Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

bảo hiểm nhân thọ và đôi điều về bankcassurance

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.71 KB, 47 trang )

Nhóm 03, lớp 24TD_T09
MỤC LỤC
1
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ rất sớm và đã trở nên quen thuộc đối với người dân
của các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam loại hình bảo hiểm này
vẫn còn khá mới mẻ. Nó mới được biết đến trong những năm gần đây. Sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ đầu tiên được triển khai ở Việt Nam vào năm 1996 bởi Tổng Công ty
Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Sau đó, mãi đến năm 1999 một số doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ được thành lập và hình thành nên thị trường bảo hiểm nhân thọ thực sự
ở Việt Nam.
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm gắn với con người, thực hiện theo
nguyên tắc “số đông bù số ít” và là loại hình bảo hiểm vừa khắc phục hậu quả rủi ro,
vừa là hình thức tiết kiệm có kế hoạch. Vì vậy, bảo hiểm nhân thọ ra đời nhằm bảo
đảm ổn định cuộc sống cho người dân, ổn định trật tự an toàn xã hội và góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Khi đời sống kinh tế-xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu
về bảo đảm an toàn của cá nhân ngày càng cao. Do đó, sẽ phát sinh nhu cầu tham gia
bảo hiểm nhân thọ.
Hiện nay, bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam đã được triển khai hầu hết các tỉnh,
thành trong cả nước và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, thị trường
bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam là một thị trường đầy tiềm năng nhưng khả năng khai
thác thị trường để đáp ứng nhu cầu của dân cư còn rất nhỏ bé. Trên cơ sở đó, việc
nghiên cứu và đề ra những giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt nam
là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
NỘI DUNG
Chương I
SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở
VIỆT NAM


1. VỀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC:
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Kinh doanh bảo hiểm ngày 09 tháng 12 năm 2000;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính tại tờ trình số 43/TTr-BTC ngày 07
tháng 5 năm 2003 và công văn số 7813 TC/TCNH ngày 29 tháng 7 năm 2003
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2010" với những nội dung chủ yếu sau đây:
1.1. Mục tiêu
Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng
nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân
được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn
lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực
tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng
yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt
Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.
1.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu
a) Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo
hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng
28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm
2005 và 4,2% năm 2010.
Đến năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng
khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm
2002.
3
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
b) Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân
sách nhà nước giai đoạn 2003 - 2010 tăng bình quân 20%/năm.
1.3. Những giải pháp chủ yếu

1.3.1. Về cơ chế chính sách
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động kinh doanh bảo hiểm để
thị trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo
đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ,
ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài
hạn; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu triển khai các sản
phẩm bảo hiểm nông, lâm, ngư nghiệp; chú trọng mở rộng phạm vi hoạt động
đến các vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới
bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm, Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào
lĩnh vực môi giới bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty
quản lý quỹ theo qui định của pháp luật. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn
đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam
được áp dụng các cơ chế, chính sách về đầu tư như các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước.
- Nhà nước có cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp bảo hiểm tự bổ sung
vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý
kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc
tế, được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh
vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
1.3.2. Về tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp
- Sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hiện có, bảo đảm nâng cao
năng lực kinh doanh, phát triển các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng thị phần, thị
trường. Các thành phần kinh tế không thuộc kinh tế nhà nước có đủ các điều

kiện theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, được thành lập công ty cổ
phần bảo hiểm.
- Các doanh nghiệp nhà nước không được sử dụng vốn nhà nước để thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm mới và góp vốn thành lập công ty cổ phần bảo hiểm
mang tính chuyên ngành.
4
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung,
phạm vi hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật.
- Việc cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị
trường, lộ trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Chú trọng đến các công ty
bảo hiểm thuộc các nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các
công ty có năng lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo
hiểm và có đóng góp vào sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
- Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh
doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào
các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành
công ở nước ngoài và thành lập các công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước
ngoài.
1.3.3. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
- Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn
mực quản lý bảo hiểm quốc tế. Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo
hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các doanh nghiệp bảo
hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính
vào hoạt động của các doanh nghiệp.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để Hiệp hội thực
hiện được vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan quản lý

nhà nước.
2. MỨC ĐỘ CẠNH TRANH TRONG NGÀNH:
Năm 1996 đánh dấu sự ra đời của ngành bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam bằng
việc Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ. Đáp lại
yêu cầu của quá trình mở cửa và hội nhập cũng như yêu cầu phát triển của bản thân
ngành bảo hiểm nhân thọ. Với sự gia nhập của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
nước ngoài, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về
quy mô, sản phẩm, chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp.
Từ tháng 8/1996 đến giữa năm 1999 chỉ có Bảo Việt “Một mình một chợ”, đến
nay số lượng công ty bảo hiểm nhân thọ lên đến con số 11 gồm có:
• Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam : là công ty 100%
vốn nước ngoài của Anh Quốc, đây là công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có
vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai trương 29/11/1999 và thời gian hoạt
động là 50 năm.
5
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
• Công ty TNHH Bảo hiểm Manulife Việt Nam: là cty 100% vốn nước ngoài
của Canada, khai trương hoạt động 12/6/1999, vốn ĐKKD 10 triệu USD, thời
gian hoạt động 50 năm.
• Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ AIA (Việt Nam): cty 100% vốn nước
ngoài của Mỹ, khai trương hoạt động 22/2/2000, vốn ĐKKD 10 triệu USD,
thời gian hoạt động 50 năm.
• Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ, Công ty THHH Bảo Hiểm Nhân Thọ ACE,
Công ty TNHH bảo hiểm Nhân thọ Prévoir Việt Nam, Công ty THNN Bảo
hiểm nhân thọ Great Eastern Việt Nam, Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ
Hàn Quốc, Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Vietcombank-Cardif, Công ty
bảo hiểm nhân thọ Daiichi Việt Nam, Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ
Cathay Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các NDBH Việt Nam đã chú trọng cải thiện công tác
đầu tư tài chính: một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm

bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu
quả kinh tế cao như: góp vốn liên doanh, tham gia thành lập cty cổ phần, tham gia các
dự án đầu tư, cho vay, gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đầu tư chứng khoán
Hoạt động tài chính của các công ty BHNT cũng được đa dạng hóa hơn trước.
Công ty BHNT không chỉ dừng lại ở đầu tư trái phiếu Chính phủ dài hạn mà đã mở
rộng sang lĩnh vực chứng khoán, xây dựng cơ bản, dịch vụ (khách sạn, ngân hàng, vui
chơi giải trí, xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, GTVT )
Sự phát triển sôi động của thị trường BHNT Việt Nam trong những năm
qua tiếp tục dự báo cho một tương lai phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm nhân
thọ. Đó cũng là đấu hiệu cho thấy các công ty bảo hiểm sẽ cạnh tranh nhau về khá
nhiều mặt. Tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, có thể thấy rõ ở các thị trường lớn
như Hà Nội, Thành Phố HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng sự cạnh tranh thể hiện trên tất cả
các mặt như thu hút khách hàng, thu hút đại lý (chính sách thù lao), sản phẩm,dịch vụ,
địa bàn hoạt động, quảng cáo, khuyến mại
Nếu như mới hoạt động Manulife,Prudential và AIA chỉ tập trung triển khai
ỏ hai địa bàn là Hà Nội, Thành Phố HCM và chủ yếu hướng vào khách hàng có thu
nhập trung bình khá trở lên, thì đến nay các công ty này đã tích cực mở rộng phạm vi
hoạt động sang các địa bàn còn lại và hướng tới các khách hàng có thu nhập trung bình,
đến thời điểm này các đều lấy mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường là mục tiêu
hàng đầu.
Xét về mặt tích cực, cạnh tranh thực sự trở thành một nhân tố quan trọng
thúc đẩy thị trường phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doạnh nghiệp,
đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về Bảo hiểm nhân thọ, giúp đưa dịch vụ Bảo hiểm
nhân thọ đến tận nhà khách hàng, cũng nhờ cạnh tranh các doanh nghiệp đã nâng cao
chất lượng phục vụ khách hàng, chất lượng khai thác, đa dạng hoá sản phẩm, đồng thời
thúc đẩy điều khoản, quy trình nghiệp vụ (như in bản mô tả quyền lợi Bảo hiểm, đánh
giá rủi ro ), bổ xung các dịch vụ tăng giá trị (cho vay phí tự động, cho vay theo hợp
6
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
đồng, khôi phục hiệu lực hợp đồng ), hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, trong

