hoảng.
Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà do quan niệm
giáo điều về CNXH.
b) Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp :
- Đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại
Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về
đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với thực tiễn nước mình và đặc điểm thời đại, không coi trọng việc kế thừa, bổ
sung và phát triển lý luận mácxít. Hoặc là giáo điều, rập khuôn máy móc, không căn cứ
vào tình hình mới để phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ
phê phán sai lầm của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và của nhà nước,
phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo
con đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người
lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều
CNXH hơn”, “chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta
tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả
lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra” , rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy
trang cho ý đồ phản bội.
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng
công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh
chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm
xây dựng CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo
động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những
giá trị của CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc

này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây
tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.
Về tổ chức. Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng
mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng không giải
quyết nổi. Tính chất quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao
của Đảng và nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Nhân danh cải tổ với khẩu
17
hiệu dân chủ hoá, công khai hóa trong bộ phận lãnh đạo cấp cao đã hình thành các phe
nhóm. Với chiêu bài phi chính trị lực lượng vũ trang, quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc chứ không thuộc đảng phái nào để tách lực lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, từng bước vô hiệu hoá và giải tán Đảng Cộng sản. Sự phân liệt Đảng
Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính trị ra
đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những
cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng phản động trỗi dậy, xã
hội mất phương hướng gây thảm hoạ cho nhân dân.
- Âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện
được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngoài, các
thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cơ hội tốt để thực hiện ý đồ “diễn biến
hoà bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội giữ địa vị cao ở
các cơ quan đảng, nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư bản. Khi bộ phận lãnh đạo
tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngoài thì chủ nghĩa xã hội theo mô hình
Xôviết dễ dàng sụp đổ.
Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là
đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên
tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Hứa hẹn viện trợ
kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà
phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”
trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu.

Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ Níchxơn cho
rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ khí của
chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất
bại trên mặt trận tư tưởng”. Chiến lược của Mỹ trước sau như một là đưa bất ổn vào bên
trong “bức màn sắt”.
Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và
từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô
sụp đổ.
Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ
thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới
sâu sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển
mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn
18
đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối
nào.
Một số đảng cộng sản các nước trên thế giới đã nhận định nguyên nhân của sự sụp
đổ này là: Sự lệch lạc về hệ tư tưởng của những người lãnh đạo đảng và sự thiếu hiểu biết
về hệ tư tưởng XHCN của nhân dân; sự thiếu dân chủ trong xã hội và trong đảng; tình
trạng quan liêu trong đảng, tham nhũng và sự xa lánh nhân dân của lãnh đạo đảng; một số
sai lầm trong chính sách kinh tế của đảng cộng sản cầm quyền; và sự phá hoại tinh vi của
chủ nghĩa đế quốc…
19
B. TRIỀN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI HIỆN THỰC
20
Chủ nghĩa xã hội hiện thực là tương lai của xã hội loài người: bản chất của chủ
nghĩa tư bản là không thay đổi; từ khi thành lập, chủ nghĩa xã hội đã đạt được những
thành tựu to lớn và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự
cáo chung của chủ nghĩa xã hội, nó chỉ là sai lầm của một mô hình thực tiễn nhất định khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội; sau sự sụp đổ của Liên Xô, các nước xã hôi chủ nghĩa còn lại

đã có sự cải cách đổi mới mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành
tựu đáng kể, điển hình là Việt Nam và Trung Quốc; ngoài ra hiện nay đã xuất hiện các
yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản và những nhân tố mới
của xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia trong thế giới đương đại
I. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi:
Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử phát
triển của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, các
ông viết “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông
cũng dự báo và chứng minh những dự báo của mình “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”
Tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” đã chỉ ra
những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai
đoạn “tột cùng”, ăn bám, giãy chết và là phòng chờ của chủ nghĩa xã hội. Nhưng tình
hình thực tế trong mấy thập niên vừa qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng”, đồng thời
nhờ sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư
bản chủ nghĩa đã vượt qua một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả năng phát triển.
Nhưng đó không phải là chế độ xã hội tương lai của nhân loại bởi bản chất bóc lột, phản
dân chủ, vô nhân đạo phản dân chủ của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Chính phương
thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa gây ra những ung nhọt
không thể chữa khỏi. Đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, ngoài khủng hoảng mang tính
chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng hoảng tài chính tiền
tệ… Các loại khủng hoảng và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt
vấn đề xã hội nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo xã
hội, mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng…
Trong cuốn sách “Ngoài vòng kiểm soát” (xuất bản năm 1993), Brêdinxky đã cay
đắng thừa nhận 20 khuyết tật của xã hội Mỹ vào thời điểm đó và dự báo Mỹ sẽ mất vai
trò siêu cường vào thế kỷ XXI. Trong 20 khuyết tật ấy, có những khuyết tật đã trở thành
phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa như: chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung
học kém chất lượng, vấn đề phân biệt chủng tộc, nghèo đói ngày càng sâu sắc, tội ác bạo

