Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Đặc điểm trường ca anh ngọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.06 KB, 121 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học vinh
----------------------

đặng thị hạnh

đặc điểm trường ca anh ngọc
Chuyên ngành: văn học Việt Nam
MÃ số: 60.22.34

Luận văn thạc sĩ ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học:

ts. Lê thị hồ quang

Vinh - 2010


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ………………………...................………………………………...1
1. Lý do chọn đề tài …………………………....………………………….….1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………....………………….………...2
3. Đối tượng nghiên cứu ………………………....………………..……….…5
4. Phạm vi tư liệu khảo sát……………………….....………………………...5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………....………………………5
6. Phương pháp nghiên cứu……………...........................................................5


7. Đóng góp của luận văn……………………..................................................6
8. Cấu trúc luận văn…………………………...................................................6
Chương 1: Trường ca Anh Ngọc trong bối cảnh trường ca Việt Nam sau 1975
…………………………………………….........................................................7
1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội dẫn đến sự nở rộ trường ca trong thơ Việt
Nam sau 1975 …………………………..........................................................7
1.1.1. Khái niệm trường ca ……………...........................................................7
1.1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội, thẩm mĩ sau 1975 ……....................................9
1.1.3. Sự nở rộ của trường ca như một hiện tượng thể loại trong thơ Việt Nam
sau 1975 ……………………………….........................................................11
1.2. Khái quát về các chặng đường thơ Anh Ngọc …………....................16
1.2.1. Anh Ngọc – vài nét tiểu sử ………………………...............................16
1.2.2. Hành trình sáng tạo của Anh Ngọc ………………..............................17
1.3. Vị trí của trường ca trong sự nghiệp sáng tác của Anh Ngọc ...........19
1.3.1. Quan niệm về nghệ thuật của Anh Ngọc …………..............................19
1.3.2. Về vị trí của trường ca trong sáng tác của Anh Ngọc …......................22
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và hệ thống hình tượng trong trường ca
Anh Ngọc ………………………………………………...............................24
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong trường ca Anh Ngọc …………..................24
2.1.1. Cảm hứng sử thi ..…………………………………….........................24


3
2.1.2. Cảm hứng thế sự, đời tư ……………………………….......................31
2.1.3. Sự thống nhất giữa cảm hứng sử thi và cảm hứng thế sự đời tư trong
trường ca Anh Ngọc........................................................................................42
2.2. Hệ thống hình tượng trong trường ca Anh Ngọc................................43
2.2.1. Hình tượng cái tơi trữ tình.....................................................................43
2.2.2. Hình tượng đất nước, nhân dân.............................................................50
2.2.3. Hình tượng người lính...........................................................................65

2.2.4. Hình tượng người phụ nữ......................................................................75
Chương 3: Phương thức thể hiện trong trường ca Anh Ngọc.................. 81
3.1. Kết cấu.....................................................................................................81
3.1.1. Kết cấu theo mạch cảm xúc - tư tưởng..................................................82
3.1.2. Kết cấu theo hệ thống hình tượng.........................................................86
3.2. Ngơn ngữ.................................................................................................88
3.2.1. Gia tăng yếu tố kể, tả.............................................................................88
3.2.2. Gia tăng lớp từ ngữ chính trị, quân sự...................................................91
3.2.3. Vận dụng linh hoạt các biện phát tu từ..................................................94
3.3. Giọng điệu.............................................................................................. 99
3.3.1. Giọng điệu trầm lắng, thiết tha..............................................................99
3.3.2. Giọng điệu đau đớn, nghẹn ngào.........................................................102
3.3.3. Giọng điệu quyết liệt, dữ dội...............................................................105
3.3.4. Giọng điệu khái quát, triết lí................................................................108
KẾT LUẬN..................................................................................................112
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................114


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trường ca là một thể loại xuất hiện sớm trong lịch sử văn học. Khó
có thể loại văn học nào mà lại có sự kết hợp nhuần nhuyễn nhiều hình thức
phát ngơn, nhiều giọng điệu, nhiều cảm hứng, nhiều chủ đề với sự tuôn chảy
ồ ạt của nguồn mạch cảm xúc mãnh liệt như trường ca. Trong văn học Việt
Nam, trường ca đặc biệt phát triển mạnh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Sau 1975, với sự xuất hiện hàng loạt của các tác phẩm trường ca đã gây nên
một “hiện tượng lạ” trong văn học, thu hút sự chú ý của đông đảo độc giả
cũng như giới phê bình ở thời điểm đó và cho đến mãi sau này. Nghiên cứu
trường ca, chúng ta sẽ thấy rõ sự vận động, phát triển bất khuất của tinh thần

dân tộc trong những thời kỳ lịch sử khác nhau.
1.2. Sự ra đời rầm rộ của trường ca vào bối cảnh những năm 70, 80 của
thế kỉ XX trở thành một hiện tượng nổi bật trong đời sống thơ nói riêng, văn
học Việt Nam nói chung. Chỉ trong một thời gian ngắn nhưng thể loại này đã
đạt được nhiều thành tựu cả về chất và lượng. Các nhà thơ viết về trường ca
giai đoạn này chủ yếu là những người đã qua những trải nghiệm khốc liệt của
chiến tranh và với tư cách người trong cuộc, họ có nhu cầu được phát ngơn
cho những đau thương mất mát mà thế hệ mình, đất nước mình đã trải qua.
Các nhà thơ áo lính có nhu cầu nội tại phải viết được những tác phẩm lớn về
cuộc chiến tranh mà họ đã đi qua. Họ muốn nhận diện tổng kết một cách đầy
đủ, trọn vẹn, sâu sắc hơn về cuộc chiến tranh và muốn tìm ở chiến tranh
những bài học lớn và những lời giải đáp về sức mạnh Việt Nam. Không
những thế, âm hưởng chiến thắng vẫn còn trong trái tim mỗi người Việt Nam,
đặc biệt là nhà thơ nên mỗi người đều muốn hát ca về chiến thắng, về chiến
công mà lịch sử dân tộc đã làm nên. Do đó, việc nghiên cứu trường ca giai
đoạn sau 1975 là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa.
1.3. Anh Ngọc là gương mặt thơ tiêu biểu thuộc thế hệ chống Mỹ. Nhà
thơ từng nhận rất nhiều giải thưởng như: Giải nhì cuộc thi thơ Báo Văn nghệ


5
1972- 1973 (bài thơ Cây xấu hổ); Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 1975
(trường ca Sóng Cơn Đảo); Chương 1 Nụ cười bốn mặt của tập trường ca
Sông Mê Kông bốn mặt ngay khi công bố đã được trao tặng phẩm Thơ hay tạp
chí Văn nghệ quân đội năm 1979; Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Báo Văn
nghệ 1998- 2000; Giải thưởng cuộc thi sáng tác văn học cho thiếu niên nhi
đồng NXB Trẻ, giải thưởng văn học Nguyễn Trãi (Hội Văn học nghệ thuật Hà
Tây), giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây, 2001;
gần đây nhất là giải thưởng Văn học Sông Mê Kông lần thứ 2 năm 2009
(trường ca Sông Mê Kông bốn mặt) do hội đồng Văn học ba nước Việt Nam,