đó đang chú trọng là mô hình đại lý, chế độ thù lao cho đại lý theo hướng hiệu quả
hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ. Cạnh tranh cũng
thôi thúc các doanh nghiệp tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh như ứng
dụng tin học, đa dạng hoá các kênh phân phối. Thời gian qua các doanh nghiệp Bảo
hiểm nhân thọ rất tích cực ứng dụng khoa học công nghệ thông tin vào hầu hết các
công việc như phát hành, quản lý hợp đồng, in hoá đơn, kế toán, thống kê quảng cáo
giới thiệu sản phẩm Ta có thể thấy một số biểu hiện của việc cạnh tranh giữa các cty
BHNT:
 Chạy đua mở rộng chi nhánh : các cty BHNT chạy đua mở rộng chi
nhánh của mình ở rộng khắp để tăng thêm tầm ảnh hưởng và thu hút được
nhiều khách hàng, có thêm được nhiều kênh đầu tư hơn.
Như Cathay Life chỉ trong vòng một năm đã liên tục mở các văn phòng tại các
thành phố lớn như: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ. Cathay Life dự kiến, mỗi
năm sẽ mở thêm hai chi nhánh tại các tỉnh, thành trên toàn quốc. Kế hoạch tham vọng
của Cathay Life cho thấy sự khốc liệt trong cạnh tranh của thị trường bảo hiểm. Có thể
thấy thị trường BHNT đang có một cuộc chạy đua về số lượng chi nhánh và đại lý, đặc
biệt là nhắm đến việc phát triển mô hình tổng đại lý. Như nhận định của Prudential cho
biết, với mô hình tổng đại lý, công ty sẽ hỗ trợ cho công việc của đội ngũ tư vấn tài
chính cũng như phục vụ khách hàng tại địa phương thuận tiện hơn.
Hiện nay, với 14.500 nhân viên và tư vấn tài chính đang làm việc tại 56 văn
phòng trên toàn quốc chăm sóc cho hơn 510 ngàn khách hàng, chỉ trong tám tháng qua,
đã khai trương 35 văn phòng tổng đại lý, nâng tổng số các văn phòng của công ty tại 63
tỉnh thành lên con số 180.
Cũng không hề kém cạnh trong cuộc chạy đua này, AIA Việt Nam cũng đi theo
mô hình tương tự Prudential. Gần đây nhất, AIA Việt Nam đã khai trương các văn
phòng tổng đại lý tại Phú Thọ vào tháng 8/2010 và tại Quảng Nam vào đầu tháng
9/2010 và sẽ tiếp tục khai trương thêm các văn phòng tổng đại lý tại một số địa phương
khác trong thời gian sắp tới. Nhưng theo đại diện một tổng đại lý của Prudential, đối
thủ cạnh tranh về chiến lược mở rộng chân rết lớn nhất của Prudential chính là Bảo
Việt Nhân thọ. Hiện Bảo Việt Nhân thọ có hệ thống mạng lưới 60 công ty thành viên

và hơn 200 điểm phục vụ khách hàng, đội ngũ gần 2.000 nhân viên và 19.500 đại lý
trên toàn quốc.
Mặt khác ta còn thấy song song với kênh phân phối truyền thống là đại lý, các
công ty BHNT đang hướng đến một kênh phân phối hiện đại đầy triển vọng là ngân
hàng. Bảo Việt nhân thọ vừa qua đã đẩy mạnh thêm kênh phân phối qua ba ngân hàng
đối tác chính là Techcombank, HSBC, Bảo Việt Bank; ACE Life hợp tác với HD bank,
Sacombank, ANZ; AIA liên kết với các ngân hàng như: ACB, BIDV, Ngân Hàng Việt
Nam Thương Tín, Ngân hàng Tiền Phong Dai-ichi Life Việt Nam cho rằng, hình
thức hợp tác giữa doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng (bancassurance) đã phát triển
7
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
rất mạnh mẽ trên thế giới nhưng chỉ mới được chú ý tại Việt Nam một vài năm trở lại
đây. Về hình thức kinh doanh mới này (bancassurance), đa phần các công ty BHNT
đều cho rằng đây là kênh phân phối của tương lai. Còn hiện tại, kênh truyền thống đại
lý vẫn là kênh chính, vì kinh doanh BHNT vẫn phải dựa nhiều vào việc thuyết phục
trực tiếp khách hàng, các khách hàng hiện tại cũng chưa hiểu rõ về phương thức này,
việc kinh doanh chủ yếu của các cty chủ yếu là thuyết phục khách hàng cá nhân theo
những cách truyền thống đang thực hiện và hi vọng về một ngày của việc phát triển
bancassurance. Vài ba năm nữa, khi trình độ hiểu biết về BHNT của người dân cao
hơn, khi đó kênh ngân hàng sẽ chắc chắn thành công.
 Chạy đua về thể thức các loại hình kinh doanh: các cty BHNT đi sâu vào
việc đa dạng hóa các sản phẩm của mình, tạo ra những sự khác biệt để thu
hút khách hàng, hoặc là đua nhau tung ra các sản phẩm mới để dễ dàng cạnh
tranh hơn.
Như chúng ta biết thì bảo hiểm là ngành kinh doanh niềm tin. Sản phẩm của các
doanh nghiệp không có nhiều khác biệt và chênh lệch về chất lượng. Thế nhưng, tần
suất tung ra sản phẩm mới lại cao bất ngờ, rất đa dạng và tập trung chứ không dàn trải.
Dù đã chiếm hơn 40% thị phần, đáng lẽ thời điểm này Prudential chỉ lo tập trung khai
thác các sản phẩm đã quen thuộc cũng đủ giữ vững vị thế. Nhưng tốc độ tung sản phẩm
mới của Prudential thời gian gần đây khiến các công ty khác phải "ngợp", tỏ ra là một

đại gia trong làng BHNT, việc tung ra hàng loạt cá sản phẩm mới sẽ gây áp lực tâm lí
lên các cty khác – đòi hỏi họ cũng phải nghiên cứu khai thác thị trường theo những
hướng mới hơn thì mới có thể cạnh tranh được. Gần đây, công ty này chú trọng vào các
sản phẩm bảo hiểm rủi ro cho cá nhân và gia đình, như Phú hưng phúc định kỳ, Phú
hưng thịnh Còn Bảo Việt Nhân thọ lại mở chiến dịch sản phẩm mới theo cách đánh
tổng lực, nhưng cũng hết sức có chọn lọc. Trước tiên, Bảo Việt chú trọng vào lĩnh vực
y tế bằng hai sản phẩm bảo hiểm bổ trợ mới là bảo hiểm Trợ cấp phẫu thuật và điều trị
ngoại khoa và bảo hiểm trợ cấp nằm viện - khách hàng được mở rộng quyền lợi bảo
hiểm với 535 loại phẫu thuật và điều trị ngoại khoa khác nhau; hưởng nhiều mức trợ
cấp chi phí nằm viện cao, có thể lên đến 500 ngàn đồng/ngày và tổng số ngày nằm viện
được tính trả trợ cấp lên đến 365 ngày trong thời hạn bảo hiểm một năm.
Các đối thủ đua nhau tung ra sản phẩm mới, cũng không kém bất ngờ là sản
phẩm "Bảo hiểm tai nạn toàn cầu" của ACE Life ra mắt đầu tháng Tám vừa qua với
mức phí khá bình dân. Cá nhân trong độ tuổi từ 17 - 60 (đang cư trú tại Việt Nam) có
thể tham gia sản phẩm với mức phí chỉ khoảng 4.800 đồng/ngày, mức bồi thường lên
đến 1 tỷ đồng khi khách hàng không may gặp rủi ro Những cty mới gia nhập thị
trường BHNT Việt Nam cũng nhanh chóng tung ra những sản phẩm mang đặc thù
riêng của mình. Công ty Bảo hiểm nhân thọ Great Eastern không chọn khởi đầu là các
sản phẩm “nhân thọ trọn đời”, mà hướng đến đối tượng trẻ, trong đó tập trung vào
mảng y tế, giáo dục. Còn Korea Life Vietnam cũng đưa ra thị trường một sản phẩm
chuyên biệt dành cho đối tượng khách hàng đang chuẩn bị cho kỳ hưu trí là sản phẩm
An khang hưu trí toàn diện - sản phẩm thuộc dòng bảo hiểm hỗn hợp. Thời gian tới,
Korea Life Vietnam dự kiến sẽ mở thêm văn phòng kinh doanh tại Bình Dương và tiếp
8
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
tục đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm bổ sung Có thể thấy sự chạy đua hết
tốc lực của các cty để tranh giành thị trường, thị trường thì không phải một chốc là có
thể nở ngay ra được, nhưng các dịch vụ và sản phẩm thì lại đua nhau nở rộ như nấm
sau mưa.
 Sự cạnh tranh về việc giảm phí bảo hiểm:các cty BHNT đua nhau giảm