lực tràn lan, cảm giác trống rỗng về tinh thần,… làm cho xã hội lâm vào khủng hoảng và
vô phương cứu chữa.
Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại, trên thế
giới ngày nay vẫn có đến 1,2 tỷ người phải tiếp tục chịu nghèo đói, tật bệnh, mù chữ,
chiến tranh, hưởng mức thu nhập dưới 1 USD/ngày; 2,5 tỷ người nghèo có tổng thu nhập
21
chỉ bằng thu nhập của 250 tỷ phú, triệu phú lớn nhất thế giới gộp lại; 1/3 lực lượng lao
động toàn thế giới, tức là khoảng 1 tỷ người bị thất nghiệp ở các mức khác nhau; tại hơn
100 nước đang hoặc kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người giảm đi so với
thập niên trước, hàng ngày có đến 30.000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra có thể được cứu
sống, và số người mù chữ lên đến hơn 800 triệu người.
Sự kiện giới cầm quyền Mỹ và giới cầm quyền Anh tấn công Irắc năm 2003 càng
khẳng định bản chất hiếu chiến của chúng
Xã hội tư bản không thể thay đổi bản chất của mình chỉ bằng lối xưng danh mới:
“phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội tin hóa”, “xã hội kinh tế tri thức
hóa”,… Chính vì vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là chế độ xã hội tương lai của nhân
loài bởi bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của nó là không thay đổi.
II. Từ khi thành lập, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã để lại những thành tựu to
lớn và sự sụp đổ của Liênxô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung
của chủ nghĩa xã hội
1. Từ khi thành lập, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã để lại những thành tựu to
lớn:
Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lưc kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất chủ nghĩa xã hội trên qui mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nước Nga trước Cách mạng tháng Mười so
với các nước phát triển khác bị lạc hậu từ 50 đến 100 năm. Khi bắt tay vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 1/22 của Mỹ cùng thời.
Nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một trong hai siêu cường của
thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ, sản lượng công

nghiệp bằng 85% của Mỹ. Với công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, Liên Xô đã trở
thành một nước có trình độ học vấn cao, thu được những thành tựu đáng kể trong việc
chăm sóc sức khỏe, phát triển y tế và đảm bảo phúc lợi cho nhân dân lao động. Trước
Cách mạng tháng Mười, ¾ nhân dân Liên Xô bị mù chữ, chỉ sau 20 năm, nạn mù chữ đã
bị xoa bỏ. Vào cuối những năm 1980, Liên Xô là một trong những nước có trình độ học
vấn cao nhất thế giới (164 triệu người có trình độ trung học và đại học, số lượng các nhà
khoa học trên nhiều lĩnh vực cũng đứng vào hàng đầu thế giới). Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây đã đạt được nhiều bước tiến trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học,
chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Trong các
lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học và công nghệ cũng có những thành tựu rất to lớn.
2. Sự sụp đổ của Liênxô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung
của chủ nghĩa xã hội
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị tổn thất nghiêm trọng. Kẻ thù thì vội
vã vui mừng rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung”, còn người dân cũng không khỏi hoang mang bối rối.
22
Sự thật, sự tan rã của Liên xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mô hình thực tiễn
nhất định trong quá trình đi đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa-mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu
Liên Xô và Đông Âu, mô hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc-nó không đồng nghĩa với sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người
đang vươn tới. Sự sụp đổ của Liênxô và Đông Âu cũng không vì thế mà thay đổi nội
dung, tính chất của thời đại. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu chỉ chứng tỏ
tính quanh co, phức tạp của sự phát triển xã hội mà thôi. Tương lai của xã hội loài người
vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của
thời đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã họi trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt

yêu cầu mới phải giải quyết.
III. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và
ngày càng thu được những thành tựu to lớn:
Trong bối cảnh Liên Xô và các nước xẫ hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì ở một
số nước xã hội chủ nghĩa khác điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành đổi
mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó khăn khủng hoảng và
đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, trong qua trình đổi mới, cải cách, mở cửa đã
giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã
hội, tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới.
Tuy Trung Quốc và Việt Nam có những sự khác biệt nhất định trên nhiều phương
diện, nhưng công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam
có những nét tương đồng:
- Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hay theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam).Với
những đặc trưng: đa dạng hóa hình thức sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể
(Trung Quốc), hoặc công hữu là nền tảng (Việt Nam), kinh tế nhà nước là chủ đạo; sở
hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc), hoặc
doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng
hóa hình thức phân phối, xem trọng phân phối theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh
bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt đối xử; giá cả, tỷ giá, lãi suất
do thị trường xác định có sự điều tiết của Nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị
trường từ hàng hóa đến dịch vụ, thị trường chứng khoán, thực hiện các chương trình phúc
lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường,…
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dững hệ
thống luật pháp ngày càng tương đồng với hệ thống luật pháp hiện đại, đặc biệt là phù
hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp vi mô, sự can thiệp vào hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng quản lý vĩ mô, gia tăng sự phân quyền cho các
23
địa phương; thực hiện chế độ dân chủ nói chung, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công

khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, của Hội
đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, tinh giản bộ máy và biên chế,…
- Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng gồm các nghề nghiệp, văn
hóa, tôn giáo, xã hội,…; các tổ chức này ngày càng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực
mà Nhà nước không với tay tới, như từ thiện, cứu trợ người nghèo,…
- Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế, Liên hợp
quốc, các tổ chức khu vực, đặc biệt là đã gia nhập WTO, trở thành những quốc gia tích
cực trong hội nhập khu vực ASEAN, Đông Á.
- Bảo đảm sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đối với công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang được đổi mới theo
hướng khoa học, dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc
và Việt Nam.Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu dài,
trải qua nhiều giai đoạn.
Tổng kết gần 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc(1978-2007), Đại hội XVI
Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 10 năm 2007) đã khẳng định: Cuộc đại cải cách, đại
mở cửa chưa từng diễn ra trong lịch sử đã huy động tính tích cực của hàng trăm triệu
người khắp các địa phương, làm cho nước ta thực hiện thành công bước ngoặt lịch sử vĩ
đại từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ sang kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa tràn đầy sức sống, từ đóng cửa, hé cửa đến mở cửa toàn diện… Thực tế chứng
minh một cách hùng hồn rằng, cải cách, mở cửa là sự lựa chọn then chốt của vận mệnh
Trung Quốc đương đại, là con đường tất yếu phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc, thực hiện chấn hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại; chỉ có chủ nghiã xã hội mới cứu
được Trung Quốc, phát triển được chủ nghĩa xã hội và phát triển được chủ nghĩa Mác.
Tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam(1986-2006), Đại hội X của Đảng Cộng
Sản Việt Nam (tháng 4 năm 2006) đã khẳng định:”Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần cuả xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia; chủ động và hội nhập kinh tế quốc tế”.
Thế và lực của các nước XHCN không ngừng tăng lên.
Bất chấp sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, các nước
XHCN đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Theo số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế công bố tháng 4-2008(không có số liệu của
Cuba và Triều Tiên) tỷ trọng GDP của ba nước Trung Quốc, Việt Nam và Lào trong
GDP toàn thế giới đã tăng từ hơn 1,72% năm 1991 lên 6,12% năm 2007.GDP của Trung
24
Quốc năm 2007 đã tăng gấp hơn 2,7 lần so với năm 2000 và gấp hơn 8,38 lần so với năm
1990.Các số liệu tương ứng của Việt Nam là 2,25 và 10,2 lần; Lào là 2,35 và 4,68 lần.
Hơn 20 năm qua Trung Quốc luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
hàng đầu thế giới, thường xuyên ở mức hai con số.Năm 2005, GDP của Trung Quốc tăng
từ 10,4%; năm 2008 tăng 11,4%.Vào năm 2005, Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ tư thế
giới, chỉ đứng sau Mỹ, Nhật Bản và Đức (đạt 3.251 tỷ USD năm 2007).Tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Lào 5 năm qua liên tục đạt trên 7%/năm.Kinh tế Cuba mấy năm qua
liên tục tăng trưởng khá cao; tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 đạt 11,8%, năm 2006 đạt
12,5%, năm 2007 đạt trên 7,5%.
Những đóng góp, uy tín và vị thế của các nước XHCN, nhất là Trung Quốc được
Quốc Tế thừa nhận và đánh giá cao.Các nước XHCN tích cực hoạt động tại các diễn đàn
đa phương lớn của thế giới.
Tóm lại, tổng kết sau nhiều năm cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt
Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng
quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được
thế giới tôn trọng. Thành công của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt
Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội.
IV. Đã xuất hiện các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa tư bản và những nhân tố mới của xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số
quốc gia trong thế giới đương đại
1. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản:

Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một
quá trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với tư cách là hai hình
thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã
hội sau vừa phủ nhận xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội
trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của nó- chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai
đoạn trước của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ còn tiếp tục phát triển thông qua chính những cuộc
khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng, và quá trình phát triển đó cũng chính là
quá trình quá độ sang một xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất
lớn với khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang
“nẩy mầm” những nhân tố của chủ nghĩa xã hội. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở
hữu, sự xuất hiện quốc hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần… làm cho tính chất xã
hội của sở hữu ngày càng gia tăng; nhà nước đóng vai trò điều tiết quản lý về vốn, nguồn
lao động tham gia quản lý xí nghiệp… ở các mức độ khác nhau ngày càng hữu hiệu; sự
rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; lao động trí óc với lao động chân tay;
tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi xã hội và môi
trường ngày càng được giải quyết tốt hơn… tất cả những cái đó nếu không nói đó là
25

×