Campuchia, Lào trao tặng. Anh Ngọc là một trong số những nhà thơ Việt
Nam hiện đại viết nhiều trường ca. Ơng có bốn trường ca xuất sắc, để lại ấn
tượng trong lịng độc giả. Trường ca của ơng dựng nên một cách quy mô về
tinh thần bất khuất của dân tộc và những hình ảnh rất đặc thù về đất nước, con
người Việt Nam trong chiến tranh, trong đời sống...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu trường ca của ông lại chưa được quan tâm
đúng mức. Bởi vậy, nghiên cứu về đặc điểm trường ca Anh Ngọc, chúng ta sẽ
có cơ hội khám phá những cách tân về nội dung và nghệ thuật và những đóng
góp của ơng trong trường ca hiện đại Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Anh Ngọc có một sự nghiệp thơ ca khá phong phú. Ông có nhiều tác
phẩm đã xuất bản: Hương đất màu mỡ, Ngàn dặm và một bước, Sông Mê
Kông bốn mặt, Điệp khúc vơ danh, Thơ tình rút từ nhật ký, Cây xấu hổ, Vị
tướng già, Cho một người ... đóng góp lớn cho văn học hiện đại Việt Nam nói
chung và trường ca hiện đại nói riêng. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên
cứu về sáng tác của ơng, đặc biệt là trường ca chưa thật xứng đáng. Hầu hết
đó là những bài viết ngắn, những cảm nhận, những nhận xét mang tính khái
quát, đăng rải rác ở một số tờ báo. Sau đây, chúng tôi sẽ điểm qua một số ý
kiến tiêu biểu.


6
Nhà thơ Xuân Diệu trong Bàn về công việc làm thơ, (báo Văn nghệ,
1973) cho rằng : “Làm một bài thơ trung bình trở lên đâu có dễ huống hồ đây
là cả một trường ca hàng ngàn câu, như một trận đánh lớn, phải điều binh
khiển tướng thế nào, không thơng minh và trường vốn thì dễ bị hụt hơi lắm.
Vậy mà Anh Ngọc đã có tới bốn trường ca, từ Sóng Cơn Đảo, Sơng núi trên
vai, Sơng Mê Kơng bốn mặt và Điệp khúc vô danh ” [18]. Với những trường ca
kể trên Xuân Diệu đã khẳng định: “Anh Ngọc để lại ấn tượng: Anh là một thi
sĩ” [18]

Trong số các bài viết về Anh Ngọc thì Với nhà thơ Anh Ngọc thế gian
đẹp và buồn (tháng 2 năm 2008) của tác giả Nguyễn Hữu Quý là bài viết công
phu nhất. Nguyễn Hữu Quý đã rất sâu sắc và nhạy bén khi nhận ra được sự
thay đổi trong hồn thơ Anh Ngọc. Tác giả này đã chỉ ra được nét tiêu biểu
trong sáng tác của Anh Ngọc, trong đó có trường ca: Nhìn chung, tác giả đã
chỉ ra được nét độc đáo trong nội dung và hình thức thơ, đặc biệt là trường ca
của Anh Ngọc.
Nhà báo Nguyễn Xuân Hải trong bài Những câu thơ vẫn hành quân
không nghỉ (tháng 6 năm 2008) đã nhận xét về Anh Ngọc như sau: “Đọc thơ
ơng đều thấy hiện lên “Tình u- nỗi đau” rất thật. Nhưng đó là tình u - nỗi
đau mang đậm chất lính”. Những câu thơ như thể thực sự đã đồng cảm được
với một thế hệ thanh niên ra trận”. Tác giả bài báo cũng thấy được “nhờ
chuyến đi Côn Đảo đầy kỷ niệm và đầy cảm xúc ấy đã giúp Anh Ngọc thành
công trong trường ca Sóng Cơn Đảo” [26].
Trong bài viết Nhà thơ Anh Ngọc nhận giải thưởng Văn học Mê Kông
lần thứ 2 (tháng 2 năm 2009), nhà báo Phúc Nghệ đã rất chú trọng đến
“nguồn thi hứng” để Anh Ngọc viết nên Trường ca Sông Mê Kông bốn mặt.
Và tác giả nhận xét “Trường ca mới thực sự là thế mạnh của nhà thơ Anh
Ngọc” [43].
Trong bài viết Tôi viết về Campuchia từ máu thịt (tháng 2 năm 2009),
tác giả Đoàn Minh Tâm đã tìm hiểu hồn cảnh ra đời của trường ca Sông Mê


7
Kông bốn mặt. Đi sâu vào tác phẩm, tác giả đã so sánh “Theo tôi thông
thường tên (nhất là của thể loại trường ca) đều là những hình ảnh mang tính
biểu tượng cao lặp đi lặp lại trong tác phẩm nhưng ở Sơng Mê Kơng bốn mặt,
hình tượng con sơng Mê Kơng tương đối nhạt nhịa mà thay vào đó là sự trở
đi trở lại của nhân vật trữ tình tơi”. Khi đọc Sơng Mê Kơng bốn mặt, Đồn
Minh Tâm thấy “cảm hứng của tác giả đi từ sự kinh ngạc, khâm phục rồi ngợi

ca vẻ đẹp của các công trình kiến trúc trên đất Campuchia ... và dừng lại ở
những chiêm nghiệm về cái sự vĩnh hằng và bình dị của cuộc sống. Con
đường đi của cảm hứng sáng tác như vậy tương đối dài ” [63]. Tác giả cảm
nhận “Phải chăng Sông Mê Kông bốn mặt không chỉ viết về đất nước
Campuchia mà còn viết về Việt Nam, và rộng hơn nữa là về cõi đời này” [63].
Trong bài Nhiều ám ảnh đã đưa tôi đến với trường ca (tháng 2 năm
2009), nhà báo Nguyễn Quang Việt đã viết: “Khi đã trực tiếp cầm súng chiến
đấu, thực hiện chiến tranh, lặn sâu vào người lính giúp ơng (tức nhà thơ Anh
Ngọc) kịp nhận ra rằng, để tái hiện lại “gương mặt” chiến tranh thì những bài
thơ thuần túy cảm xúc là chưa đủ. Anh Ngọc tìm đến trường ca như một tất
yếu về thể loại và biểu đạt ... Có thể nói rằng, trường ca đã góp phần khơng
nhỏ làm nên tầm vóc thơ Anh Ngọc” [77]. Tìm hiểu trường ca Sóng Cơn Đảo,
tác giả đã thấy “Xun suốt trường ca là sự trở đi trở lại của hình tượng sóng.
Hình tượng sóng đan xen và kết dính theo chuỗi dài làm nên mạch cảm xúc
mênh mông và sâu lắng về nỗi đau và niềm căm uất không cùng của cả một
thế kỷ ngục tù”. Nguyễn Quang Việt đã nhận xét một cách khái quát nội dung
trường ca Anh Ngọc: “Nếu như Sóng Cơn Đảo quy mơ rộng về tinh thần bất
khuất của dân tộc thì Sơng núi trên vai đặt ra vấn đề khá đặc thù: phụ nữ và
chiến tranh ...”. “Sông Mê Kông bốn mặt cũng khái quát tấn bi kịch của hai
dân tộc Campuchia và Việt Nam cách nay đã ba mươi năm, một sự ám ảnh
không dứt” [77].
Trong các bài viết đã nêu ở trên, các tác giả đã phần nào chỉ ra những
đặc điểm, vẻ đẹp và sức sống riêng của thơ và trường ca Anh Ngọc. Dù còn


8
sơ lược, đấy là những gợi ý hết sức quan trọng cho chúng tơi trong q trình
thực hiện đề tài này. Trên cơ sở tham khảo những ý kiến của người đi trước,
chúng tơi sẽ tiếp tục phân tích và lí giải sâu hơn về đặc điểm trường ca Anh
Ngọc.

3. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm trường ca Anh Ngọc
4. Phạm vi tư liệu khảo sát
4.1. Nguồn tư liệu khảo sát chính là bốn trường ca của Anh Ngọc :
Sóng Cơn Đảo (1975)
Sông Mê Kông bốn mặt (1988)
Điệp khúc vô danh (1993)
Sơng núi trên vai (1995)
4.2. Ngồi ra, chúng tơi cịn mở rộng khảo sát các tác phẩm thơ của
Anh Ngọc và tham khảo các trường ca của các nhà thơ tiêu biểu thế hệ chống
Mỹ như : Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Anh Thái ... để có sự so
sánh nhằm tìm ra nét riêng của trường ca Anh Ngọc.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu vị trí trường ca Anh Ngọc trong bối cảnh trường ca Việt
Nam giai đoạn sau 1975.
5.2. Tìm hiểu những đặc điểm cảm hứng và hình tượng nghệ thuật của
trường ca Anh Ngọc.
5.3. Tìm hiểu những phương thức thể hiện trong trường ca Anh Ngọc.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành làm luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp khảo sát – thống kê
Phương pháp loại hình
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp so sánh - đối chiếu


9
7. Đóng góp của luận văn
Với luận văn này, chúng tơi là những người đầu tiên khảo sát tồn bộ

trường ca của Anh Ngọc để tìm ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và
hình thức nghệ thuật trong trường ca của ơng. Luận văn góp phần khẳng định
vị trí quan trọng của Anh Ngọc đối với sự phát triển của nền thơ Việt Nam
hiện đại nói chung và trường ca Việt Nam hiện đại nói riêng.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Trường ca Anh Ngọc trong bối cảnh trường ca Việt Nam
sau 1975
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và hệ thống hình tượng trong trường ca
Anh Ngọc
Chương 3: Phương thức thể hiện trong trường ca Anh Ngọc


10
Chương 1
TRƯỜNG CA ANH NGỌC
TRONG BỐI CẢNH TRƯỜNG CA VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Những tiền đề lịch sử - thẩm mĩ dẫn đến sự nở rộ trường ca
trong thơ Việt Nam sau 1975
1.1.1. Khái niệm trường ca
Trường ca (tiếng Pháp: poème, trong thuật ngữ văn học Liên Xô cũ gọi
là poema), được hiểu theo một nghĩa rất rộng với nội hàm tương đối khó xác
định. Khái niệm trường ca bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ giữa những năm
50 của thế kỉ XX, dùng để gọi tên những sáng tác dân gian có tính sử thi và có
độ dài như Đam San, Xinh Nhã … Theo cách này, trường ca còn được hiểu
như là sự đồng nhất với sử thi, anh hùng ca (Iliat, Ôđixê, Ramayana…) hoặc
như các Khan ở Tây Nguyên, các Mo của dân tộc Mường vùng núi Tây Bắc.
Tuy nhiên, khái niệm trường ca dần dần được vận dụng để gọi tên những tác
phẩm thơ hiện đại dài hơi có dung lượng lớn, sự kiện bao qt và có quy mơ

cảm xúc, tư tưởng lớn… Thể loại trường ca trong văn học hiện đại là mối
quan tâm của các nhà nghiên cứu và của chính các tác giả viết trường ca. Trên
đường đi tìm định nghĩa hồn chỉnh cho thể loại trường ca đã có rất nhiều ý
kiến khác nhau.
Từ điển thuật ngữ Văn học định nghĩa: “Trường ca là một tác phẩm thơ
có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca
(Poème) cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi (épopée) thời cổ và thời
trung đại, khuyết danh hoặc có tác giả. Tên gọi “trường ca” một thời dùng chỉ
các sử thi dân gian như Đăm san, nay thường được dùng để chỉ các sáng tác
thơ dài của các tác giả như Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn, Đường tới
thành phố của Hữu Thỉnh” [25, 319].
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có khá nhiều bài viết đề cập đến thể
loại trường ca. Ơng cho rằng: “Có thể gọi chung các sáng tác thơ dài hiện nay


11
là trường ca với nhiều kiểu kết cấu khác nhau: Trường ca kể chuyện, thơ sân
khấu, trường ca trữ tình chính luận…” [4,28]. Ơng định nghĩa: “Trường ca là
tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện
trữ tình. Trường ca (pịeme) cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi
(épopée) cổ đại và trung đại, khuyết danh hoặc có tác giả, mà theo các nhà
nghiên cứu khác nhau, chúng được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử
thi và truyện kể (theo A.Veselovski) hoặc bằng cách “nới rộng” một hoặc một
vài truyền thuyết dân gian (theo A- Hoysles) hoặc bằng cách cải biên các cốt
truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian (theo A.Lord,
M.Pany). Trường ca được phát triển từ những thiên sử thi miêu tả những sự
kiện mang ý nghĩa lịch sử toàn dân” [6].
Tác giả Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Mấy vấn đề về đặc trưng thể loại
và thi pháp trường ca cho rằng: “Trường ca chỉ một thể loại tác phẩm thơ đặc
biệt có đặc trưng nội dung xác định” [28], mà theo ơng đó là "nội dung lớn".

Tác giả Vũ Đức Phúc xác nhận: “Trường ca là một thuật ngữ văn học
mới chưa có sự thống nhất, chưa ổn định để sáng tác thơ dài” [51] và ông
phân chia trường ca thành anh hùng ca và sử thi, truyện thơ và thơ trữ tình.
Hà Minh Đức – Bùi Văn Nguyên khi nghiên cứu hình thức và thể loại
của thơ ca Việt Nam, cũng khẳng định: “Trường ca là một hình thức của
truyện thơ … Trường ca không dung nạp mọi loại đề tài và mọi loại tính cách.
Nội dung trường ca thường gắn với phạm trù thẩm mỹ về cái đẹp, cái hùng,
cái cao cả. Những tính cách chủ yếu trong trường ca dù là một tính cách riêng
biệt hay tập thể cũng đều có phẩm chất cao cả ở mức độ này hay khác.
Trường ca thường có cốt truyện như một truyện thơ nhưng đơi khi cốt truyện
khơng hồn chỉnh, nhất là khi gắn với việc ca ngợi hoặc miêu tả trực tiếp
những sự kiện lịch sử nào đó mà bản thân những sự kiện lịch sử này chưa
hình thành một cốt truyện cụ thể”[49,395].
Nhà thơ Thu Bồn cho rằng: “Trường ca là một thể loại thơ dài nhằm
thể hiện một chủ đề tư tưởng thơng qua hình tượng thơ ca, sử dụng ngôn ngữ,