phí bảo hiểm để thu hút khách hàng. Đôi khi việc giảm phí này cũng là
không tốt, vì các cty quá chạy đua theo việc giảm phí mà ít để ý hơn đến
mức độ rủi ro và đối tượng bảo hiểm. Như vậy sẽ dễ tạo ra những rủi ro
tiềm ẩn cho khách hàng.
 Mở rộng điều kiện bảo hiểm: tăng thêm tỉ lệ bồi thường cho các hợp đồng
bảo hiểm.
Tính đến cuối năm 2001, dẫn đầu trên thị trường Bảo hiểm nhân thọ vẫn là Bảo
việt – là doanh nghiệp nhà nước và là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu tư
nước ngoài với thị phần là 54,3% , tốc độ tăng trưởng doanh thu phí đạt 64,8% và là
doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới phủ khắp các tỉnh thành. Các doanh nghiệp khác
cũng đạt được kết quả rất tốt, đặc biệt là Prudential đã đạt được kết quả khá ngoạn
mục. Chỉ trong vòng 2 năm Prudential đã vươn nên vị trí thứ hai với gần 30% thị phần
và trở thành đối trọng lớn đối với Bảo việt trên thị trường. AIA, BM-CMG, Manulife
trong năm 2001 cũng gia tăng thị phần, tuy nhiên tính tới thời điểm này thì các doanh
nghiệp này cũng chỉ chiếm được thị phần khá nhỏ. Với đặc điểm khách hành là các cá
nhân, số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng, có thể nhận định được rằng trong thời
gian tới thị trường Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam sẽ thêm sôi động, cạnh tranh thêm sâu
sắc cả về mọi mặt theo hướng có lợi cho khách hàng, đồng thời chứa đựng nhiều yếu tố
bất ngờ .
Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong thời
gian qua còn tạo ra sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ rệt nhất là cạnh tranh giữa hệ
thống ngân hàng, bưu điện với ngành Bảo hiểm nhân thọ trong việc thu hút vốn nhàn
rỗi từ công chúng .
Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi nhưng Bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực
kinh doanh màu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước
ngoài. Có thể nhận định rằng, cùng với chính sách hội nhập của Việt Nam cũng như
việc thực hiện hiệp định Việt- Mỹ, trong thời gian tới chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều
gương mặt mới trên thị trường Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam làm cho thị trường thêm
sôi động. Việc tăng vốn của các doanh nghiệp đang đang hoạt động trên thị trường
cũng đã khẳng định điều này.

Trong 6 tháng đầu năm 2010, thị trường bảo hiểm nhân thọ tiếp tục có sự bứt
phá đáng ghi nhận với doanh thu khai thác mới tăng trưởng khoảng 25% (chưa tính
Bảo Việt). Vị thế của các công ty bảo hiểm nhân thọ hàng đầu không có sự thay đổi.
Đứng đầu thị trường vẫn là Prudential, tiếp sau đó là bảo hiểm Nhân thọ (Bảo Việt) và
Manulife. Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn
9
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
và các công ty bảo hiểm mới gia nhập thị trường dần dần lấy mất thị phần của các công
ty đã có mặt trên thị trường. Korea Life là một ví dụ. Công ty này được thành lập tháng
4/2009 và đã nhanh chóng giành được 0,28% thị phần doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ
gốc và 1,14% thị phần khai thác mới trong năm 2009. Những tín hiệu khả quan đó của
thị trường là động lực khiến các doanh nghiệp thuộc ngành bảo hiểm nhân thọ “tăng
tốc” nhanh hơn. Từ nay đến hết năm 2010, các doanh nghiệp thuộc khối này sẽ tung ra
hàng loạt sản phẩm mới, trong đó hướng mạnh tới phân khúc thị trường hưu trí, bảo
hiểm nhóm và bảo hiểm y tế…
Trong khi đó, các công ty bảo hiểm khác như ACE Life, tỷ lệ tăng trưởng khai
thác mới 6 tháng đầu năm 2010 cũng đạt khoảng 40%; “tân binh” Korea Life Vietnam
có doanh thu phí khai thác mới trong quý II/2010 tăng trưởng gần 80% so với cùng kỳ
năm trước Sau khi chính thức ký kết hợp tác chiến lược với ILA để cung cấp thêm
những giá trị gia tăng cho khách hàng, Korea Life Vietnam cũng đưa ra thị trường một
sản phẩm chuyên biệt dành cho đối tượng khách hàng đang chuẩn bị cho kỳ hưu trí của
mình là sản phẩm An khang hưu trí toàn diện - sản phẩm thuộc dòng bảo hiểm hỗn
hợp. Thời gian tới, Korea Life Vietnam dự kiến sẽ mở thêm văn phòng kinh doanh tại
Bình Dương và tiếp tục đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm bổ sung…
Dù bị những ảnh hưởng nhất định trước vụ sáp nhập với Prudential (bất thành)
của tập đoàn mẹ, tuy nhiên tình hình khai thác hợp đồng mới của AIA Việt Nam trong
6 tháng đầu năm vẫn khá khả quan. Những tháng cuối năm nay, AIA Việt Nam cũng
dự tính mở rộng thêm thị trường và cũng tung ra một vài sản phẩm bảo hiểm mới.
Số liệu thống kê chưa chính thức cho thấy, tổng doanh thu phí từ hợp đồng khai
thác mới của Prudential Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2010 tăng 27%. Thị phần

(tính theo doanh thu phí) của Prudential vẫn giữ vững ở mức 40%. Được biết, trong
thời gian tới, Prudential sẽ tiếp tục mở rộng kênh bảo hiểm qua ngân hàng với những
ngân hàng đối tác lớn; tiếp tục phát triển hệ thống văn phòng tổng đại lý, đặc biệt tại
các thành phố lớn và nâng cao hình ảnh, tính chuyên nghiệp và hiệu quả của hệ thống
văn phòng hiện tại… Prudential Việt Nam cũng đã có những kế hoạch đưa ra thị
trường một số sản phẩm bảo hiểm chuyên biệt trong thời gian sớm nhất. Quý I/2010,
Công ty cũng đạt mức tăng trưởng ấn tượng 33% doanh thu từ hợp đồng mới.
Cuộc cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm nhân thọ được nhận định sẽ hết sức
sôi động bởi những động thái mới trên thị trường, đặc biệt là việc sắp vào cuộc của
những công ty bảo hiểm mới có vốn đầu tư nước ngoài (có thể trong những tháng cuối
năm 2010). Lãnh đạo các công ty bảo hiểm đang có mặt tại thị trường bảo hiểm Việt
Nam không chỉ đau đầu lo giữ nhân sự, mà còn phải nát óc suy nghĩ để cho ra thị
trường những sản phẩm bảo hiểm mới với nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng. Bởi
các công ty bảo hiểm vào sau có những lợi thế nhất định trong việc tận dụng, phát huy
những ưu điểm của các sản phẩm bảo hiểm đang có mặt trên thị trường và bổ sung
thêm nhiều giá trị gia tăng để thu hút khách hàng. Chính vì thế, “cuộc chiến” nâng cấp
10
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
và tung vào thị trường những “món hàng” độc đáo, mới lạ giữa các công ty bảo hiểm
sẽ ngày càng quyết liệt hơn và đương nhiên trong “cuộc chiến” này, khách hàng sẽ là
người được hưởng lợi nhiều nhất. cho thấy được sự khốc liệt trong cuộc cạnh tranh
giữa các công ty BHNT.
Tuy vậy hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh (như tung tin giả), cạnh tranh
theo kiểu chộp giật đã xuất hiện gây tác động xấu đến thị trường làm ảnh hưởng xấu
đến hình ảnh của ngành, mặc dù các doanh nghiệp đã đạt được thoả thuận hợp tác
chung tại bản ghi nhớ chung ngày 10 tháng 7 năm 2000 nhằm thiết lập một thị trường
cạnh tranh lành mạnh. Những năm trước, các doanh nghiệp ngành bảo hiểm từng bị
“thổi còi” vì để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, nhận định
“phải có 10% thị phần thì mới gọi là có tên tuổi” vẫn khiến nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm sẵn sàng chịu lỗ để có thị phần. Và tất nhiên, để gia tăng sức cạnh tranh về thị

