Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

đặc điểm trường ca hữu thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.01 KB, 114 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM








NGUYỄN THẾ ANH




ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN













THÁI NGUYÊN, NĂM 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM









NGUYỄN THẾ ANH




ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH



CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Khánh Thơ







THÁI NGUYÊN, NĂM 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CẢM ƠN!

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình
truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: PGS.TS Lưu
Khánh Thơ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã
hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học
sư phạm Thái nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã
động viên, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.

Thái Nguyên, ngày 22 tháng 4 năm 2012
Tác giả luận văn


Nguyễn Thế Anh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi

trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên
cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thế Anh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG
CA VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH 8
1.1. Những tiền đề lý luận 8
1.1.1. Khái niệm trường ca 8
1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại 10
1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 14
1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại 20
1. 2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh 24
1.2.1.Các giai đoạn sáng tác 24

1.2.2. Quan niệm về thơ của Hữu Thỉnh 26
Chương 2. THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH 32
2.1. Hình tượng người lính 32
2.1.1. Người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh 33
2.1.2. Tâm trạng người lính trong chiến trận 36
2.1.3. Lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng 42
2.1.4. Khát vọng hạnh phúc 47
2.2. Hình tượng người phụ nữ 50
2.2.1. Người Mẹ tảo tần, nhân hậu và giầu đức hy sinh 51
2.2.2. Người Mẹ - điểm tựa vững vàng nơi hậu phương 54
2.2.3. Người phụ nữ - biểu tượng của sự chịu đựng 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii
2.2.4. Người phụ nữ với những góc khuất trong cuộc chiến tranh 58
2.3. Hình tượng đất nước 63
2.4. Hình tượng biển 69
Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH . 75
3.1. Ngôn ngữ 75
3.1.1. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ đời sống 75
3.1.2. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc dân gian 78
3.1.3. Ngôn ngữ thơ sáng tạo mới mẻ 84
3.2. Thể thơ 86
3.2.1. Thơ tự do 86
3.2.2. Thơ văn xuôi 90
3.3. Giọng điệu 92
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi 92
3.3.2. Giọng điệu xót thương, cay đắng 96

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lí 99
PHẦN KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng
nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Gần nửa thế kỉ cầm bút,
Hữu Thỉnh đã tạo dựng cho mình một sự nghiệp thơ ca phong phú và đa dạng
về thể loại. Khá nhiều bài thơ và nhất là trường ca của ông qua sự thẩm định
của thời gian vẫn còn nguyên giá trị.
1.2. Chính “sức bền ” sáng tạo, niềm say mê văn chương đã giúp cho
Hữu Thỉnh sớm khẳng định mình qua các giải thưởng văn học. Đầu tiên phải
kể đến là giải Ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1973 với bài Mùa xuân đi đón,
tiếp đó là giải A cuộc thi thơ 1975 - 1976 cho tác phẩm Chuyến đò đêm giáp
ranh và trường ca Sức bền của đất. Năm 1991, tác giả lại tiếp tục nhận giải
Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà trường do Bộ ĐH&THCN cùng
TWĐTNCSHCM tổ chức với bài Thưa thầy. Năm 1994, Hữu Thỉnh được Bộ
quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc với tác phẩm Trường ca biển. Đặc biệt
ông đã hai lần được trao giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam
với trường ca Đường tới thành phố (1980) và tập thơ Thư mùa đông (giải A

năm 1995). Và cũng với tập thơ Thư mùa đông, Hữu Thỉnh lại đoạt giải thơ
ASEAN năm 1999. Trường ca Biển (2004), đoạt giải thưởng văn học của
Nxb Quân đội nhân dân.
1.3. Hữu Thỉnh là một trong số không nhiều nhà thơ viết trường ca và
đạt được những thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân
tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo tiền
đề cho thể loại trường ca phát triển. Trong đội ngũ tác giả có thành tựu ở thể
loại trường ca như Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Trần Mạnh
Hảo, Nguyễn Trọng Tạo…nhà thơ Hữu Thỉnh với các bản trường ca Đường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
tới thành phố, Sức bền của đất, Trường ca biển đã được ghi nhận như là một
trong những gương mặt tiêu biểu. Trường ca của ông có sức ôm chứa nhiều
vấn đề, về cả độ rộng của không gian và độ dài của thời gian, có khả năng
khái quát hiện thực rộng lớn, không những nhiều về số lượng mà còn đạt giá
trị về chất lượng. Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó như “miền đất hứa” ẩn chứa bao điều
cần chúng ta khám phá.
1.4. Với mong muốn tìm hiểu và khẳng định những nét độc đáo cũng
như những đóng góp trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
trong các sáng tác trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi chọn Đặc điểm
trường ca Hữu Thỉnh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
Nghiên cứu Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh giúp chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về sự nghiệp sáng tác của ông.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn được trau dồi thêm kiến
thức về thơ hiện đại Việt Nam trước và sau 1975. Hy vọng đây sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho những bạn đọc yêu thơ Hữu Thỉnh, cho việc giảng dạy