12
nhân vật, âm điệu, bố cục … một cách điêu luyện và tinh xảo nhất của toàn bộ
nghệ thuật thơ ca” [12, 536]. “Trường ca là một tòa lâu đài của thơ ca, là một
kiến trúc tổng hợp của thơ ca”[12, 538].
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về trường
ca. Điều này cho thấy thể trường ca vẫn đang trong quá trình vận động, phát
triển. Trạng thái biến đổi của trường ca khiến cho những định nghĩa trước đây
không đủ sức bao quát những đặc điểm của nó. Việc xác định thuật ngữ
trường ca hiện nay cũng chỉ mang tính chất tương đối. Cơng việc của người
nghiên cứu là bám sát thực tiễn sáng tác, đánh giá xu hướng phát triển của thể
loại, nắm bắt thêm những nét mới trong q trình hồn thiện thể loại.
Trên cơ sở các ý kiến đã nêu, thông qua việc nghiên cứu, khảo sát các
tác phẩm trường ca đã ra đời trong và sau kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi

tạm thời giới hạn thuật ngữ trường ca hiện đại như sau: Trường ca là những
tác phẩm thơ có dung lượng lớn, ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội
có những biến cố lịch sử trọng đại, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.
1.1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội, thẩm mĩ sau 1975
Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 của quân dân ta là một sự kiện có ý
nghĩa và tầm vóc thế giới. Chiến cơng vĩ đại ấy đã đem lại hịa bình và thống
nhất đất nước. Từ đây, giang sơn liền một dải, cả dân tộc cùng nhau hàn gắn
vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc chiến tranh vừa mới kết thúc, âm hưởng của “ngày hội chiến
thắng” vẫn còn vang vọng trong trái tim mỗi người. Cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ vĩ đại của dân tộc trong suốt ba mươi năm thực sự tạo nên
một hiện thực sử thi rộng lớn thúc đẩy sự ra đời của những tác phẩm có quy
mơ và âm hưởng anh hùng ca. Cuộc chiến tranh mà dân tộc ta tiến hành là
cuộc chiến đấu quyết liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm và có ý nghĩa
thế giới trọng đại. Cuộc chiến đấu với tầm vóc lớn lao của nó đã đặt ra những
vấn đề có ý nghĩa về mặt lịch sử và xã hội. Chiến tranh đã tạo ra “nội dung


13
lớn” cho phép nhà thơ thực hiện những dự định nghệ thuật lớn, vượt qua giới
hạn khuôn khổ thơ trữ tình vươn tới quy mơ của trường ca. Cuộc chiến đấu
“đau thương mà vĩ đại” ấy địi hỏi phải có những bản trường ca tương xứng
để ngợi ca, cổ vũ, động viên, đồng thời để nhận diện, tổng kết, khái qt về
cuộc chiến tranh của dân tộc. Chính vì vậy, trường ca ra đời và nở rộ sau năm
1975 là một tất yếu, nó xuất phát từ nhu cầu khái quát hiện thực, nhu cầu mở
rộng khuôn khổ và sức dung chứa của tác phẩm thơ.
Văn học Việt Nam vốn gắn bó chặt chẽ với đời sống và vận mệnh của
dân tộc nên từ sau 1975 cũng dần chuyển sang một thời kỳ mới, với những
đặc điểm và quy luật vận động khác trước.

Trong chiến tranh, con người buộc phải "gác tình riêng mưu việc
chung", đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, đặt tình u đất nước lên
trên tình u lứa đơi, hạnh phúc lứa đơi. Chiến tranh kết thúc, thơ phải trở về
với những cảm xúc gần gũi, chân thực của con người trong trạng thái bình
thường, đời thường. Sự trở về này là chuyển biến tất yếu, khách quan của thơ
trong điều kiện cuộc sống khơng cịn trạng thái sử thi. “Thơ phải đời hơn,
người hơn với những cung bậc vui buồn khác nhau” [19,55].
Sau 1975, quan hệ giữa thơ và hiện thực cuộc sống cũng đã được nhận
thức lại. Nền văn học cách mạng với cảm hứng lãng mạn và cảm hứng sử thi
đã nhìn cuộc sống chủ yếu ở khía cạnh tích cực của nó, né tránh những mặt
khắc nghiệt của hiện thực. Điều đó tạo nên sự phiến diện trong quan niệm về
thơ ca, về hiện thực. Giờ đây, hiện thực được nhìn nhận một cách tồn vẹn, cả
mặt sáng lẫn mặt tối, mặt khuất lấp. “Nhìn thẳng vào sự thật” khơng chỉ là
thái độ chính trị mà cịn là một trong những cảm hứng chủ đạo trong thơ nói
chung, trường ca nói riêng. Trong thơ ca giờ đây, tất cả mọi điều đều có thể nói
đến, kể cả hiện thực khắc nghiệt của xã hội. Thơ khơng chỉ có cảm hứng ngợi ca
mà cịn có cảm hứng lên án, tố cáo. Với ưu thế “sức dung chứa lớn”, trường ca
đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh mọi mặt của cuộc sống. Bởi thế nên trường
ca đã tồn tại và phát triển ngày càng mạnh mẽ những năm sau 1975.


14
Đất nước thống nhất, những người làm thơ với những hoàn cảnh khác
nhau đã hội nhập với sự đa dạng về kiểu nhà thơ và bản sắc cá nhân. Lực
lượng sáng tác thơ chưa bao giờ lại đông đảo như vậy. “Góp phần làm nên
diện mạo chính của thơ sau 1975 là lớp nhà thơ trẻ xuất hiện trong thời kỳ
chống Mỹ cứu nước. Họ có ưu thế và thuận lợi hơn so với thế hệ trước. Phần
lớn trong số họ được sinh ra sau cách mạng, lớn lên khi nhân dân ta đã giành
được độc lập hịa bình trên một nửa đất nước, được đào tạo một cách bài bản
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Vốn kiến thức văn hóa nói chung, những

hiểu biết có hệ thống về văn học và thơ ca nói riêng đã nằm ngay trong hành
trang của họ trong những bước đầu tiên đến với thơ” [48]. Thế hệ chống Mỹ
cũng được kế thừa những kinh nghiệm, những thành tựu nghệ thuật của thế hệ
đi trước nên có nhiều thuận lợi. Nhiều người đạt tới độ chín trong đời thơ của
mình đồng thời táo bạo trong thể nghiệm, cách tân như: Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Anh Ngọc, Vũ Quần Phương … Sáng tác của họ
là tiếng nói của người trong cuộc nói về chính họ, về thế hệ họ. Do vậy, tác
phẩm của họ nóng hổi hơi thở của cuộc chiến đấu, thấm nhuần tinh thần lãng
mạn cách mạng, thấm nhuần chất sử thi – anh hùng ca.
Có thể nói, sự tiếp nối quá khứ và tiếp cận cái mới dường như đã tăng
thêm sức mạnh cho các nhà thơ trẻ. Thế hệ trẻ đầy tài năng ấy tìm đến thể loại
trường ca để thể hiện những tình cảm thiêng liêng với nhân dân và đất nước
trong những ngày tháng làm nên lịch sử. Chính vì vậy, khi nói tới thành tựu
của nền thơ chống Mỹ, khơng thể khơng nói tới sự đóng góp nổi bật của thế
hệ những nhà thơ trẻ tài năng và tâm huyết này.
1.1.3. Sự nở rộ của trường ca như một hiện tượng thể loại trong thơ
Việt Nam sau 1975
Thể loại trường ca ở Việt Nam đã có một vị trí nhất định trong đời sống
văn học dân tộc. Trường ca có khả năng khái quát, tổng hợp cả về nội dung,
hình thức và thể loại. Trường ca là bước phát triển mới của thơ trữ tình trong
khả năng bao quát, khái quát cuộc sống do nhu cầu mở rộng dung lượng phản


