Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

thực trạng pháp luật về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.56 KB, 50 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực kinh doanh đã xuất hiện từ rất lâu trên thế
giới, nhng lĩnh vực này chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1996.
Đây là một hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang lại nhiều lợi ích cho con
ngời và nền kinh tế, xã hội. Đối với con ngời, bên cạnh yếu tố bảo hiểm (bên mua
bảo hiểm đợc doanh nghiệp bảo hiểm chi trả để bù đắp những thiệt hại khi rủi ro
xảy ra), bảo hiểm nhân thọ còn có tính tiết kiệm, giúp bên mua bảo hiểm có thể
thực hiện đợc mục đích của mình khi đợc doanh nghiệp bảo hiểm trả số tiền bảo
hiểm. Đối với nền kinh tế, cùng với các thị trờng ngân hàng, bất động sản, chứng
khoán, thị trờng bảo hiểm là công cụ huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng, đầu
t phát triển sản xuất thông qua việc doanh nghiệp bảo hiểm thu phí bảo hiểm từ
bên mua bảo hiểm và dùng số tiền này để đầu t. Doanh nghiệp bảo hiểm do đó đã
trở thành một trong những tổ chức tài chính hữu hiệu trong công cuộc đầu t, phát
triển kinh tế đất nớc. Trớc xu thế hội nhập của nền kinh tế nớc ta với nền kinh tế
thế giới, thông qua hình thức nớc ta gia nhập các tổ chức AFTA, APEC, WTO,
việc huy động vốn để đầu t phát triển nền kinh tế cần thiết hơn bao giờ hết. Bên
cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên một lối sống mới trong dân chúng,
đó là ý thức, thói quen về việc dành ra một phần thu nhập để có một tơng lai an
toàn hơn. Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội: ph-
ơng thức phục vụ tại nhà của doanh nghiệp bảo hiểm cần tuyển dụng lực lợng lớn
đại lý khai thác bảo hiểm sẽ giải quyết việc làm cho xã hội, thông qua giải quyết
việc làm sẽ hạn chế tệ nạn xã hội; bảo hiểm nhân thọ góp phần tăng vốn đầu t cho
giáo dục, bảo hiểm nhân thọ ra đời và đợc triển khai nh loại hình an sinh giáo dục
là giải pháp hiệu quả huy động nguồn vốn dài hạn để gia đình đầu t cho việc học
tập của con cái, đảm bảo đợc quỹ gia đình dành cho con cái ngay cả khi rủi ro xảy
ra.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo
hiểm và bên mua bảo hiểm là vấn đề chính đợc quan tâm trong lĩnh vực kinh
doanh này. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đợc các bên thoả thuận, vừa là công cụ
thực hiện pháp luật, vừa là một sản phẩm của thị trờng bảo hiểm nhân thọ. Mỗi


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đợc ký kết là một sự thành công của doanh nghiệp
bảo hiểm. Đồng thời việc khi nào hợp đồng đó chấm dứt, hậu quả pháp lý ra sao là
sự quan tâm của cả doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, và của cả Nhà
Nớc.
Khoá luận nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - loại hợp đồng bảo
hiểm có đối tợng là tuổi thọ của con ngời, song khoá luận không nghiên cứu tất cả
những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà chỉ nghiên cứu chế
độ pháp lý về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Khoá luận sẽ làm rõ những
vấn đề cơ bản về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các quy định của pháp
luật hiện hành, thực trạng pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Pháp luật hiện hành cha có quy định cụ thể về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ, các quy định chung về vấn đề này còn nhiều mâu thuẫn, nhiều khi cha
rõ ràng, cha thoả đáng. Ngời viết mong rằng với sự nghiên cứu của mình về vấn đề
trên thể hiện qua khoá luận, sẽ đóng góp ý kiến cho việc hoàn thiện quy định pháp
luật điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Khoá luận cũng đánh
giá thực trạng khi áp dụng các quy định về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,
làm rõ những bất cập trong các quy định pháp luật và trong thực tiễn áp dụng
chúng.
Khoá luận đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phơng pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lê nin và sự vận dụng quan điểm, đờng lối của
Đảng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trờng, xây dựng Nhà Nớc pháp quyền ở
Việt Nam. Các phơng pháp nghiên cứu cụ thể đợc sử dụng bao gồm: phân tích,
tổng hợp, quy nạp, so sánh
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, khoá luận đợc kết cấu gồm 3 chơng:
Chơng I: Những vấn đề lý luận cơ bản về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ
Chơng II: Pháp luật hiện hành về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Chơng III: Thực trạng pháp luật về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
và một số kiến nghị
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng I
Những vấn đề lý luận cơ bản
về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1. Những vấn đề cơ bản về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo
hiểm sống hoặc chết trong một thời hạn nhất định theo sự thoả thuận của bên mua
bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện cách đây khá lâu và sau nghiệp
vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ đầu tiên đợc ký kết tại Luân - đôn năm 1583. Do sự hoàn thiện và tác dụng của
loại hình bảo hiểm này nên ngày càng có nhiều ngời tham gia. Năm 1762, doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đợc thành lập tại Luân - đôn (Anh) chính thức
đánh dấu sự ra đời của loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Sau đó, hàng loạt công
ty bảo hiểm nhân thọ đã ra đời ở Anh, Đức, Pháp, Thuỵ Sĩ, Mĩ. Tại châu á, các
công ty bảo hiểm nhân thọ ở Nhật và Hàn Quốc cũng ra đời vào năm 1888-1889.
Nh vậy, bảo hiểm nhân thọ đã có sự phát triển hơn 400 năm, trong đó thị trờng bảo
hiểm nhân thọ lớn là Châu Âu, Nhật và Mĩ. Cho đến nay, thị trờng bảo hiểm nhân
thọ phát triển rất sôi động tại các nớc phát triển trên thế giới, đồng thời hệ thống
pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trờng tơng đối hoàn thiện tại các quốc gia
này.
Tại Việt Nam, bảo hiểm nhân thọ cũng đã từng xuất hiện trong thời kì Pháp
thuộc và ở miền Nam trớc năm 1975[tr10,18]. Năm 1965, công ty bảo hiểm Việt
Nam (gọi tắt là Bảo Việt) ra đời, đánh dấu một bớc phát triển trong lịch sử của
ngành bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên trong giai đoạn này, bảo hiểm Việt Nam
hoàn toàn mang tính bao cấp, chỉ có 5 nghiệp vụ bảo hiểm và không có nghiệp vụ