văn thơ Hữu Thỉnh nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1975, tập thơ Âm vang chiến hào (in chung với Lâm Huy Nhuận)
ra đời. Ngay ở tập thơ đầu tay, Hữu Thỉnh đã thể hiện một phong cách, một
giọng điệu riêng. Trải qua thời gian, thơ ông ngày càng chiếm được cảm tình
của người đọc và thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình.
Số lượng các công trình, bài viết về sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh
khá phong phú. Có những bài viết đánh giá, phân tích từng tác phẩm cụ thể,
có những đánh giá chung về sự nghiệp, phong cách thơ Hữu Thỉnh; nhìn
chung đều đi vào giải mã tác phẩm và khẳng định phong cách nghệ thuật độc
đáo của nhà thơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
2.1. Những bài viết đánh giá về các tập thơ
1. Đọc tập thơ “Thư mùa đông” Trần Mạnh Hảo nhận thấy, thơ Hữu
Thỉnh cô đọng, hàm súc, giàu chất trí tuệ, mang màu sắc thơ cổ điển phương
Đông “ý tại ngôn ngoại”, thiên về cảm nhận, do đó “khả năng dồn nén tư
tưởng, cảm xúc, dồn nén chữ nghĩa” [21, 103]. Bài viết của tác giả đã chỉ ra nét
tiêu biểu của ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh, tuy nhiên tác giả chưa phân tích, lí giải
cặn kẽ đặc điểm ấy được biểu hiện như thế nào, trên những phương diện gì?
2. Một trong những người đầu tiên nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh phải kể
đến là Thiếu Mai. Với bài viết “Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố”, Thiếu
Mai đã chỉ ra nét đặc sắc trong trường ca Hữu Thỉnh: Dường như “thấp
thoáng đằng sau câu thơ của Hữu Thỉnh dáng dấp của ca dao, nhưng rõ ràng
thơ anh không rập khuân theo ca dao, không bị ca dao lấn át”. Nhìn chung
tác giả đã nhận ra được chất dân gian trong trường ca “Đường tới thành phố”,
tuy nhiên tác giả chưa phân tích sâu sắc, cặn kẽ những đặc điểm ấy [42].

3. Cùng hướng tiếp cận trên, Mai Hương đã lí giải, phân tích, chứng
minh sự thành công của Hữu Thỉnh khi vận dụng vốn văn học dân gian: “Hữu
Thỉnh có khả năng vận dụng thông minh, sáng tạo vốn văn học dân gian. Cách
nghĩ và cách nói bằng hình ảnh của quần chúng được anh tiếp nhận tự nhiên và
thành công” [27, 112]. Đây là đóng góp và cũng là thành công của Hữu Thỉnh.
Bài viết đã có những kiến giải khoa học, xác thực, rõ ràng trong việc chỉ ra dấu
ấn của ca dao trong trường ca “Đường tới thành phố”.
4. Cùng hướng tiếp cận thơ Hữu Thỉnh như tác giả thiếu Mai và Mai
Hương, khi đọc “Trường ca biển” Hữu Đạt cho rằng “Thơ Hữu Thỉnh có
nhiều cái mới mà không xa cái truyền thống, thậm chí có khi tái tạo lại cái đó
có từ trong truyền thống mà vẫn có dấu hiệu riêng về phong cách của mình”
[12, 163]. Tác giả thấy được trường ca này là một sáng tạo về hình tượng và
ngôn ngữ thơ ca. Bài viết đã bước đầu chỉ ra những cách tân nghệ thuật trên
cơ sở truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
5. Ngoài ra còn có bài viết “Dài rộng với thời gian” của Đặng Hiển
với những nhận định khá xác đáng về đặc điểm, nội dung tập thơ “kết hợp
nhuần nhuyễn tính trữ tình và triết lí”. Đặc biệt tác giả đi sâu khai thác đặc
sắc nghệ thuật tập thơ, đó là sự kết hợp tính dân tộc với tính hiện đại từ ngôn
ngữ tới hình ảnh, trong đó “sử dụng rộng rãi một cách sáng tạo các biện
pháp tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác” [26, 16]. Nó khẳng định
phong cách thơ Hữu Thỉnh một cách độc đáo trong nền thơ ca Việt Nam
đương đại.
2.2. Những bài viết nhận xét, đánh giá chung về nhà thơ Hữu Thỉnh
1. Lưu Khánh Thơ trong bài viết “Hữu Thỉnh – một phong cách thơ
sáng tạo”. Sau khi khảo sát từ tập thơ “Âm vang chiến hào”, trường ca “Sức

bền của đất”, “Những người đi tới biển” đã nhận định: Thơ ông có “giọng
điệu tươi mát, hồn nhiên, tinh tế”. Tác giả đã phát hiện ra ảnh hưởng của chất
liệu văn hóa dân gian đến thơ Hữu Thỉnh, cùng những tìm tòi, sáng tạo của
nhà thơ: “Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở
những cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở cách tư duy, liên tưởng độc
đáo, ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết đó là nguyên nhân khiến cho Hữu
Thỉnh có những câu thơ đa nghĩa, có tính hàm ẩn cao, mới lạ trong cách diễn
đạt, bất ngờ trong cảm xúc” [59, 410]. Cuối cùng tác giả rút ra kết luận khá
xác đáng về phong cách thơ Hữu Thỉnh: “Đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về
phía rợp mát. Cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục” [59, 421].
2. Trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại PGS.TS Lưu Khánh Thơ đã cho
rằng: một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Hữu Thỉnh nói
chung và trường ca nói riêng là mang đậm màu sắc dân gian. “Trong làng
thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục ngữ Hữu Thỉnh có
thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu đáo, cặn kẽ,
hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một người chuyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã làm Hữu
Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh.
Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách
ví von, so sánh mà còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở một âm
hưởng xa xôi khó nhận biết” [35, 411].
3. Nguyễn Đăng Điệp đã nhận thấy một số sự thay đổi trong cấu trúc
thơ, dòng thơ, tứ thơ của Hữu Thỉnh để tạo nên sự mới mẻ trong thơ: “Mô
hình câu thơ, sự vật hiện tượng đem ra để so sánh thường nhỏ bé, tương quan
sự xuất hiện của những con số, tứ nằm ngay trong đơn vị câu”, giọng điệu thì