15
ánh hiện thực. Xét trên phương diện nội dung, tính chất khái quát, tổng hợp
cho phép trường ca có một khả năng ôm chứa, chuyển tải nội dung lớn. Vấn
đề cốt yếu của nội dung lớn là vấn đề tư tưởng, tình cảm của tác giả có sức
khái qt sâu sắc. Maiakovxki từng nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng
trong câu nói nổi tiếng của ơng: Có thể khơng viết về chiến tranh nhưng nhất
thiết phải viết bằng chiến tranh. Cái quyết định nội dung lớn của trường ca là

viết bằng những tư tưởng gì, cịn viết về cái gì là điều thứ yếu. Tư tưởng là
một tứ thơ lớn của trường ca. Nhà thơ Anh Ngọc đã từng có ý kiến: “Để sáng
tác trường ca cần phải huy động mình đến mức rất cao… phải thường xuyên
mở cửa nhìn ra xung quanh để tìm cho mình một lối đi riêng… lối đi đó là sợi
chỉ tư tưởng…Tư tưởng là kết quả của những quan sát, những chiêm nghiệm,
những suy tưởng. Một nhận thức cụ thể có thể chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn nhưng tư tưởng đúng có sức sống lâu dài vượt qua năm tháng” [44]. Ý
kiến này rất bổ ích cho việc nghiên cứu các trường ca hiện đại, khi chuyện
viết về đề tài gì ít được coi trọng.
Thực tế sáng tác cho thấy, trường ca Việt Nam hiện đại chỉ thực sự phát
triển và trở thành hiện tượng khi bước vào giai đoạn chống Mỹ cứu nước và
sau khi chiến tranh kết thúc. Chỉ trong một thời gian ngắn mà thể loại này đã
đạt được nhiều thành tựu cả về chất và lượng. Bài ca chim Chơ rao (1963) của
Thu Bồn có thể coi là phát súng khởi đầu cho sự phát triển rầm rộ của trường
ca chống Mỹ, là thành công đầu tiên đáng chú ý của thể trường ca viết về
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau đó hàng loạt trường ca đã ra đời, có thể
điểm qua một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng ở đất Hoan
Châu (Võ Văn Trực, 1976); Bandan khát (Thu Bồn, 1977); Ngọn giáo búp đa
(Ngô Văn Phú, 1977); Những người đi tới biển (Thanh Thảo, 1977); Mặt trời
trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo, 1977); Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh,
1979); Đất nước hình tia chớp (Trần Mạnh Hảo, 1980); Trường ca sư đoàn
(Nguyễn Đức Mậu, 1980); Hành khúc mùa xuân (Trần Vi Mai, 1980); Con
đường của những vì sao (Nguyễn Trọng Tạo, 1980); Riêng Anh Ngọc có đến


16
4 trường ca: Sóng Cơn Đảo (1975), Sơng Mê Kơng bốn mặt (1988), Điệp khúc
vô danh (1993), Sông núi trên vai (1995). Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều
trường ca ra đời, gắn liền với sự thành danh của các cây bút: Thu Bồn, Thanh
Thảo, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo…

Giai đoạn sung sức nhất của trường ca hiện đại Việt Nam là khoảng hai
thập kỷ 70 và 80 của thế kỉ XX. Trường ca viết trong thời kỳ này thuộc
chặng đường chuyển tiếp từ văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền
văn học của thời kỳ hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp thể hiện rõ ở cả đề tài,
cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học.
Trường ca Những người đi tới biển (Thanh Thảo) là cuộc hành trình của
mỗi người đến với dân tộc, đến với cuộc chiến nhân dân vĩ đại. Trên con
đường đó rất nhiều chơng gai và nước mắt, những người lính đã hy sinh
những tháng năm tươi trẻ nhất, hy sinh cả tình yêu, cả bản thân mình để quyết
thắng cho tổ quốc. Trường ca của Thanh Thảo có những câu, những đoạn tinh
tế, xúc động và bùi ngùi, nó như là cảm thức của một dân tộc, một thế hệ
thanh niên trước sự mất mát quá to lớn, trước cảm giác ý thức được mình mà
phải quên mình đi, trước những tháng năm cuộc đời vĩnh viễn không bao giờ
lấy lại được:
Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ Quốc
Cỏ sắc mà ấm q, phải không em?
Những người đi tới biển của Thanh Thảo miêu tả người lính từ lúc ra đi,
chia tay mẹ để đến với cuộc đời khốc liệt. Từ giây phút ấy đến ngày tồn
thắng là qng đời khơng thể nào quên, nhân vật tôi đã gặp biết bao con
người- những người lính nếm mật nằm gai, chia nhau manh áo rách, củ sắn lùi
với anh. Đó là anh Sáu Như, anh Ba Tốt, anh Tám Hùng… Tất cả những con
người đó cũng có tuổi trẻ, cũng có cuộc đời, tình yêu, hy vọng và mơ ước. Từ


17
cuộc đời mỗi người lính và sự hy sinh cao cả của họ, Thanh Thảo đã khái quát
sức mạnh của nhân dân:
Mãi mãi sống cịn hỡi nhân dân tơi

Người mãnh liệt hơn cả ngàn truyền thuyết
Dẫu ai được ngàn lần tái sinh cũng không sao hiểu hết
Tấm lưng trần kia mang nặng những gì
Chặng đường của nhân vật Tơi đi qua cũng giống như chặng đường của
Tổ Quốc, giờ nhìn lại thấy gian lao, vất vả, ngậm ngùi nhưng lại vơ cùng hào
hùng, mãnh liệt. Cái cịn lại cuối cùng vẫn là tình u, là nhân văn, chính
nghĩa. Chính tình yêu mãnh liệt với đất nước của mỗi con người đã làm nên
chiến thắng, đã giúp nhân dân “tới biển”.
Hình tượng người lính là hình tượng trung tâm và chủ đạo của văn học
viết về chiến tranh. Cuộc đời họ là những bản tráng ca, là những người anh
hùng trong bất kỳ cuộc chiến tranh chính nghĩa nào. Trường ca có ưu thế là đã
tạo được âm hưởng anh hùng ca, đã tổng kết cuộc hành trình vĩ đại của người
lính chiến đấu vì lý tưởng nhân văn, vì sự sống còn của dân tộc.
Nội dung lớn đòi hỏi phải có một hình thức tương xứng. Trường ca là
thể loại mang tính tổng hợp cả trên phương diện hình thức, từ thể thơ tới
giọng điệu, hệ thống hình ảnh, ngơn ngữ… Một trong những đặc điểm nổi bật
của trường ca là việc sử dụng kết hợp nhiều thể thơ trong một trường ca để
thay đổi khơng khí, cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng, đơn điệu, đem đến cho
tác phẩm một chất lượng nghệ thuật mới. Trong trường ca hiện đại Việt Nam,
các thể thơ truyền thống và hiện đại được sử dụng đan xen, thường là thơ tự
do, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ, những câu văn xuôi, thơ lục bát… trong đó thơ tự do
chiếm vị trí chủ đạo. Tính chất khái quát, tổng hợp của trường ca được thể
hiện ngay trong hệ thống hình ảnh. Trường ca sử dụng phổ biến hệ thống hình
ảnh biểu tượng, tượng trưng (cỏ, sóng, đất, cát, lửa, nước…). Trường ca cịn
có sự phối hợp của nhiều giọng điệu. Người viết trường ca phải có một nguồn
cảm hứng mãnh liệt và quan trọng là phải duy trì được nồng độ của cảm xúc