bảo hiểm nhân thọ. Đến tháng 12/1993, Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo
hiểm của Chính phủ đợc ban hành đã đánh dấu một bớc ngoặt trong quá trình phát
triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nớc ta, cơ bản chấm dứt thế độc quyền
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt. Tại điều 7 Nghị định 100/CP đã quy
định về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Nhng phải đến tháng 3/1996, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm mới thực sự đợc triển khai khi Quyết định 281/BTC-TCNH
của Bộ trởng Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt đợc kinh doanh thí điểm bảo hiểm
nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ 5 năm, 10 năm và bảo hiểm trẻ em.
Nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đợc thực hiện thông qua cơ chế
hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Để làm rõ khái niệm
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, trớc hết cần tìm hiểu khái niệm hợp đồng bảo hiểm.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam (có hiệu lực thi hành từ
1/4/2001) cũng nh khoa học pháp lý và pháp luật thực định của các quôc gia định
nghĩa về hợp đồng bảo hiểm nh sau:
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng hoặc bồi thờng cho
ngời đợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng là một dạng hợp đồng bảo hiểm nên
hoàn toàn phù hợp với khái niệm trên. Đồng thời hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
cũng mang các đặc điểm chung của hợp đồng bảo hiểm con ngời.
1.2. Những đặc trng cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có đối tợng là tuổi thọ của con ng-
ời. Đây là một đối tợng đặc biệt. Tuổi thọ của con ngời là đời sống hàng ngày của
một ngời cụ thể, phản ánh quá trình từ khi sống cho tới khi chết của ngời đó. Ngời
ta không thể xác định trớc đợc tuổi thọ của một ngời là bao nhiêu, đồng thời cũng
rất khó khăn để xác định tình trạng thực tế ảnh hởng đến tuổi thọ của ngời đó. Có
rất nhiều yếu tố ảnh hởng tới tuổi thọ của con ngời nh nếp sinh hoạt, tình trạng sức

khoẻ, bệnh tật
Trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, nghĩa vụ khai báo đúng tuổi của ngời
đợc bảo hiểm là rất quan trọng, vì xét về mặt lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ khác nhau
đối với các độ tuổi khác nhau.
Bảo vệ cho tuổi thọ của con ngời trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có 2
dạng cơ bản[18]:
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dạng thứ nhất là bảo vệ cho ngời thân của ngời đợc bảo hiểm về mặt kinh tế
nếu nh ngời đợc bảo hiểm qua đời hoặc không còn khả năng lao động.
Dạng thứ hai là bảo vệ cho chính ngời đợc bảo hiểm cho thời gian sống sau
khi kết thúc hợp đồng bảo hiểm.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng có thời hạn dài. Thời
hạn ngắn nhất của bảo hiểm nhân thọ là 5 năm. Vì vậy, việc ký kết hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ chủ yếu đợc tiến hành với từng cá nhân, việc ký kết theo nhóm rất
ít và chủ yếu là loại bảo hiểm tử kỳ có thời hạn xác định trớc.
Thời hạn hợp đồng dài có thể ảnh hởng tới nghĩa vụ nộp phí của bên mua
bảo hiểm, vì không thể chắc chắn rằng tình hình tài chính của bên mua bảo hiểm
trong tơng lai sẽ nh lúc mà bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ với doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời vì thời hạn của hợp đồng kéo dài nên
trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm đợc quyền thay đổi nội
dung hợp đồng nh đề nghị giảm bớt số tiền bảo hiểm, thay đổi loại hình bảo hiểm
nhân thọ, điều chỉnh thời hạn nộp phí và phơng thức nộp phí
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng có tính tiết kiệm. Tính
tiết kiệm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đợc thể hiện ở việc bên mua bảo hiểm
dùng những khoản tiền nhỏ để nộp phí bảo hiểm có thể là hàng tháng, hàng quý,
hàng năm, cho tới khi ngời đợc bảo hiểm qua đời hoặc ngời đó vẫn còn sống khi
hết thời hạn quy định trong hợp đồng, bản thân ngời đợc bảo hiểm hoặc ngời thân
của ngời đó sẽ nhận đợc một khoản tiền đáng kể (thờng nhiều hơn tổng số phí bảo
hiểm phải nộp) giống nh tiền gửi tiết kiệm. Việc đợc nhận số tiền bảo hiểm và việc