trầm lắng suy tư và cuối cùng tác giả nhận xét “Xuất phát từ nền móng văn
học dân gian nhưng đã xử lí chất liệu truyền thống bằng cái nhìn hiện đại
nhằm tạo nên những đột phá về thi pháp thể loại” [15, 226].
4. Từ góc độ thi pháp, Trúc Thông đã phân biệt cái tôi trữ tình trong
thơ Hữu Thỉnh với ba biểu hiện: “Người lính cách mạng mà tình yêu nước rất
cụ thể trong tình yêu thương rất mực quê hương, đồng đất; người bảo toàn và
đấu tranh phát triển nhân cách và nhà thơ của một thế hệ”. Song nhìn vào
toàn bộ sáng tác thơ Hữu Thỉnh ta thấy “ba nhân vật trữ tình ấy trộn hòa,
xoắn bện, hiển hiện chỉ trong duy nhất một con người – nhà thơ, người lính
Hữu Thỉnh”. Tác giả đã phát hiện và nhận định “chất liệu văn hóa dân gian
ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ. Những mảng dữ
dội của đời sống thật, sự khỏe khoắn của thể trạng tâm hồn con người tham
gia trực tiếp vào đời sống ấy đã bồi đắp nên chất hiện đại cho những dòng
thơ mềm mại. Giữ vững và làm tươi mới hơn câu thơ Việt trong cuộc vật mình
đổi mới ngôn ngữ thơ đang dần dà mà quyết liệt diễn ra trong toàn bộ nền
thơ ta, đó là đóng góp đáng trân trọng của thế hệ nhà thơ chống Mỹ mà Hữu
Thỉnh là một trong số đại biểu xứng đáng nhất” [68].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
5. Xuất phát từ đặc trưng thể loại, sau khi khảo sát các tập thơ Tiếng
hát trong rừng, Thư mùa đông, trường ca Đường tới thành phố, Trường ca
biển, Lý Hoài Thu tìm hiểu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Hữu
Thỉnh và chỉ ra tư duy thơ đích thực của ông: “Một trong những tiềm năng
thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm trực giác dĩ nhiên là không thể bắt bằng sự
quan sát của thị giác, sự lắng nghe âm thanh của thính giác nhưng nhiều khi
chúng bị đẩy lại và thay thế bằng cảm giác” [69, 45]. Bằng cái nhìn khái
quát, tác giả nhận thấy “Thơ Hữu Thỉnh giàu sức mạnh nội lực gắn bó máu

thịt với đời sống tâm linh và truyền thống thơ ca dân tộc Việt Vam Thơ anh
có sự kết hợp phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và độ
cảm xúc tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả
năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn” [69].
Nhìn chung những bài viết chỉ khái quát những nét chính trong thơ Hữu
Thỉnh hoặc mới tập trung vào một số khía cạnh nổi bật trong các tác phẩm cụ
thể. Bởi vậy rất cần có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống về trường ca Hữu Thỉnh. Tuy vậy những ý kiến nhận xét, đánh giá của
những người nghiên cứu đi trước là những định hướng và gợi mở vô cùng quý
giá cho chúng tôi khi thực hiện đề tài của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ở cả hai chặng đường sáng tác trước và sau 1975 Hữu Thỉnh đều có
những đóng góp đáng kể cho nền thơ hiện đại. Bên cạnh những tập thơ: Tiếng
hát trong rừng, Thư mùa đông, Thương lượng với thời gian; Hữu Thỉnh
còn có những bản trường ca: Sức bền của đất, Đường tới thành phố, Trường
ca Biển….
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào các bản trường ca
nhưng cũng khảo sát cả các tập thơ của tác giả :

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
 Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội nhân dân, H.,1975.
 Thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn, H., 1998.
 Thơ với tuổi thơ, Nxb Kim Đồng, H., 2000.
 Thương lượng với thời gian, Nxb Hội nhà văn, H., 2006.
Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác của Hữu
Thỉnh để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của tác giả.
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng phạm vi khảo sát và tham khảo các tập thơ,

trường ca của thế hệ các nhà thơ chống Mĩ để đối sánh, tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt trong trường ca Hữu Thỉnh.
4. Đóng góp của luận văn
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu trường ca Hữu Thỉnh, luận văn chỉ ra
những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong Trường ca của ông.
Qua đó nhằm khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca
cho thơ ca Việt Nam hiện đại của tác giả. Luận văn còn là tài liệu tham khảo
hữu ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Hữu Thỉnh nói riêng và
cho việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích - tổng hợp
- Đối chiếu - so sánh
- Thống kê – phân loại
- Thi pháp học
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được cấu tạo thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về thể loại trường ca và quá trình
sáng tác của Hữu Thỉnh
Chương 2: Thế giới hình tượng trong trường ca Hữu Thỉnh
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật trong trường ca Hữu Thỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG CA
VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH


1.1. Những tiền đề lý luận
1.1.1. Khái niệm trường ca
Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác phẩm
thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca
cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh
hoặc có tác giả” [44]. Như vậy trường ca một thời dùng để chỉ các sử thi dân
gian như sử thi Đam San, nay thường dùng để chỉ các sáng tác thơ dài của các
tác giả như “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn, “Đường tới thành phố”
của Hữu Thỉnh.
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng “Trường ca có
dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng
được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới
rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các
cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca
với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết
hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về
lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4].
Như vậy, khái niệm trường ca có nguồn gốc từ văn học phương Tây
“trường ca là thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [25], đã bắt
đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX, dùng để gọi tên
những sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có độ dài như Đam San, Xinh
Nhã Theo cách gọi này thì trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca
(Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata ) hoặc các khan của Tây Nguyên. Tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
nhiên trường ca hiện đại không thể là sự vận động tự nhiên của các trường ca

trong lịch sử như sử thi, anh hùng ca. Mặc dù có những điểm giao thoa song
trường ca với tư cách là một thể lọai văn học độc lập luôn có những đặc trưng
khu biệt với sử thi, truyện thơ và thơ dài. Điều dễ nhận thấy là trường ca và sử
thi đều là những tác phẩm có “tầm vóc” lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung,
có sức ôm chứa những vấn đề trọng đại của dân tộc và thời đại. Thế nhưng
trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại có sự khác biệt nhất định so với
trường ca truyền thống (sử thi). Kế thừa các sử thi cổ, trường ca trong văn học
hiện đại không chỉ ca ngợi những anh hùng kiệt xuất, đứng đầu và là đại diện
cho khí phách, tâm hồn, sức mạnh của một bộ tộc, dân tộc cụ thể, mà còn thể
hiện chân dung, tầm vóc của dân tộc ấy trong chiều dài của lịch sử, chiều rộng
của không gian, dưới ánh sáng của một hệ quy chiếu mang tính thời sự, thời
đại và nhân loại.
Vì vậy, muốn chỉ ra đặc thù của trường ca cần phải gắn liền với bối
cảnh thời đại và bối cảnh văn học mà nó ra đời. Trường ca hiện đại Việt Nam
ra đời và phát triển trên nền hiện thực sôi động của các cuộc kháng chiến chống
Pháp, Mỹ và công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Có thể thấy rõ rằng,
sự nghiệp cách mạng Việt Nam phát triển theo xu hướng ngày càng dữ dội,
quyết liệt (trong chống giặc ngoại xâm) và ngày càng đổi mới (trong cuộc đấu
tranh chống cái lạc hậu, cũ kĩ để xây dựng đất nước theo xu hướng hiện đại,
tiếp cận các nước trong khu vực và trên thế giới). Đây là tiền đề xã hội thúc đẩy
sự phát triển của văn học nói chung và cả trường ca nói riêng: “Thời đại chúng
ta là thời đại của các bản trường ca. Thực tiễn cách mạng trên đất nước ta là
những điều kiện vô cùng thuận lợi cho ai muốn viết trường ca” [30].
Trong các kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi nhận thấy
quan niệm về trường ca của tác giả Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn
học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX” – LATS, 2008) là khá xác đáng:
“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc
vừa, có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10
hình: trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan
xen nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và
miêu tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ,
giọng điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào
hùng của sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống” [7].
1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại
Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời từ yêu cầu của hiện
thực cuộc sống dân tộc, từ khát vọng của một lớp thế hệ nhà văn muốn ghi lại
thời đại hào hùng trong lịch sử. Hàng trăm trường ca viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ ra mắt bạn đọc thu hút sự quan tâm của giới sáng tác và phê bình
văn học. Trong một thời gian dài từ 1980, 1981, 1982 nhiều cuộc hội thảo
về trường ca diễn ra sôi nổi. Tạp chí Văn nghệ quân đội và tạp chí Văn học là
hai diễn đàn để các nhà nghiên cứu trao đổi về vấn đề này. Đã có nhiều bài
viết công phu được đăng tải ở đây. Nhìn chung, những người quan tâm đều cố
gắng đi sâu vào thực tiễn thể loại để tìm ra những nét đặc thù của trường ca
hiện đại. Về cơ bản các bài viết thường đi theo hai hướng: Thứ nhất là đi tìm
định nghĩa, thứ hai là cố gắng tìm ra các đặc điểm thể loại hoặc nói về một
đặc điểm nào đó.
Về vấn đề định nghĩa trường ca có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có thể
lược qua những bài viết tiêu biểu như: Nhiều tác giả nêu ra vấn đề tên gọi
trường ca nhưng cuối cùng đều thừa nhận như một thực tế và xem “mỗi tác
phẩm là một cách định nghĩa của tác giả về chính thể loại đó” [64] (Hữu
Thỉnh); Tác giả Từ Sơn lại cho rằng “các tác phẩm dài hơi nên gọi là truyện
thơ”. Về khái niệm “Trường ca” Lại Nguyên Ân lại cho rằng “trường ca là
một hiện tượng giao thoa giữa tự sự và trữ tình” [2] (Bàn góp về trường ca).
Tác giả Đỗ Văn Khang lại khẳng định “trường ca trong văn học Việt Nam