18
từ đầu đến cuối trường ca mà khơng bị lỗng. Độ dài trường ca đòi hỏi sự mở

rộng của biên độ cảm xúc, sự thay đổi linh hoạt các sắc thái cảm xúc, sự kết
hợp của nhiều giọng trong một trường ca.
Trường ca sử dụng tổng hợp phương thức tiếp cận của cả ba loại hình
tự sự, trữ tình và kịch. Sự kết hợp đó chủ yếu nhằm mở rộng dung lượng, tăng
cường khả năng bao quát hiện thực của trường ca. Tự sự và trữ tình là hai
phương thức thể hiện chủ yếu trong trường ca hiện đại Việt Nam. Sự kết hợp
giữa tự sự và trữ tình là đặc trưng cơ bản của trường ca. Trữ tình bộc lộ chủ
thể, bộc lộ những cảm xúc và suy nghĩ; tự sự phản ánh khách thể, là miêu tả,
tạo nên dáng dấp hiện thực. Trong trường ca, sự gia tăng của yếu tố tự sự là
hệ quả của việc tăng cường chất liệu đời sống.
Trường ca Việt Nam càng ngày càng có xu hướng gia tăng chất triết lí,
cho thấy chiều sâu trong khả năng chiêm nghiệm hiện thực của các tác giả
trường ca. Không chỉ dừng lại ở những chiêm nghiệm bó hẹp về tính dân tộc,
giới hạn trong một giai đoạn lịch sử nhất định, những trải nghiệm đã được đẩy
cao lên tính nhân loại và chạm tới tinh thần nhân văn cao cả, chạm tới tính
người mn thuở, những vấn đề cốt lõi muôn đời của cuộc sống nhân sinh.
Nhà thơ cũng khơng cịn mải mê với những triết lý cũ về chiến tranh mà đã
đẩy sâu hơn những suy nghĩ trăn trở về cuộc sống đời thường khiến cho
những triết lý mang đậm màu sắc nhân sinh thế sự…
Sự phát triển rầm rộ của trường ca viết về đề tài chiến tranh những năm
sau 1975 có thể lý giải từ bối cảnh lịch sử - xã hội. “Trong khơng khí chiến
thắng hào hùng của thời đại mới, những nhà thơ – người lính từng một thời
vào sinh ra tử ở chiến trường có một nhu cầu hết sức tự nhiên là tổng kết,
nhận diện lại về lịch sử, đất nước, nhân dân một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn”
[48]. Trường ca với những ưu thế đặc biệt về thể loại đã nhanh chóng đáp ứng

được nhu cầu đó. Trường ca có thế mạnh trong việc chiếm lĩnh và phản ánh
cả một khoảng không gian, thời gian rộng lớn, dựng lên những chân dung tính
cách của người anh hùng, nhân dân, đất nước trong thời đại chống Mỹ. Nhân



19
vật trung tâm trong trường ca là những hình tượng chứa đựng phẩm chất và
tinh thần chung của cả thời đại như đất nước, nhân dân, người lính, người phụ
nữ. Các trường ca thời kỳ này cơ bản vẫn tiếp tục cách tiếp cận từ quan điểm
sử thi về hiện thực chiến tranh.
Với tư cách là những người trong cuộc, những nhà thơ mặc áo lính có
nhu cầu được phát ngôn cho những đau thương mất mát mà thế hệ mình, đất
nước mình, nhân dân mình đã trải qua. Họ vừa là người chứng kiến chiến
thắng oai hùng, vĩ đại của dân tộc, đồng thời cũng là người thấu hiểu sâu sắc
những hi sinh, mất mát, cái giá phải trả cho những vinh quang đó. Do đó,
chiến tranh khơng chỉ được nhìn từ mặt trước mà cịn được nhìn từ phía sau
với bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Các nhà thơ khơng chỉ nói
niềm vui chiến thắng mà cịn nói nhiều hơn, thấm thía, day dứt hơn về sự mất
mát, hi sinh, những chịu đựng âm thầm, lặng lẽ của nhân dân. Chính vì có ưu
thế về độ dài nên trường ca đã được các tác giả tìm đến để phản ánh cuộc
chiến tranh đúng như nó xảy ra.
Trên đây là những lý do giải thích cho sự nở rộ của trường ca những
năm sau 1975. So với trường ca trước 1975, trường ca ở giai đoạn này đã thể
hiện một cái nhìn trầm tĩnh hơn, hiện thực chiến tranh được tái hiện toàn vẹn,
sâu sắc và chân thực hơn. Các tác giả viết trường ca đã kết hợp khá nhuần
nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, đan xen phối hợp nhiều thể thơ trong một
trường ca, phác họa được nhiều chân dung của nhân vật trữ tình nhằm vươn
tới xu hướng khái quát, tổng hợp, mở rộng hiện thực, tăng cường tính triết lý,
chính luận trong thơ.
1.2. Khái quát về các chặng đường thơ Anh Ngọc
1.2.1. Anh Ngọc – vài nét tiểu sử
Nhà thơ Anh Ngọc tên thật là Nguyễn Đức Ngọc, sinh vào mùa thu
năm 1943 tại Nghi Lộc - Nghệ An. Anh Ngọc cịn có bút danh khác là Ly
Sơn. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường đại học Tổng hợp Hà Nội, ông

giảng dạy ở trường Thương nghiệp rồi trở thành lính thơng tin liên lạc và gắn


20
bó với qn đội. Ơng là cựu chiến binh mặt trận Quảng Trị năm 1972. Anh
Ngọc từng là phóng viên báo Quân đội nhân dân, biên tập viên của tạp chí
Văn nghệ qn đội; có mặt tại nhiều chiến trường B, K và biên giới (19731979). Ông sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện, ký và cả dịch thuật. Ông đã
đạt được rất nhiều giải thưởng văn chương như: Giải thưởng cuộc thi truyện
ngắn báo Văn nghệ 1998 - 2000, giải thưởng cuộc thi sáng tác Văn học cho
thiếu niên nhi đồng - Nhà xuất bản Trẻ, giải thưởng văn học Nguyễn Trãi Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Hội Văn
học nghệ thuật Hà Tây, 2001… Hiện ông về nghỉ hưu với quân hàm Đại tá.
1.2.2. Hành trình sáng tạo của Anh Ngọc
Anh Ngọc là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà
thơ Việt Nam trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là một
nhà thơ mặc áo lính, ơng ln cố gắng tìm sự độc lập trong suy nghĩ, không
ngừng theo đuổi những dự định sáng tạo mới, nỗ lực hết mình để cống hiến
cho thơ ca. Và hành trình đó vẫn đang được tiếp tục.
Trước 1975, Anh Ngọc sáng tác các tác phẩm: Cây xấu hổ (1972), Sài
Gịn đêm giao hưởng (1975). Ơng nổi tiếng từ chùm thơ được giải nhì cuộc thi
báo Văn nghệ 1972 -1973, trong đó có bài thơ Cây xấu hổ, sáng tác vào ngày
31/5/1972 tại mặt trận Quảng Trị. Có thể nói rằng, đã hơn một phần ba thế kỷ
đi qua, tên tuổi của ông luôn gắn liền với bài thơ Cây xấu hổ. Cây xấu hổ có
sức lan tỏa nhanh trong công chúng yêu thơ, nhất là thế hệ thanh niên sinh
viên nhập ngũ vào những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Hoàn cảnh ra đời của Cây xấu hổ rất đặc biệt, Anh Ngọc viết trong khoảnh
khắc ngắn ngủi của một chiều hè đỏ lửa năm 1972. Anh Ngọc tâm sự: “Cịn
nhớ, một buổi trưa, tơi một mình, một cây súng đi nối đường dây vừa bị đứt…
tơi khơng nghĩ tới điều gì to tát mà chỉ thường thực một phản xạ không điều
kiện là nhảy bổ vào những bụi cây lúp xúp ven đường tránh bọn giặc trời. Và
lần ấy tôi đã lao ngay vào một lùm xấu hổ và bị loài cây nhỏ đầy gai này cào