phần, các công ty BHNT đang tung ra tất cả chiêu thức cho trận chiến thị phần. Sự
cạnh tranh không lành mạnh có thể bóp nghẹt thị trường BHNT, thị trường thì không
phải là lớn lắm nhưng các công ty lại cứ phình to hơn nữa cả về qui mô và các dịch vụ
sản phẩm. Thêm vào đó chúng ta cũng nên nhìn ra những rủi ro của những khoản bảo
hiểm có những điều kiện lỏng lẻo, vì đôi khi vì quá chạy theo khách hàng và lợi nhuận
đã khiến các công ty BHNT nghĩ ra những chiêu bài thu hút khách hàng và đi kèm với
nó là những rủi ro tiềm ẩn, có thể là rủi ro thanh khoản, rủi ro về việc phá sản, về việc
đảm bảo rút được tiền phí bảo hiểm cũng như thủ tục bồi hoàn rườm rà hơn…
3. THỊ PHẦN CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM:
Với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia thị trường trong thời gian
qua, nhất là khi các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước được kinh doanh bình
đẳng trên hầu hết các lĩnh vực bảo hiểm theo lộ trình WTO, thì thị phần trên thị trường
bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng đang có sự thay đổi khá rõ nét.
Miếng bánh thị phần bảo hiểm nhân thọ đang được phân chia lại.
Theo một ước tính sơ bộ, năm 2009 Prudential tiếp tục dẫn đầu thị trường về
doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới (FYP) với 31%, Bảo Việt đứng thứ hai với 28%,
Manulife đứng thứ ba với 10%. ACE Life và AIA Life hiện đang theo sát nhau ở vị trí
thứ tư và thứ năm với khoảng 9% dành cho mỗi công ty. Dai-ichi Life Việt Nam chiếm
khoảng 7%, Prevoir khoảng 2%. Ba công ty còn lại là Cathay Life, Great Eastern và
Korea Life chiếm dưới 4% thị phần.
Do thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển, đồng thời
khách hàng ngày càng có nhiều lựa chọn hơn nên việc các công ty bảo hiểm cũ bị mất
thị phần về các công ty bảo hiểm mới gia nhập thị trường là điều bình thường. Chẳng
hạn như Dai-ichi Life Việt Nam, khi mua lại Bảo Minh - CMG thì thị phần lúc đó là
4,8%, nhưng hiện nay con số đã tăng lên khoảng 7%. Mục tiêu của doanh nghiệp này
tới năm 2012 là có được 10% thị phần.
11
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
Giám đốc maketing một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mới vào Việt Nam
mới đây cho rằng, “để thực sự có tiếng nói trong thị trường bảo hiểm, bạn cần có thị

phần từ 10% trở lên”. 10% tuy không quá lớn, nhưng đây cũng không phải là một mục
tiêu đơn giản, vì hầu như công ty nào cũng cố gắng vươn tới vị trí đứng đầu, trong khi
phải vượt qua các thách thức về khả năng nhận diện thương hiệu, quy mô và chất
lượng của hệ thống phân phối, sự thu hút của sản phẩm, khả năng tài chính và quyết
tâm của nhà đầu tư cũng như đội ngũ lãnh đạo công ty. Theo đại diện một doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, rất khó đưa ra câu trả lời phải mất bao nhiêu
thời gian để một doanh nghiệp bảo hiểm đã chiếm lĩnh được khoảng 10% thị phần có
thể đứng vào hàng “top 5” các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thị phần lớn nhất thị
trường. Dai-ichi Life Việt Nam dù đã có những nỗ lực đáng ghi nhận khi đã nắm trong
tay 7% thị phần sau một thời gian cơ cấu lại tổ chức và nhân sự, nhưng hiện doanh
nghiệp này đã bị AIA và ACE Life vượt qua. Khả năng lấn át thị phần bảo hiểm của
các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mới bước vào thị trường, theo đánh giá của các
chuyên gia trong ngành, đang ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Chẳng hạn như Korea
Life, tuy mới vào thị trường nhưng cũng đã bỏ xa Great Eastern và nếu chỉ so sánh
doanh thu phí bảo hiểm mới trong 9 tháng cuối năm 2009 thì Korea Life cũng đã vượt
qua Cathay Life. Thị trưởng bảo hiểm nhân thọ Việt Nam năm 2010 được nhận định sẽ
xảy ra những cuộc “soán ngôi” ngoạn mục giữa doanh nghiệp cũ và doanh nghiệp mới.
Theo một nguồn tin, trong năm 2010, có thể có thêm một vài doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ nữa chính thức bước chân vào thị trường. Tuy nhiên, lãnh đạo cấp cao một
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không tỏ ra lo ngại về sự tăng tốc của các doanh
nghiệp bảo hiểm mới. “Thị phần cũng quan trọng, nhưng chúng tôi sẽ không bằng mọi
cách để có được thị phần nhiều hơn. Bán được sản phẩm cũng tốt, nhưng đối với bảo
hiểm nhân thọ, điều quan trọng hơn là phải tìm cách duy trì được hợp đồng đó một
cách lâu dài. Nếu chỉ vì mục tiêu doanh thu mà tuyển dụng, đào tạo những tư vấn kém
chất lượng thì không những doanh nghiệp mất uy tín, mất thị phần, mà còn ảnh hưởng
đến toàn thị trường”, vị lãnh đạo này nói và nhận định, “để thành công với bảo hiểm
nhân thọ, không chỉ có sản phẩm, mà phải có yếu tố con người rất vững, có dịch vụ tốt.
Sâu xa hơn là một hệ thống đủ quy chuẩn để phục vụ tốt cho mỗi khách hàng đến suốt
cuộc đời, chứ không phải chỉ ngắn hạn trước mắt. Bảo hiểm nhân thọ là một cuộc chơi
dài”.

Thực tế, tại thị trường Việt Nam, “đất đai” dành cho bảo hiểm nhân thọ vẫn còn
rất rộng nên các doanh nghiệp còn nhiều cơ hội để thi thố tài năng, giành thị phần xứng
tầm với thương hiệu của mình. Đánh giá của Bộ Tài chính cho thấy, dù phát triển khá
mạnh mẽ, nhưng hiện tại, các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ tập trung khai thác một
số nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống, những sản phẩm bảo hiểm mới được triển khai
chưa nhiều, dịch vụ bảo hiểm ở khu vực nông nghiệp và nông thôn chưa được chú
trọng Các nhà hoạnh định chính sách về thị trường bảo hiểm dự báo, trong năm 2010
và 2011, mức tăng trưởng của thị trường bảo hiểm ổn định từ 12 - 13%/năm; doanh thu
phí bảo hiểm đạt 28.000 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư đạt 7.000 tỷ đồng.
12
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
4. SẢN PHẨM THAY THẾ ĐƯỢC KHAI THÁC TRONG THỜI GIAN HIỆN
NAY:
4.1. Bảo hiểm liên kết ngân hàng (bancassurance):
Bảo hiểm Liên kết Ngân hàng (Bancassurance) là loại hình phân phối Bảo hiểm
kết hợp giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng, ra đời nhằm mang đến cho khách hàng
đang tham gia các dịch vụ tài chính tại ngân hàng sự bảo vệ tài chính trước những rủi
ro ngoài ý muốn. Loại hình phân phối này đã và đang phát triển mạnh tại một số nước
nhưng nhìn chung vẫn đang rất mới mẻ với thị trường Việt Nam. Chính vì vậy sản
phẩm Bảo hiểm liên kết Ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách
hàng nhưng trong tương lai tình trạng này được kỳ vọng là sẽ cải tiến đáng kể.
Cùng với sự hậu thuẫn của Ngân hàng, Công ty Bảo hiểm có thể thiết kế sản
phẩm và phân phối cho nhiều phân khúc khách hàng của Ngân hàng, với một loạt sản
phẩm Bảo hiểm phù hợp với nhu cầu cần thiết của khách hàng và phù hợp với những
sản phẩm của Ngân hàng.
Hiện tại, ACE Life đang phối hợp cùng các ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam và
quốc tế cung cấp cho khách hàng hai dòng sản phẩm mang tính bảo vệ với đối tượng là
các khách hàng có nhu cầu gửi tiết kiệm và vay tín dụng tại ngân hàng (cả tín chấp và
thế chấp).
4.2. Bảo hiểm liên kết đầu tư:

Bảo hiểm liên kết đầu tư là một loại bảo hiểm nhân thọ có khả năng thỏa mãn 2
nhu cầu của khách hàng là được bảo vệ và tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Phí bảo hiểm sẽ được dùng để mua hợp đồng bảo hiểm và tham gia đầu tư trong các
quỹ đầu tư chuyên nghiệp
Về tiềm năng sản phẩm này có thể chiếm đến 70-80% doanh thu của ngành
BHNT mặt khác thị trường chứng khoán cũng thu hút thêm một lực lượng mới, vốn
mới cần cho phát triển. và nhà đầu tư người được bảo hiểm sẽ có thêm một lựa chọn
được bảo vệ vừa được tham gia vào một thị trường hấp dẫn có suất sinh lời cao.
Cùng với việc cung cấp các sản phẩm truyền thống, các công ty BHNT luôn tìm
hiểu và thiết kế các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Ở
những quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, các công ty BHNT biết rằng
khách hàng không chỉ có nhu cầu bảo vệ, tích lũy, mà còn có nhu cầu đầu tư. Mặc dù
đã có nhiều kênh để đầu tư nhưng khách hàng cũng muốn có thêm một kênh đầu tư
mới thông qua các công ty BHNT.
13
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
Sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư đã được thị trường thế giới biết đến cách đây
hơn 30 năm. Trước tiên là tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển như châu
Âu, Bắc Mỹ. Tại thị trường châu Á, sản phẩm này cũng rất phổ biến và trở thành xu
thế mới từ những năm 1990. Ở Việt Nam, cuối năm 2006 đầu năm 2007 khi thị trường
chứng khoán bật dậy, hoạt động tương đối ổn định thì nhu cầu được bảo vệ của nhà
đầu tư là rất cần thiết. Ngay sau đó, nhiều công ty quản lý quỹ cũng như các công ty
BHNT trong và ngoài nước lên kế hoạch để sẵn sàng nhập cuộc.
4.3. Bảo hiểm liên kết chung:
Quyết định số 96/2007/QĐ-BTC ngày 23/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
đã chính thức cho phép triển khai một loại hình sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mới tại
Việt Nam, đó là bảo hiểm liên kết chung (universal life) hay còn được biết đến nhiều
hơn với tên gọi bảo hiểm linh hoạt.
Bảo hiểm liên kết chung có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, phí bảo hiểm mà khách hàng đóng được tách thành phần phí bảo hiểm

dành cho bảo hiểm rủi ro (tử vong, thương tật toàn bộ vĩnh viễn ) và phần phí
bảo hiểm dành cho đầu tư. Chẳng hạn, trong 100 đồng phí bảo hiểm khách hàng
sẽ biết 5 đồng được dùng cho việc bảo hiểm rủi ro và 95 đồng còn lại được dùng
để góp vào một quỹ đầu tư (được gọi là quỹ liên kết chung). Đáng chú ý, ngoài
phần phí bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm
có thể đóng thêm phí bảo hiểm để tham gia vào quỹ liên kết chung. Toàn bộ phí
bảo hiểm đóng thêm sẽ được đầu tư vào quỹ liên kết chung sau khi trừ đi một
khoản phí ban đầu. Tuy nhiên theo quy định, trong mỗi năm hợp đồng, tổng số
phí bảo hiểm đóng thêm không được vượt quá 5 lần mức phí bảo hiểm năm đầu
đối với hợp đồng đóng phí định kỳ hoặc không quá 50% phí bảo hiểm lần đầu
đối với hợp đồng đóng phí một lần.
- Thứ hai, quyền lợi bảo hiểm cũng được tách bạch thành quyền lợi bảo hiểm rủi
ro (số tiền khách hàng được nhận khi gặp các rủi ro như tử vong, thương tật toàn
bộ vĩnh viễn ) và quyền lợi đầu tư (quyền lợi được hưởng từ phần phí bảo hiểm
dành cho đầu tư).
- Thứ ba, phần phí bảo hiểm dành cho đầu tư được đóng góp vào một quỹ đầu tư
do doanh nghiệp bảo hiểm quản lý và Bên mua bảo hiểm được hưởng toàn bộ
kết quả đầu tư từ quỹ liên kết chung. Như vậy, kết quả đầu tư mà khách hàng
được hưởng phụ thuộc vào kết quả đầu tư của quỹ liên kết chung do doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện. Chính vì lý do này, theo quy định doanh nghiệp bảo
hiểm phải thông báo cho khách hàng về hoạt động của quỹ liên kết chung. Tuy
nhiên, để giảm bớt rủi ro đầu tư mà khách hàng phải gánh chịu, theo quy định
hợp đồng bảo hiểm liên kết chung đưa ra cam kết về mức lãi suất đầu tư tối
thiểu mà khách hàng được nhận.
- Thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng các khoản phí do bên mua bảo hiểm
trả theo thoả thuận tại hợp đồng bảo hiểm như phí ban đầu, phí quản lý hợp
14
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
đồng, phí quản lý quỹ liên kết chung, phí thu khi khách hàng huỷ bỏ hợp đồng
Khách hàng được biết rõ các khoản phí mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thu và

cách thức thu.
Tóm lại, so với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống, bảo hiểm liên kết
chung có tính minh bạch cao hơn, linh hoạt hơn về đóng phí và quyền lợi được nhận,
bên mua bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư nhiều hơn thông qua việc lựa chọn quyền lợi
và/hoặc tăng mức phí bảo hiểm đóng khi thấy doanh nghiệp thực hiện được kết quả
đầu tư tốt. Tuy nhiên, do tính phức tạp của sản phẩm này cao hơn sản phẩm truyền
thống nên đòi hỏi khách hàng phải hiểu rõ các đặc điểm, điều kiện của hợp đồng trước
khi giao kết; người bán hàng cũng cần có kỹ năng tốt hơn.
Với sự ra đời của sản phẩm bảo hiểm liên kết chung, khách hàng có thêm lựa
chọn khi quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ, có thêm công cụ bảo hiểm - đầu tư
nhằm hoạch định tài chính một cách phù hợp nhất với nhu cầu của mình. Thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cũng có thêm cơ hội phát triển trong thời gian tới. Tuy
nhiên, không hoàn toàn đúng nếu khẳng định rằng sản phẩm liên kết chung ưu việt hơn
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống vì mỗi loại hình sản phẩm đáp ứng những
khách hàng với nhu cầu khác nhau của khách hàng.
4.4. Bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm:
Loại hình bảo hiểm này ra đời dựa vào thực trạng của nền kinh tế Việt Nam và
hiện tượng là sự giải thể hoặc mất khả năng chi trả của một số tổ chức tín dụng gây
thiệt hại đến khoản tiển gửi tiết kiệm của nhân dân.
Chính vì vậy bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm là một loại hình mà các tổ chức tín
dụng có nhiệm vụ phải mua. Đây là loại hình bảo hiểm góp phần nâng cao lòng tin của
công chúng. BHTGVN là một trong những tổ chức thực hiện các biện pháp phòng
ngừa và hạn chế tổn thất, ngăn chặn sự đổ vỡ hàng loạt các tổ chức tín dụng. Kể từ khi
được thành lập cho đến nay, BHTGVN đã từng bước khẳng định vai trò của mình
trong tiến trình đổi mới, cơ cấu lại hệ thống tài chính ngân hàng, không để xảy ra đổ vỡ
ngân hàng và không có bất kỳ khiếu nại nào của người gửi tiền liên quan đến cơ chế
BHTG. Trong suốt thời gian qua, BHTGVN đã bảo vệ trực tiếp và gián tiếp hàng chục
triệu người gửi tiền thông qua các nghiệp vụ BHTG như chi trả tiền gửi được bảo
hiểm, giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, tham gia tiếp nhận xử lý …
Giúp các tổ chức tham gia BHTG vượt khó khăn: Khi tổ chức tham gia