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện
đại” [29] (Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta).
Như vậy các ý kiến trên đã phần nào làm sáng rõ hơn về định nghĩa
trường ca nói chung và trường ca hiện đại nói riêng. Trong các ý kiến về định
nghĩa trường ca, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi ông cho
rằng “trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy
đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại” [29]. Đây là ý kiến xác đáng về
trường ca hiện đại. Bởi trường ca hiện đại ra đời trong hoàn cảnh đất nước có
những biến cố dữ dội. Dân tộc ta đã có những trang sử đau thương mà vô
cùng anh dũng, không thể coi là nhỏ bé, vụn vặt bởi lẽ nó đã vượt ra khỏi
phạm vi một dân tộc, nó là những chiến công mà cha ông ta và nhân dân ta đã
gây dựng.
Về đặc trưng thể loại, có nhiều bài viết đã nghiên cứu một cách khá
công phu. Các tác giả thường dựa vào sự so sánh giữa trường ca với thơ dài,
trường ca với truyện thơ để nói lên đặc trưng của thể loại như: Trần Ngọc
Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Mai Bá Ấn Trong các bài viết này
đáng chú ý nhất là ý kiến của tác giả Mai Bá Ấn. Theo tác giả giữa trường ca
và thơ dài cũng cần có sự khu biệt để nhận thức đầy đủ đặc trưng của từng thể
loại. Xu hướng “trường ca hóa” các tác phẩm thơ dài sẽ hạ thấp vai trò của
trường ca, xóa nhòa những yếu tố đặc trưng phân biệt nó với các thể loại
khác. Bởi thơ dài thực chất là thơ trữ tình mở rộng phạm vi phản ánh hiện
thực bằng cách tăng cường yếu tố tự sự - “Thơ dài là thơ trữ tình nới rộng
trường độ mà thôi” [5]. Vì thế dù có cố gắng thế nào thì “độ dướn” của một
bài thơ, dù là thơ dài cũng chỉ là sự phát triển của những mạch lẻ cảm xúc.
Còn trường ca không phải là thơ trữ tình mà coi thơ trữ tình là “một bộ phận
con” trong chỉnh thể tác phẩm trường ca. Cảm xúc trong trường ca phải được

ủ men và bốc lửa qua từng đoạn, từng chương nối tiếp nhau trong một thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
gian dài với nội dung phản ánh đa diện, với một trí tưởng tượng đa chiều và
một trí tuệ đủ tầm văn hóa, lịch sử xuyên suốt trong quá trình sáng tạo. Bên
cạnh đó một số tác giả đi từ sự vận động của các thể loại được gọi là trường ca
hoặc từ những lí thuyết về thể loại của nước ngoài để xem xét trường ca hiện
đại như các tác giả : Phạm Huy Thông, Đỗ Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến
Ngoài các bài viết được đăng tải trên báo chí, trong một số công trình
nghiên cứu cũng xuất hiện một số bài viết về trường ca. Sớm nhất, có lẽ là bài
viết của Lại Nguyên Ân, đầu tiên được đăng trên báo, sau được tập hợp trong
cuốn Văn học và phê bình. Trong đó, bài viết “Mấy suy nghĩ về trường ca”
được viết trước 30 tháng 4 năm 1975 là bài viết công phu; ngoài việc ghi nhận
những thử nghiệm về trường ca, tác giả đã phân biệt rõ trường ca với các thể
tài khác, nêu lên những đặc trưng cốt yếu của trường ca, các hình thức trường
ca được viết trong thời gian đó. Bài viết “Thể trường ca trong thơ gần đây”
được Lại Nguyên Ân viết năm 1982. Trong đó, ông xem trường ca như một
thể tài và cẩn trọng cho rằng “trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, có lẽ vẫn còn
đủ thận trọng để coi trường ca như là một thể tài đang hình thành và phát
triển, với xu hướng chung là đưa yếu tố suy nghĩ trữ tình thành yếu tố chủ đạo
của tác phẩm trường ca”. Có thể nói rằng, với cuốn “Văn học và phê bình”,
Lại Nguyên Ân đã dành mối quan tâm lớn nhất cho thể loại trường ca. Những
nhận xét đưa ra tuy vẫn dè dặt nhưng lại vô cùng quan trọng đối với phê bình
và sáng tác văn học thời điểm ấy.
Sau này, khi Vũ Văn Sỹ đề cập đến trường ca, ông đặc biệt chú ý đến
vai trò của thể loại trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại. Trong bài Trường
ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại tác giả đã luận giải một cách