21
cho tứa máu… Chiều ấy về đơn vị tôi đã viết về loài cây này” [26]. Và những
câu thơ như thể thực sự đã đồng cảm được với một thế hệ thanh niên ra trận:
Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Cây hiện lên như một niềm ấp ủ
Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ
Ướp vào trong trang sổ của mình
Và chuyện này chỉ cây biết với anh.
Bằng thủ pháp đối lập, Anh Ngọc đã khẳng định sức sống không gì vùi
dập được của thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam. Âm hưởng thời đại,
âm hưởng thi ca đã tác động vào thơ ông tạo nên giọng điệu hăm hở, say mê
và có phần hào sảng. Đọc Sài Gịn Đêm giao hưởng trước mắt chúng ta hiện
lên một Anh Ngọc sáng láng, bay bổng và cũng rất thiết tha:
Phút này đây ta giành trọn cho nhau
Anh trọn của em đến tận cùng ý nghĩ
Giai điệu đẹp như hồn em cao quý
Anh nhắm mắt vào uống cạn suối âm thanh.
Từ 1975 đến 1986, Anh Ngọc sáng tác các tác phẩm: Sóng Cơn Đảo
(1975), Hương đất mầu cờ (1977), Ngàn dặm và một bước (1984). Giai đoạn
này ơng sáng tác ít và khơng có những thành cơng thật nổi bật.
Giai đoạn từ 1986 đến bây giờ là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của
hồn thơ Anh Ngọc. Ông sáng tác rất nhiều tác phẩm: Ba cuộc đời một trái
bóng (Truyện ký, 1986), Sông Mê Kông bốn mặt (Trường ca, 1988), Điệp
khúc vơ danh (Trường ca, 1993), Thơ tình rút từ nhật ký (Thơ, 1993), Sông núi
trên vai (Trường ca, 1995), Một con mèo nằm ngủ trên ngực tôi (Thơ, 1997),
Mạnh hơn tuyệt vọng (2001)… Sau cuộc chiến, cái phần hào sảng trong ơng ít
dần đi mà thay vào đó là sự lắng sâu, xoáy xiết: Những bước chân xin hãy nhẹ
nhàng hơn/ bài điếu văn cũng đừng sang sảng quá/ rừng thổn thức để rơi vài

chiếc lá/ lá thì vàng mà tóc họ đang xanh (Điệp khúc vơ danh). Cái ngây ngất
của Sài Gòn đêm giao hưởng đã được thay bằng nỗi thổn thức của người cầm


22
bút. Chiến tranh được phản ánh sâu hơn ở một góc độ khác: nỗi mất mát đau
thương vơ cùng to lớn mà dân tộc này, đất nước này gánh chịu. Anh Ngọc chỉ
muốn viết đúng lịng mình và hình như cũng muốn bù lại cái phần khiếm
khuyết, thiếu hụt của thơ trong chiến tranh. Từ trường ca Sông Mê Kông bốn
mặt, Anh Ngọc đã thể hiện sự trở về của mình, ơng có ý thức hướng thơ mình
vào những vấn đề mn thủa của con người, đó là sự sống và cái chết, chiến
tranh và hịa bình… với những trang viết đầy đam mê, tâm huyết.
Ngoài sáng tác thơ, Anh Ngọc cịn viết tiểu luận, phê bình. Ơng tỏ ra là
cây bút viết phê bình sắc sảo và có sự am hiểu sâu sắc về lý luận. Ông cũng là
một dịch giả có tài. Tuy nhiên mặt mạnh của Anh Ngọc thể hiện rõ nhất là ở
thể loại thơ và nhất là trường ca.
1.3. Vị trí của trường ca trong sự nghiệp sáng tác của Anh Ngọc
1.3.1. Quan niệm về nghệ thuật của Anh Ngọc
Anh Ngọc đã từng thổ lộ: có hai câu thơ phác thảo gần đúng chân dung
tinh thần và tâm hồn mình. Một là câu của chính ông, câu: Điều không thể nói
lại là điều không thể giấu. Một là của nhà thơ nổi tiếng Xuân Diệu: Làm sao
sống được mà khơng u. Nói ra điều này, có lẽ nhà thơ Anh Ngọc khơng
muốn giấu mình và hình như ở một cấp độ cao hơn ơng đã bày tỏ quan niệm
sống. Trong quan niệm của ông: Cuộc sống đơn giản hơn ta tưởng rất nhiều/
Và phức tạp hơn ta từng nghĩ. Rõ ràng, những câu thơ mang chất triết luận
này, người ta khó có thể viết được khi cịn trẻ, lúc ơng chưa va đập nhiều với
cuộc đời, cịn ít từng trải, chưa chứng kiến nỗi bi thương và nỗi tầm thường
của thế gian.
Quan niệm về thơ, về nghệ thuật, sau 1975, Anh Ngọc đã bộc bạch:
Tôi đi qua tuổi học trị

Nói năng khn phép câu thơ sáo mịn
Cười mình quen thói đại ngơn
Thương vay khóc mướn véo von một thời
Câu thơ dẫu viết xong rồi