BHTG tạm thời khó khăn về thanh khoản, nguồn hỗ trợ tài chính kịp thời từ BHTGVN
sẽ giúp họ nhanh chóng vượt qua khó khăn, tiếp tục kinh doanh lành mạnh Vì vậy,
BHTG đã trở thành nhân tố quan trọng trong quá trình gây dựng và củng cố niềm tin,
uy tín và thương hiệu của các tổ chức tín dụng.
Định hướng phát triển lâu dài: Xu thế hiện nay các nước thành lập mới hay
cải tổ hệ thống BHTG đều theo đuổi mục tiêu bảo vệ tích cực và chủ động lợi ích
15
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
người gửi tiền. Nghĩa là các tổ chức BHTG được thiết kế theo mô hình “giảm thiểu rủi
ro” với các chức năng mở rộng tương ứng.
Nền tảng pháp lý vững chắc; tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính
minh bạch hệ thống; đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ theo hướng
hội nhập; cấu trúc bộ máy hiệu quả gắn với việc phát triển nguồn nhân lực có tính
chuyên nghiệp cao để luôn sẵn sàng ứng phó với các tình huống sự cố ngân hàng; hiện
đại hóa hoạt động BHTG trên nền tảng công nghệ thông tin.
Bên cạnh nâng cao chất lượng giám sát, chuyển từ giám sát tuân thủ sang giám
sát an toàn theo mức độ rủi ro, cải tiến phương thức chi trả , nghiên cứu ứng dụng
được xem là một trong những lĩnh vực cần được quan tâm hàng đầu để đạt được mục
tiêu dài hạn của BHTGVN.
5. GIA NHẬP NGÀNH:
Với sự thay đổi và phát triển nhanh chóng của môi trường kinh doanh, thể hiện
ở áp lực cạnh tranh gia tăng, khuynh hướng toàn cầu hoá, biến đổi thói quen, nhu cầu
khách hàng, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đã đặt nhiều thách thức cũng như
các cơ hội phát triển mới cho các công ty Bảo hiểm và đặc biệt là trong lĩnh vực Bảo
hiểm nhân thọ. Đặc biệt hơn nữa là các doanh nghiệp đang lăm le tiến vào thị trường
này cũng sẽ chịu khá nhiều áp lực, thị trường BHNT của nước ta hiện nay không phải
là nhỏ và cũng đã khá phát triển. Một doanh nghiệp mới muốn gia nhập ngành sẽ có
nhiều thuận lợi tại thời điểm hiện tại do có 1 số đặc điểm đặc trưng của thị trường
BHNT lúc này và thêm vào đó là các chính sách của nhà nước. Nhưng điều đó cũng
đồng nghĩa với việc họ sẽ gặp phải những khó khăn khách quan cũng như những khó

khăn xuất phát từ chính ngành nghề học đang muốn tham gia. Cụ thể ta xem xét như
sau:
5.1. Thuận lợi:
Môi trường pháp lí được hoàn thiện: Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh, từng bước thiết lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao
hiệu lực quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này, trước hết là sự ra đời của luật kinh
doanh bảo hiểm, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, tiếp đó là nghị định và thương
tư hướng dẫn. Ngoài việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, trong thời gian
qua, nhà nước cũng có những chính sách ưu đãi, hỗ chợ, thúc đẩy thị trường bảo hiểm
nhân thọ như ưu đãi về thuế (theo luật thuế giá trị gia tăng, bảo hiểm nhân thọ không
thuộc diện chịu thuế). Đây cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam phát triển. Với một môi trường pháp lí đảm bảo được sự cạnh
tranh lành mạnh thì sẽ giúp các doanh nghiệp muốn gia nhập ngành sẽ dễ thở hơn trong
việc này.
16
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
Theo xu hướng phát triển chung của nước ta những năm gần đây, kinh tế đất
nước đang phát triển và ổn định, đời sống nhân dân được nâng lên, chính điều này dẫn
đến sự tiết kiệm cho tương lai cũng tăng lên. Xu hướng dân số già đi, thu nhập được
tăng thêm, khách hàng có quan tâm nhiều hơn đến vấn đề tài chính của họ trong những
năm hưu trí, chăm sóc sức khoẻ, dẫn tới nhu cầu về sản phẩm Bảo hiểm tích luỹ, tử kỳ,
niên kim, sẽ có nhiều triển vọng tăng trưởng. Nên việc thị thường được mở rộng là
một cơ sở để khuyến khích việc gia nhập ngành của các tổ chức khác, thị trường mở
rộng sẽ tạo nên sự tin tưởng vào phát triển.
5.2. Khó khăn:
Điều đầu tiên ta có thể thấy đó là sự cạnh tranh quá lớn trong ngành BHNT, đã
có quá nhiều công ty lớn phát triển, việc công ty nhỏ mở ra để cạnh tranh thị phần với
các công ty đã có uy tín lâu đời là cả một thách thức lớn. Thêm vào đó nước ta mở cửa,
các công ty BHNT nước ngoài tràn vào Việt Nam, tiềm lực họ mạnh dễ dàng hơn trong
việc tranh giành thị phần. Chính vì thế các công ty dự định gia nhập ngành nên cân

nhắc tình trạng phát triển của thị trường cũng như khả năng chiếm thị phần của mình,
để cân nhắc xem nên tham gia thị trường này hay chuyển hướng sang một ngành khác.
Sự đổi mới trong tổ chức của công ty là đòi hỏi cấp thiết đối với các công ty
trong ngành, vậy với những công ty mới gia nhập ngành liệu họ có thể tổ chức hệ
thống công ty sao cho thật hiệu quả với tình hình cạnh tranh hiện nay.
Các công ty trong ngành đang phải đứng trước thách thức là mở rộng, đa dạng
hóa hệ thống phân phối nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng. Thêm vào đó
là áp lực về việc liệu tăng số lượng đại lí sao cho tối ưu hóa được lợi nhuận. Những
điều này thì cty mới gia nhập ngành không phải một sớm một chiều có thể làm được.
6. XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH:
Thực hiện hiện đại hoá doanh nghiệp thông qua việc tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa và công nghệ quản lý, công nghệ kinh doanh tiên tiến nhất trên thế giới. Tổ
chức lại hoạt động, chuẩn hoá các quy trình theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm,
nâng cao giá trị cho khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đồng thời tăng cường
áp dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động kinh
doanh. Thực hiện đa dạng hoá kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở phân
đoạn thị trường, nguồn lực và những điểm mạnh của doanh nghiệp. Lấy chính sách
phát triển con người làm trọng tâm, đặc biệt khuyến khích nhân tài qua các biện pháp
như tiền lương, tiền thưởng, thăng tiến, đánh giá, đào tạo…Tăng cường áp dụng công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động. Phát huy những tinh
hoa và bản sắc văn hoá Việt trong cung cấp dịch vụ và các hoạt động.
17
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
Chương II
TỔNG CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ
(THUỘC TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH – BẢO HIỂM BẢO VIỆT)
1. Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt:
Hiện nay, ngoài nghiệp vụ chính là kinh doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
lớn đều mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình thông qua các công ty con
được thành lập, công ty liên kế trong các lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, hoạt

động ngân hàng… tất cả đều hướng đến mục tiêu tạo lợi nhuận tối đa, mang lại hiệu
quả kinh tế và giúp các công ty năng động hơn, thích ứng với những điều kiện khách
quan trong một nền kinh tế đầy biến động và phức tạp như ngày nay. Tập đoàn Bảo
Việt cũng là một trong số đó, hiện nay Bảo Việt đã trở thành Tập đoàn Tài chính - Bảo
hiểm hàng đầu Việt Nam.
Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt (tên giao dịch quốc tế: Baoviet
Holdings) là một tập đoàn kinh doanh của Việt Nam hoạt động đa ngành trong đó các
lĩnh vực chủ đạo là bảo hiểm (nhân thọ, phi nhân thọ, tái bảo hiểm), chứng khoán, ngân
hàng. Ngoài ra còn có các lĩnh vực như: đầu tư tài chính, quản lý quỹ đầu tư, cho thuê
tài chính, kinh doanh bất động sản…
Tập đoàn Bảo Việt (thành lập ngày 15/1/1965) được hoàn thành cổ phần hóa
vào tháng 11 năm 2005 trên cơ sở Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, nhưng Nhà nước
Việt Nam vẫn nắm tối thiểu 51% vốn điều lệ. Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt
hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con, Tập đoàn Bảo Việt là công ty mẹ,
trong đó:
Các công ty con do Bảo Việt sở hữu 100% vốn là:
o Tổng công ty Bảo Việt nhân thọ
o Tổng công ty Bảo Việt Việt Nam
o Công ty Đại lý bảo hiểm và tái bảo hiểm
o Công ty Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt
18
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
o Công ty Bảo hiểm y tế cộng đồng Bảo Việt.
Các công ty con do Bảo Việt góp trên 50% vốn điều lệ là:
o Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt
o Ngân hàng cổ phần Bảo Việt (thành lập mới)
o Công ty liên doanh Bảo hiểm quốc tế Việt Nam
o Công ty cho thuê tài chính Bảo Việt (thành lập mới)
o Công ty Bất động sản Bảo Việt (thành lập mới)
o Công ty cổ phần Khách sạn và Du lịch Bảo Việt.