hợp lí về sự phát triển của thể loại này. Đặc biệt, năm 1999 Hoàng Ngọc Hiến
đã xuất bản giáo trình Năm bài giảng về thể loại và một trong số những vấn
đề được ông đưa ra là “Mấy vấn đề đặc trưng thể loại và thi pháp của trường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
ca”. Đây là lần đầu tiên thể loại trường ca mới ở Việt Nam được đưa vào giáo
trình. Có thể nói Hoàng Ngọc Hiến là người dành nhiều tâm sức cho việc
nghiên cứu trường ca. Từ các bản dịch, các bài giới thiệu về trường ca của
Maicôpxki, các lí thuyết về thể loại của Nga, ông đã khái quát nên những đặc
điểm cơ bản của trường ca hiện đại như: nội dung lớn, cảm hứng lớn, mối
tương quan giữa tự sự và trữ tình Có thể nhận thấy đây là công trình công
phu, kết hợp chặt chẽ lí thuyết và thực tiễn với cách trình bày mang tính mô
phạm, tuy ngay trong cách đặt tên quyển sách đã ít nhiều mang tính nội bộ.
Về những nghiên cứu mang tính trường qui, chúng tôi thấy trường ca ít
nhiều đã được quan tâm, tuy số lượng các công trình vẫn còn ít và chủ yếu là
đề cập đến một vài khía cạnh, một vài tác giả viết trường ca. Từ luận văn thạc
sĩ trở lên, có thể kể đến một số công trình như: Chất sử thi trong trường ca
hiện đại 1954 – 1985 của Lê Thị Hồng Liên (Luận văn thạc sĩ Đại học sư
phạm Huế - 2001); Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến đầu
thế kỉ XXI của Đào Thị Bình (Luận án tiến sĩ, 2008); Đặc điểm trường ca Thu
Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo của Mai Bá Ấn (Luận án tiến sĩ, 2008).
Những công trình này tuy không nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp
thể loại nhưng đều là những tài liệu bổ ích cho người nghiên cứu và người
viết trường ca. Đặc biệt qua đây cũng thấy được, hiện nay trường ca đang là
vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, để ý.
Gần đây, nghiên cứu trường ca dường như lại trở nên sôi nổi với các
cuộc tọa đàm: về Trường ca Trầm tích (Hoàng Trần Cương) năm 2002, hai

cuộc tọa đàm về trường ca của Trần Anh Thái; với vô số các bài viết trên
mạng Internet; với sự hồi phục của một số tác phẩm được khai sinh bởi những
tên tuổi lớn một thời bị lãng quên như trường ca của Trần Dần, Văn Cao và
sự ra đời của một số dạng trường ca mới. Điều đó cho thấy thể loại này ở Việt
Nam vẫn tiềm tàng một lực hấp dẫn lâu bền.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề và sự hình thành thể loại.
Có thể nói, trước 1945, dạng trường ca hiện đại hầu như chưa có. Tuy
nhiên những tiền đề để hình thành nó thì đã tiềm tàng từ xa xưa, trong sâu
thẳm hoài vọng của dân tộc. Có thể do hạn chế về thời đại, đặc biệt về mặt tư
duy, mà tầm vóc vĩ đại của trường ca chưa được khẳng định, chưa được khởi
sắc. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có hai tiền đề
chính cho sự hình thành của trường ca hiện đại.
Trạng thái chống chiến tranh liên miên – tiền đề đầu tiên cho sự ra đời
của trường ca. Việt Nam là mảnh đất đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng hay nhiều thiết chế văn hóa sau
này dĩ nhiên đều không thể tách rời yếu tố gốc rễ ấy. Có lẽ, cũng từ cội nguồn
này mà trạng thái xã hội truyền thống Việt Nam đa phần là bình lặng. Nhịp độ
sống trong truyền thống của người Việt là chậm rãi, là đủng đỉnh, ngại ngùng
trước những đổi thay. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong văn thơ trung
đại. Đó là những bài thơ tĩnh lặng trong đêm mưa của Nguyễn Trãi, hay giống
như “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” của Nguyễn Khuyến Cũng bởi lẽ bản
chất con người là yên phận, ít tham vọng bá vương và qui phục. Cũng bởi lẽ,
những đổi thay trong xã hội đa phần làm người ta sợ hãi, vì những bất thường
trong xã hội ấy đều gắn liền với chiến tranh, mà có lẽ ba điều người ta sợ nhất

là ốm đau, đói nghèo và chiến tranh; trong đó chiến tranh vẫn khủng khiếp
hơn cả vì nó là bất thường nhất, và nó là tai họa của toàn xã hội, toàn dân tộc
chứ không riêng một gia đình nào. Đương nhiên, một trạng thái xã hội bình
lặng thì khó sinh ra trường ca.
Song không phải sống điềm đạm trung dung thì không có sức mạnh
cộng đồng. Bởi cái “đạm” trong phong cách người châu Á nói chung và
người Việt nói riêng khi được đánh thức cũng đầy uy lực. Người Việt lúc bình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
thường ngại va chạm nhưng khi có tai biến thì biết gồng mình và dám hy sinh.
Cuộc sống thiên về tập thể tạo cho họ có tình yêu quê hương đất nước nồng
nàn. Điều này luôn là những tiền đề cho những bản trường ca. Có thể nói
chiến tranh chính là lúc ý thức cộng đồng của người Việt được thức tỉnh mạnh
mẽ nhất, và trạng thái chống chiến tranh liên miên cũng tạo cho người ta tâm
thế hướng đến bảo vệ đời sống cộng đồng, bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Chỉ tính
sơ bộ, từ cuộc kháng chiến chống Tần (Thế kỉ III Tr.CN) đến cuộc chiến tranh
chống xâm lược từ hai đầu biên giới (1979). Dân tộc ta đã trải qua 20 cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh giải phóng. Có thể nói hơn 20 thế kỉ vừa qua, hầu như thế kỉ nào người
Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
đều là bất khả kháng, cần thiết phải xẩy ra (bởi Việt Nam là nước nhỏ, thường
bị nước khác kéo quân sang xâm lấn, cho nên đó là hình thức tự vệ cần thiết).
Và vì thế chiến tranh Việt Nam thường thể hiện lòng yêu nước của nhân dân
và là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như Hêghen đã phân tích, “không
có nghĩa là mọi cuộc chiến tranh bình thường giữa hai dân tộc đối địch nhau
đều là sự kiện sử thi Cuộc chiến tranh còn phải diễn ra nhân danh một đòi
hỏi có tính toàn nhân loại và có tính lịch sử ” [24, 597]. Có thể nói, chính ý