23
Vẫn như thấy thiếu … một lời ở trong
Một lời thốt tự đáy lòng
Một lời vẽ được chân dung của mình
(Điệp khúc vơ danh).
Như vậy là đã rõ! Giờ đây, tác giả muốn tìm một con đường vào thơ
trong nguyên dạng trần trụi của những số phận, cảnh ngộ và các bức tranh đời
thường. Anh Ngọc muốn trung thực đến tận đáy lịng mình, ơng muốn trở về
với thơ mn đời: Đó là sự trở về cần thiết để hịa vào dịng chảy có thể đi tới
vĩnh cửu (tự bạch của nhà thơ).
Sâu sắc và chân thực cho thơ, đó là tâm niệm và định hướng của Anh
Ngọc. Thơ ca cần phải đổi mới nhưng đổi mới phải nương tựa vào đâu? Anh
Ngọc cho rằng “kinh nghiệm và cũng là bài học sáng tác của ông nằm trong
ba điều tâm niệm: Yêu thật, đau thật và viết thật. Nhìn lại những gì mà ơng
tạm bằng lịng với mình đều được viết ra từ ngun lý ấy, dù vơ tình hay cố ý.
Dĩ nhiên, từ thật ở đây cần được hiểu một cách bản chất, không phải là cái
thật thà thô sơ thường tình, mà là cái thật của nghệ thuật, được diễn đạt bằng
sức mạnh đặc thù của nghệ thuật” [24]. Chung nhau một chữ thật, nằm ngoài
cái ấy là sự giả. Nhưng cái giả trong văn chương nghệ thuật thường nhận ra
khó hơn cái giả trên sân đấu, sân cỏ của thể thao. Nhà thơ Anh Ngọc cho rằng
viết ra nỗi cơ đơn, sự tuyệt vọng của mình cũng chính là cuộc hành hương trở
về với thơ chân thực, làm sao có thể viết khác đi tâm trạng, cảm xúc và lý trí
của mình được.
Theo nhà thơ, “mỗi tác phẩm ra đời là sản phẩm tinh thần diễn đạt đúng

tâm thế của người viết trong một thời thế nhất định. Ngay với những sáng tác
có q trình sáng tạo hoặc phải chỉnh sửa trong một thời gian dài thì cũng
phải diễn ra trong một tâm thế và thời thế nhất quán; cũng như thái độ đối với
sự thật lịch sử, việc can thiệp vào những tác phẩm của chính mình trong quá
khứ, cả về nội dung lẫn hình thức, khi tâm thế và thời thế đã thay đổi là điều
không nên và không thể” [43].


24
Khi nói về ảnh hưởng của thơ ca trong đời sống văn chương cũng như
đời sống tinh thần của dân tộc, nhà thơ Anh Ngọc đã nhận xét: “Sự ảnh hưởng
của thơ vào đời sống tinh thần của con người tinh vi và âm thầm, khơng ồn ào
và nhanh chóng như các thứ ngơn ngữ khác như chính luận, tranh cổ động hay
cả âm nhạc… Từ những tác phẩm lớn như Truyện Kiều hay các tác phẩm của
các nhà thơ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cho đến Thơ mới đều tìm được
sự cộng hưởng trong lịng đơng đảo cơng chúng. Trước hết, tơi nghĩ rằng,
chính vì những sáng tác ấy, từ góc độ này hay góc độ khác, đều đáp ứng được
nhu cầu có thực trong lịng nhân dân, diễn đạt hộ con người những cảm nhận
tinh vi về cuộc sống, những khát vọng cháy bỏng hay âm thầm, bằng thứ
ngôn ngữ nghệ thuật sâu sắc nhưng giản dị, tinh túy nhưng không cầu kỳ, mới
mẻ nhưng không xa lạ… Những tác phẩm ấy bằng vẻ đẹp của sự chân thực đã
trở thành người bạn sẻ chia những buồn vui cùng con người, nâng đỡ con
người trong những thời khắc nó cần đến sự hỗ trợ của những tấm lòng đồng
cảm. Đến thời kỳ cách mạng và kháng chiến, trước đòi hỏi to lớn của đất
nước và nhân dân trong cuộc chiến đấu sống còn với kẻ địch, thơ ca đã
chuyển mình mạnh mẽ, ln có mặt trong đội ngũ chiến đấu bằng thứ vũ khí
sắc bén của mình, chấp nhận hy sinh những nhu cầu duy mỹ thuần túy của
thời bình, để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim toàn dân tộc đang chiến
đấu. Với cách dấn thân như vậy, dĩ nhiên thơ đã làm được hơn cả một người
bạn tâm tình, nó cịn là một người lính như mn vàn người lính khác… Tuy

nhiên sau chiến tranh… thơ phải trở lại với nhiệm vụ âm thầm và tinh vi của
mình… Nhưng tìm tịi cái mới là vơ cùng khó khăn. Nó địi hỏi nhiều thời
gian và tâm huyết, địi hỏi sự chín muồi của hồn cảnh và người viết, địi hỏi
tài năng… là những thứ khơng thể cố gắng mà có thể đạt được ngay” [24].
Anh Ngọc là một nhà thơ có ý thức sâu sắc về nghề viết. Ông từng phát
biểu những quan niệm riêng của mình về tư tưởng trong trường ca: “Để sáng
tác trường ca cần phải luôn huy động mình đến mức rất cao… phải thường
xuyên mở cửa nhìn ra xung quanh để tìm cho mình một lối đi riêng… lối đi


25
đó là sợi chỉ tư tưởng, … tư tưởng là một hệ thống nhận thức, bao quát một
khu vực trong ý thức của người viết trước cuộc sống. Chính tầm vóc của tư
tưởng chứa đựng quy mơ của trường ca. Có những trường ca chỉ có một tư
tưởng từ đầu đến cuối, nhưng cũng có những trường ca có đến mấy tư tưởng
khác nhau. Tư tưởng là kết quả của những quan sát, những chiêm nghiệm,
những suy tưởng. Một nhận thức cụ thể có thể chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn nhưng tư tưởng đúng có sức sống lâu dài vượt qua năm tháng” [42]. Có
thể nói, ý kiến trên rất bổ ích cho việc nghiên cứu các trường ca hiện đại, khi
chuyện viết về đề tài gì ít được coi trọng.
Quan niệm về nghệ thuật của Anh Ngọc phản ánh đúng bản chất của
nghệ thuật và thống nhất với thực tiễn sáng tác của nhà thơ. Anh Ngọc chỉ
muốn viết đúng lịng mình và có lẽ như vậy mà những câu thơ của ông luôn
nhận được sự đồng cảm của các thế hệ bạn đọc.
1.3.2. Về vị trí của trường ca trong sáng tác của Anh Ngọc
Khi đã trực tiếp cầm súng chiến đấu, hiện thực chiến tranh lặn sâu vào
người lính giúp ơng kịp nhận ra rằng, để tái hiện “gương mặt” chiến tranh thì
những bài thơ thuần túy về cảm xúc là chưa đủ. Anh Ngọc tìm đến trường ca
như một tất yếu về thể loại biểu đạt. Ơng nói: “Quả nhiên, trường ca là sản
phẩm của thời đại. Khó có thể loại nào mang tính khái qt tổng hợp được

như thế. Nó địi hỏi cả bề rộng lẫn chiều sâu của tư tưởng, đủ sức xuyên suốt
tác phẩm mà không làm mất đi mạch nguồn cảm xúc. Tính thời đại với nhiều
ám ảnh đã đưa tôi tới với trường ca” [26]. Với Anh Ngọc, trường ca là sản
phẩm của thời đại. Ông cho rằng, nhu cầu của thời đại sản sinh ra trường ca,
thể loại văn học khái quát những vấn đề lớn với bề rộng của quy mơ, chiều
sâu của tư tưởng. Ơng cũng khẳng định sự không thể thay thế được của thể
loại này trong nhu cầu tiếp cận đời sống của con người: “Tơi nghĩ tâm thế và
thời thế lúc đó thơi thúc những nhà thơ thế hệ chúng tôi buộc phải viết trường
ca. Chất liệu cuộc sống đồ sộ, nguồn cảm hứng lớn “đặt hàng” cho nhà thơ
phải viết dài, thực sự có nhu cầu tát cạn mình” [41] . Anh Ngọc không chỉ viết


×