Ngoài ra Tập đoàn Bảo Việt còn góp vốn trong hơn 20 doanh nghiệp khác trong
nhiều lĩnh vực như giao thông, vận tải, du lịch, xây dựng, hóa chất, v.v. và có 2 đơn vị
sự nghiệp là:
o Trung tâm Đào tạo Bảo Việt;
o Viện Nghiên cứu bảo hiểm Bảo Việt.
1.1. Mục tiêu phát triển của Bảo Việt:
Mục tiêu phát triển của Bảo Việt là trở thành Tập đoàn tài chính – bảo
hiểm hàng đầu ở Việt Nam, kinh doanh trong các lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo
hiểm phi nhân thọ, đầu tư tài chính, chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác. Có
nghĩa rằng, Bảo Việt luôn đặt ra các yêu cầu khắt khe cho việc nâng cao trình độ quản
lý, chất lượng phục vụ khách hàng trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào của tập đoàn,
từ việc nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ tới việc tư vấn cho khách hàng các
giải pháp tối ưu hoặc xây dựng các mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, cùng phát triển với
khách hàng và các đối tác.
1.2. Chiến lược phát triển:
Phát triển thành một Tập đoàn tài chính bảo hiểm có trình độ và sức mạnh cạnh
tranh với quốc tế, đứng hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính tổng hợp
19
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
cho khách hàng gồm bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, đầu tư, chứng khoán và các dịch
vụ tài chính khác.
• Thực hiện chiến lược phát triển ổn định và bền vững trên cơ sở của ba
nguyên tắc vàng "Đổi mới", "Tăng trưởng", "Hiệu quả".
• Thực hiện chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở đáp ứng một
cách năng động nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, cung cấp các dịch vụ
tài chính chất lượng cao và các dịch vụ phụ trợ cho khách hàng.
• Trở thành một tổ chức giữ vững và đề cao được Uy tín và Danh tiếng,
chiếm được Lòng tin của khách hàng, các đối tác và các thành viên thuộc
BẢO VIỆT.
1.3. Triết lý kinh doanh:

Triết lý cơ bản nhất trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của Bảo Việt là "Phục
vụ Khách hàng tốt nhất để phát triển". Triết lý này được thấu hiểu và thống nhất thực
hiện trong toàn thể các thành viên của Bảo Việt bằng bốn nguyên tắc cụ thể sau:
• Nguyên tắc khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động. Điều này có nghĩa là
quyền lợi, sự thoả mãn của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ của Bảo Việt
luôn luôn được ưu tiên hàng đầu trong các quyết định kinh doanh của Bảo
Việt.
• Nguyên tắc phục vụ khách hàng tận tâm, trung thực và hợp tác. Điều này đỏi
hỏi các thành viên Bảo Việt phải tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức kinh
doanh đối với khách hàng, tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp vì mục tiêu
phát triển chung.
• Nguyên tắc tối ưu quyền lợi và sự thuận tiện cho khách hàng. Mọi thành viên
Bảo Việt có trách nhiệm tư vấn để khách hàng lựa chọn được sản phẩm bảo
hiểm thích hợp nhất, với biểu phí và điều kiện bảo hiểm tối ưu, tiến hành các
hoạt động giám định và bồi thường nhanh chóng, chính xác và thuận tiện cho
khách hàng.
20
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
• Nguyên tắc liên tục cải tiến. Nguyên tắc này đòi hỏi cán bộ Bảo Việt cần tạo
nhiều kênh thông tin thuận lợi để tiếp thu các ý kiến phản hồi của khách
hàng, luôn tìm tòi cải tiến, đổi mới sản phẩm, cung cấp các dịch vụ giá trị gia
tăng cho khách hàng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đông đảo
khách hàng.
Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam kinh doanh cả 2 loại hình bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Năm 2007, Bảo Việt xếp thứ 8 trong danh sách “Top
200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam” (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và
nước ngoài). Tổng doanh thu của Bảo Việt đạt gần 6.950 tỷ đồng (2006), đứng đầu thị
trường về doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ, đạt 2.229 tỷ đồng, chiếm 34,87% thị
phần; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 3.091 tỷ đồng, chiếm 36,54% thị phần.
Ngày 31/5/2007 đánh dấu một sự kiện, một mốc lịch sử quan trọng của Bảo

Việt, đó là việc Bảo Việt bán cổ phần lần đầu ra công chúng chính thức trở thành công
ty cổ phần kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt đã
hoàn thành đăng ký kinh doanh công ty cổ phần có sự tham gia của đối tác chiến lược
là các tập đoàn kinh tế hàng đầu trong nước (Vinashin) và nước ngoài (HSBC
Insurance (Asia - Pacific) Holdings Limited); hình thành Tập đoàn Tài chính – Bảo
hiểm Bảo Việt.
Đại diện Bảo hiểm Bảo Việt cho biết, doang nghiệp đang tập trung đầu tư vào
công nghệ thông tin nhằm chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng "Quản lý tập
trung, phục vụ tại chỗ" nhằm tăng cường quản lý và kiểm soát rủi ro. Năm 2010, Bảo
hiểm Bảo Việt đặt mục tiêu đạt tổng doanh thu trên 4.800 tỷ đồng, trong đó doanh thu
phí bảo hiểm gốc đạt trên 4.200 tỷ đồng, tăng trưởng 15% so với năm 2009. Lợi nhuận
năm 2010 của DN dự kiến đạt gần 300 tỷ đồng, khẳng định vị trí dẫn đầu thị phần bảo
hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt Nam.
21
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
Thế nhưng, sáu tháng đầu năm 2010, PVI đã vượt bảo hiểm Bảo Việt để trở
thành công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam. Trong sáu tháng đầu năm
2010, thị phần của PVI là 24,79%, cao hơn thị phần của bảo hiểm Bảo Việt (24,28%),
trong khi năm 2009, bảo hiểm Bảo Việt đứng vị trí thứ nhất với 26,95% thị phần.
Trong 5 công ty từ thứ 6 tới thứ 10 có sự cạnh tranh khốc liệt và vị thế của các công ty
này đã có sự thay đổi lớn trong 6 tháng đầu năm 2010 (xem biểu đồ).
Đối với thị trường bảo hiểm nhân thọ, trong 6 tháng đầu năm 2010, vị thế của
các công ty bảo hiểm nhân thọ hàng đầu không có sự thay đổi. Đứng đầu thị trường
vẫn là Prudential, tiếp sau đó là bảo hiểm Nhân thọ (Bảo Việt) và Manulife.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Bảo Việt đã vinh dự
được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc Lập Hạng Ba, Chính phủ xếp
hạng Doanh nghiệp Nhà nước hạng Đặc biệt và nhiều danh hiệu, giải thưởng do các tổ
chức uy tín của trong và ngoài nước trao tặng. Bảo Việt được tổ chức BVQI (Vương
quốc Anh) cấp chứng chỉ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000 từ
tháng 8/2001.