nghĩa của cuộc chiến tranh mới làm nên giá trị của nó. Điều này, ngoài ý
nghĩa chính trị và xã hội, nó sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tới
tâm thức cộng đồng, tới lòng tự hào dân tộc. Với dạng trường ca mang tính
chất sử thi nói riêng điều đó có ý nghĩa vô cùng quyết định, bởi không có tâm
thức cộng đồng, không có lòng tự hào dân tộc thì mọi tiềm năng của thể loại
đều bị xóa bỏ.
Trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đặc biệt là những cuộc chiến chống
lại giặc ngoại xâm, dù dưới chế độ nào, đều có sự tham gia tích cực của nhân
dân. Trước Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân và vai trò của nhân dân ít được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
nhắc đến trong văn học, trong quan niệm phong kiến họ vẫn là dân đen, con
đỏ, nhưng với lòng yêu nước, trong các cuộc kháng chiến, họ đều tự nguyện
dốc hết sức mình. Không thể có chiến thắng nếu vắng bóng dáng họ. Nhân
dân là lực lượng đại diện cho sức mạnh cộng đồng, vì thế cũng mang đậm tâm
thức, ý thức cộng đồng. Các thể loại văn học mang tính chất sử thi luôn lấy đó
làm tiền đề, làm cơ sở.
Với một lịch sử như thế, đương nhiên, chủ nghĩa yêu nước là truyền
thống lớn nhất trong văn học Việt Nam. Và âm hưởng anh hùng ca trong sử
thi có dấu ấn trong toàn bộ nền văn học chống chiến tranh ở Việt Nam, từ văn
học trung đại đến hiện đại. Quả thật cha ông ta từ xưa đã không ngừng xây
lên những Đại tự sự. Từ các truyền thuyết như Thánh Gióng, Nỏ thần đến
hào khí Đông A, văn thơ thế kỉ XIX, văn thơ cách mạng hiện đại tất cả đều
xoay quanh sự sống còn của dân tộc. Trường ca hiện đại đã nối tiếp mạch tự
sự ấy và lấy đó như là linh hồn của mình. Như vậy, trạng thái chống chiến
tranh liên miên vừa là tiền đề xã hội, vừa là tiền đề nội dung của trường ca.
Thơ trường thiên – tiền đề của tư duy về hình thức của trường ca hiện đại.

Các thể loại thường có sự kế thừa lẫn nhau giữa, nhất thiết phải hồi đáp
những thể loại khác cũng như với những điều kiện xã hội khuôn đúc lên
chúng. Điều đó có nghĩa là, các thể loại như là sự liên thông và diễn giải lẫn
nhau, và như vậy, chắc chắn trường ca cũng là sự hồi đáp của một tư duy về
thể loại đã có trong lịch sử. Do dung lượng hạn chế của luận văn cho nên tìm
hiểu mối quan hệ và tương quan giữa trường ca hiện đại và các thể thơ trường
thiên trước đây sẽ được chúng tôi phân tích ngắn gọn trên cứ liệu ba thể loại
tiêu biểu thuộc dòng văn học viết: diễn ca lịch sử, truyện nôm và ngâm khúc.
Trước tiên xin được bàn về diễn ca lịch sử. Diễn ca lịch sử là những tác
phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội dung đều dựa vào quốc sử cùng
với truyền thuyết dân gian. Thể lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ quen

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
thuộc mà diễn ca lịch sử sử dụng. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một số
tác phẩm diễn ca lịch sử tiêu biểu như: Việt sử diễn âm, Thiên Nam minh
giám, Thiên Nam ngữ lục, (hầu hết chưa biết tác giả là ai?) Nhìn chung về
dung lượng, diễn ca lịch sử là dạng thơ trường thiên đầu tiên ở Việt Nam. Qui
mô của nó tạo nền tảng chuẩn bị cho tất cả các thể văn vần dài hơi sau này.
Diễn ca lịch sử chú ý đến sự kiện và nhân vật lịch sử, nhưng nó lại không
hoàn toàn là chính sử, nó vẫn mang trong mình các yếu tố truyền thuyết và
gia tăng thêm yếu tố hư cấu. Về chủ đề của diễn ca lịch sử đều liên quan đến
lịch sử đất nước, cộng thêm cách diễn đạt giàu cảm xúc làm cho tác phẩm
diễn ca mang đậm chất sử thi. Các yếu tố này dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp, nhưng bóng dáng của nó thấp thoáng trong kiểu trường ca mang khuynh
hướng sử thi của văn học Việt Nam hiện đại.
Thể loại thứ hai cần được nhắc đến là ngâm khúc. Theo chúng tôi, đây
là thể loại có dấu ấn đậm nét trên kết cấu bề mặt của trường ca. Một số tác

phẩm nổi tiếng như: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ
ngâm (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm), Đây là thể loại nghiêng về biểu
hiện thế giới nội tâm, thể hiện nỗi buồn đau triền miên, dai dẳng. Có thể nói
cơ cấu mạch trữ tình – tự sự của khúc ngâm tương ứng với mạch trữ tình – tự
sự của dạng trường ca được xếp vào loại hình trữ tình - loại phổ biến trong
trường ca hiện đại.
Thể loại thứ ba chính là truyện Nôm, mà chủ yếu là truyện Nôm bác
học. Phần lớn các truyện này vay mượn cốt truyện Trung Quốc hoặc tự sáng
tác. Có thể nói, đây là dạng tự sự hư cấu – thiên về sáng tác các câu chuyện
đời thường tương tự tiểu thuyết. Các tác phẩm tiêu biểu như: Hoa tiên
(Nguyễn Huy Tự), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình
Chiểu) Trong tương quan với thể loại dài hơi sau này, có một số điểm theo
chúng tôi là đáng chú ý: Thứ nhất, vì đều được viết bằng văn vần nên các tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
phẩm này thường kết hợp cả trữ tình và tự sự. Thứ hai, ngôn ngữ trần thuật
bằng văn vần đến truyện Nôm đã đạt đến mức độ phong phú và khá nhuần
nhuyễn, điều này đã trở thành hành trang cho các thi sĩ hiện đại sáng tác, kể
lại những câu chuyện đáng tự hào của đất nước mình.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, một thể loại không thể khai sinh
trên mảnh đất trống. Sự liên thông và diễn giải lẫn nhau luôn là đặc điểm của
một nền văn học có truyền thống. Các thể loại văn học nêu trên có thể không
giống với trường ca hiện đại nhưng nó có liên quan và góp phần diễn giải –
đặc biệt về mặt hình thức của trường ca. Chính tính sử thi, tính anh hùng ca
tồn tại trong các thể loại văn học quá khứ đã ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung
lớn – hay tư duy thể loại của trường ca.
1.1.3.2. Sau 1945 – thời kì phát triển và khẳng định của trường ca.

Một nền văn học phát triển hoàn toàn trong chiến tranh bao giờ cũng
mang những nét đặc biệt của nó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền
văn học bắt đầu phát triển theo những yêu cầu, những định hướng tiêu chí
mới. Văn học được định hướng theo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng và là một
bộ phận, một vũ khí trong sự nghiệp cách mạng. Đó là nền văn học cách
mạng hướng về đại chúng, phục vụ công nông binh. Năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tinh thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn –
chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ yếu của nghệ sĩ. Hai câu thơ tiêu biểu
cho định hướng văn học thời kì này là:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi – Hồ Chí Minh)
Định hướng này càng về sau, đặc biệt bước sang cuộc chiến tranh
chống Mỹ, lại càng được quán triệt một cách triệt để. Như vậy, văn học từ
mục đích là hướng tới số phận con người đã chuyển sang hướng tới số phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
dân tộc, số phận lịch sử. Thể loại trường ca “không nằm ngoài qui luật chung
nhất của văn học Việt Nam, đó là định hướng tự giác của các thể loại vào thể
tài lịch sử cách mạng” [19, 705]. Nếu trạng thái của đời sống xã hội Việt
Nam suốt mấy chục năm là những cuộc chiến tranh và cách mạng nhằm thay
đổi vận mệnh lịch sử dân tộc, thì có thể nói, văn học Việt Nam đương thời đã
thể hiện được trạng thái đó. Nó đã đạt đến “trạng thái sử thi”, không chỉ bó
hẹp trong một số tác phẩm mà gần như là hơi thở xuyên suốt nền văn học này.
Với tư cách là những người nghệ sĩ - chiến sĩ, trong hoàn cảnh đất
nước lâm nguy, người cầm bút không nên nói nhiều về những đau thương mất

mát, những khát vọng riêng tư của cuộc sống đời thường. Bởi vì “vóc nhà thơ
đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên), cuộc chiến tranh của chúng ta là
cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện nên mọi lực lượng đều vì vận mệnh dân
tộc, của Tổ quốc mà chiến đấu hi sinh. Chức năng chính của văn học giai
đoạn này là phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến, vì vậy mọi đề tài đều
hướng đến ca ngợi lý tưởng và những con người cao cả của cách mạng.
Trường ca không thể không nằm ngoài qui luật đó. Chính Hữu Thỉnh, một
nhà thơ với những bản trường ca nổi tiếng đã khẳng định: “Hiện thực chiến
tranh, cuộc sống của người lính dội vào tôi mạnh đến mức vượt ra khỏi một
thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế. Nhưng tại sao lại trường ca, mà
không phải là cái gì khác? Và còn cái lẽ nữa là cuộc sống lớn lao, bi tráng
quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [62, 7].
Do nhiều yếu tố, thời gian sáng tác cũng như những đặc điểm thi pháp
của thể loại, trường ca trong văn học sau 1945 có ý nghĩa tổng kết một chặng
đường vừa đau thương vừa hào hùng của dân tộc. Nguồn cảm hứng của một
dân tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo
tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Những trường ca đầu tiên được ra đời
trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Từ đêm mười chín (Khương Hữu Dụng),
Những thanh gươm báu (Nguyễn Bính), Trường ca sông Gianh (Xuân

×