26/06/2010, Bộ Tài chính cho phép Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo
hiểm Bảo Việt) tăng vốn điều lệ lên 1.500 tỷ đồng. Mục đích của đợt tăng vốn nhằm
22
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và tạo dựng tiền đề để thực hiện chiến lược phát
triển giai đoạn 2011-2015.
2. Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ: hơn 11 năm với sứ mệnh “Bảo đảm lợi ích
Việt”:
Phục vụ trên 4 triệu khách hàng, Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ (Bảo Việt
Nhân thọ) là đơn vị thành viên của Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt, do Tập
đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn, chuyên kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngoài ra còn
có nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm
sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người; Quản lí quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư
trong các lĩnh vực (mua trái phiếu chính phủ, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp,
góp vốn vào doanh nghiệp khác, cho vay theo qui định của pháp luật). Bảo Việt Nhân
thọ có vốn điều lệ 1.500 tỷ đồng, với mạng lưới 61 công ty thành viên, trên 500 phòng
phục vụ khách hàng và gần 30.000 tư vấn viên trên toàn quốc.
Cách đây 11 năm, khi phần lớn người dân Việt Nam còn lạ lẫm với dịch vụ và
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, Bảo Việt đã tạo lập bước đi có tính chiến lược quan trọng
là triển khai cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Việt Nam vào ngày
1/8/1996. Trải qua chặng đường hơn một thập kỷ, đến nay, Bảo Việt Nhân thọ đã thực
sự khẳng định được vị trí hàng đầu trên thị trường Việt Nam, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp an sinh xã hội của đất nước. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đã trở nên thân
thiết với hàng triệu người, có trên 4 triệu khách hàng lựa chọn Bảo Việt Nhân thọ để
trao gửi niềm tin, hoạch định kế hoạch tài chính cho tương lai, cuộc đời mình.
Ngày 1/8/2001, Bảo Việt Nhân thọ tự hào trở thành doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ đầu tiên trả tiền đáo hạn hợp đồng cho khách hàng của mình. Đã có gần
200.000 khách hàng được nhận tiền đáo hạn hợp đồng, hàng trăm nghìn khách hàng
được trả tiền bảo hiểm rủi ro và thanh toán quyền lợi bảo hiểm với tổng số tiền đã chi
trả trên 2.000 tỷ đồng. Bảo Việt Nhân thọ đã vượt qua điểm hòa vốn và kinh doanh có

lãi từ năm 2003. Tính đến hết năm 2007, tổng doanh thu phí bảo hiểm lũy kế đã đạt
trên 16.000 tỷ đồng, đặc biệt đã đầu tư trở lại nền kinh tế trên 19.000 tỷ đồng.
Từ 1/1/2004, Bảo Việt Nhân thọ được tách ra hạch toán độc lập và kế thừa toàn
bộ hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
trước đây (nay là Tập đoàn Bảo Việt). Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và cạnh
tranh mạnh mẽ, để phát huy thế mạnh với tư cách là thành viên của Tập đoàn Tài chính
- Bảo hiểm Bảo Việt, Bảo Việt Nhân thọ đã phối hợp với các đơn vị thành viên khác
trong Tập đoàn để xây dựng và phát triển nhiều sản phẩm mới. Hàng năm, Bảo Việt
Nhân thọ cung cấp ra thị trường nhiều sản phẩm mới ưu việt theo hướng phục vụ an
sinh xã hội. Trong hai năm 2006, 2007, Bảo Việt Nhân thọ đã đi tiên phong trong việc
đầu tư theo chiều sâu để từng bước phát triển các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm liên kết
ngân hàng để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp đã phối hợp với các
23
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
ngân hàng uy tín hàng đầu Việt Nam cho ra mắt hàng chục sản phẩm liên kết ngân
hàng bảo hiểm như: An Tâm Tiết Kiệm, Tích Lũy Bảo Gia, Tình Yêu Cho Con, An
Tâm Tiêu Dùng Sản phẩm bảo hiểm liên kết chung ra đời hy vọng sẽ tạo ra sự linh
hoạt hơn cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.
2.1. Các nghiệp vụ chính của bảo hiểm nhân thọ:
2.1.1. Bảo hiểm trọn đời:
Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm theo đó công ty bảo hiểm cam kết
chi trả một khoản tiền đã được xác định trước trong trường hợp người được
bảo hiểm chết vào bất kì thời điểm nào trong suốt cuộc đời người đó.
Đặc điểm:
• Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người tham gia bảo hiểm bị
chết.
• Thời gian không xác định.
• Phí bảo hiểm đóng định kì và không đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
2.1.2. Bảo hiểm sinh kỳ:
Bảo hiểm sinh kì là loại hình bảo hiểm cho trường hợp sống của người

được bảo hiểm. Khi người được bảo hiểm sống đến một thời điểm đã được
quy định trong hợp đồng, công ty bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm.
Đặc điểm:
• Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người tham gia bảo hiểm sống.
• Thời hạn được xác định trong hợp đồng.
• Phí bảo hiểm không đổi.
2.1.3. Bảo hiểm tử kỳ:
Bảo hiểm tử kì là loại hình bảo hiểm nhân thọ chỉ bảo hiểm cho khả năng
chết xảy ra trong thời gian đã được quy định cụ thể trong hợp đồng. Khi
người được bảo hiểm chết trong thời gian đó, công ty bảo hiểm sẽ chi trả số
tiền bảo hiểm. Đây là quyền lợi cơ bản của sản phẩm bảo hiểm tử kì. Trong
thực tế, để tăng thêm quyền lợi cho khách hàng, các công ty bảo hiểm có
thể bổ sung thêm một số quyền lợi khác.
Đặc điểm:
• Tiền bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm chết.
• Thời hạn qui định trong hợp đồng.
• Phí bảo hiểm không đổi.
24
Nhóm 03, lớp 24TD_T09
2.1.4. Bảo hiểm hỗn hợp:
Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm kết hợp trường hợp sống và trường
hợp chết. Theo đó, công ty bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền đã
được ấn định trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến khi hết
hạn hợp đồng hoặc khi người được bảo hiểm bị tử vong trong thời hạn hợp
đồng.
Đặc điểm:
• Số tiền bảo hiểm được trả khi hết hạn hợp đồng hoạc khi người được
bao hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm.
• Thời hạn bảo hiểm xác định.
• Phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.

2.1.5. Bảo hiểm trả tiền định kỳ:
Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một
thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo
hiểm.
Về kết quả hoạt động kinh doanh, năm 2007 tiếp tục là một năm tăng trưởng của
Bảo Việt Nhân thọ với tổng doanh thu đạt 3.270 tỷ đồng, vượt 5% so với kế hoạch đặt
ra. Đặc biệt, chỉ tiêu doanh thu khai thác mới trong năm 2007 đạt 500 tỷ đồng, bằng
112% kế hoạch năm. Kết quả này thể hiện được sự tin cậy của hàng triệu khách hàng
dành cho Bảo Việt Nhân thọ. Theo báo cáo thường niên 2009, tổng doanh thu hợp nhất
đạt 10.567 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ hoạt động bảo hiểm đạt 7,640 tỷ đồng, tăng
trưởng 8,16% so với năm 2008, doanh thu từ hoạt động tài chính đạt 2,393 tỷ đồng.
Riêng với công ty con là Bảo Việt Nhân Thọ thì doanh thu từ hoạt động bảo hiểm là
3,704 tỷ đồng, từ các hoạt động tài chính khác là 1,614 tỷ đồng.
Trách nhiệm với khách hàng cao hơn nữa, chăm sóc khách hàng tốt hơn nữa là
những nhiệm vụ mà đội ngũ cán bộ, nhân viên, tư vấn viên của Bảo Việt Nhân thọ đặt
ra cho mình trên chặng đường tiếp theo. Đến với Bảo Việt Nhân thọ, khách hàng
không chỉ được nhận dịch vụ thu phí theo địa chỉ yêu cầu, nhận thiệp chúc mừng sinh
nhật, tặng thẻ mua hàng giảm giá, tặng quà khi tham gia bảo hiểm mà trong suốt quá
trình hợp đồng hiệu lực hay khi hợp đồng đáo hạn, khách hàng luôn được đội ngũ cán
bộ, nhân viên, tư vấn viên phục vụ tận tình, chu đáo đặc biệt khi có sự kiện bảo hiểm
xảy ra Bên cạnh thái độ phục vụ khách hàng chuyên nghiệp, Bảo Việt Nhân thọ đang
nỗ lực hàng ngày để thực hiện sứ mệnh “Bảo đảm lợi ích Việt” với mong muốn “chăm
sóc khách hàng trọn đời”.
Đến nay, Bảo Việt Nhân thọ đã có trên 40 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thuộc
các nhóm cơ bản như: bảo hiểm kết hợp tiết kiệm, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm hưu trí
và bảo hiểm đơn thuần rủi ro. Từ 1/1/2008, Bảo Việt Nhân thọ chính thức ra mắt và
triển khai đồng loạt 5 sản phẩm mới bao gồm: An Sinh Giáo Dục, An Sinh Hiếu Học,
25

×