nhận tiền gửi tiết kiệm khác nhau ở chỗ số tiền bảo hiểm này không thể tuỳ ý lấy
ra, mà phải cho tới khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mới đợc nhận lại.
Thứ t, sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không hoàn
toàn gắn liền với rủi ro xảy ra đối với ngời đợc bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm
trong bảo hiểm nhân thọ thờng bao gồm: trờng hợp tử vong, hết hạn hợp đồng,
sống đến độ tuổi nhất định . Khi các sự kiện này xảy ra đối với ng ời đợc bảo
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ h-
ởng.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ năm, nội dung của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thờng bao gồm
những điều khoản mẫu. Các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thờng
đợc các doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sẵn. Nội dung của các điều khoản quy
định về đối tợng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, trách nhiệm bảo hiểm, loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, thời hạn, phơng thức trả tiền
bảo hiểm, các quy định giải quyết tranh chấp Khách hàng muốn giao kết hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ với doanh nghiệp bảo hiểm thì phải chấp nhận toàn bộ
các điều khoản đã đợc soạn thảo sẵn đó.
Thứ sáu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng thanh toán có định
mức, không phải là một hợp đồng bồi thờng. Số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên mua bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là số
tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã lựa chọn khi ký kết hợp đồng. Về nguyên
tắc thì số tiền bảo hiểm không bị hạn chế, chỉ cần hai bên bàn bạc, thống nhất với
nhau là đợc. Các doanh nghiệp bảo hiểm thờng đa ra các mức tiền bảo hiểm để
bên mua bảo hiểm dễ dàng lựa chọn.
Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thờng có quy định kèm thêm các
sản phẩm bổ trợ là sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Sản phẩm bảo hiểm phi
nhân thọ thờng đợc quy định kèm trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là bảo
hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con ngời. Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp
các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ này nhằm gia tăng yếu tố bảo hiểm, đồng thời tạo

lợi thế cạnh tranh, thu hút khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của
doanh nghiệp đó.
Từ những đặc trng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cùng với bản chất của
một loại hợp đồng bảo hiểm, có thể đa ra định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ nh sau:
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa hai bên, theo đó bên
nhận bảo hiểm (công ty bảo hiểm) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên đ-
ợc bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, còn bên đợc bảo hiểm có trách
nhiệm và nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm nh đã thoả thuận theo quy định pháp luật
[14] .
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm về việc doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho
tuổi thọ của ngời đợc bảo hiểm, theo đó, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo
hiểm và tơng ứng doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho ngời đợc bảo
hiểm hoặc ngời thụ hởng nếu ngời đợc bảo hiểm sống hoặc chết trong thời hạn
thoả thuận[18].
Cách định nghĩa này cho thấy trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ những ng-
ời liên quan gắn với các nghĩa vụ hoặc quyền lợi là: doanh nghiệp bảo hiểm, bên
mua bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm và ngời thụ hởng, trong đó trách nhiệm cơ bản
của bên mua bảo hiểm là nộp phí bảo hiểm và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo
hiểm là trả tiền bảo hiểm .
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp đợc thành lập, tổ chức và hoạt
động theo quy định pháp luật của các quốc gia để kinh doanh bảo hiểm. Theo quy
định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam, doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ không đợc đồng thời kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm phi nhân
thọ, ngoại trừ các sản phẩm bổ trợ cho hoạt động kinh doanh chính.
Bên mua bảo hiểm là chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với
doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời

là ngời đợc bảo hiểm hoặc ngời thụ hởng. Ngời đợc bảo hiểm là cá nhân có tuổi
thọ là đối tợng bảo hiểm. Ngời đợc bảo hiểm có thể đồng thời là ngời thụ hởng.
Ngời thụ hởng là tổ chức, cá nhân đợc bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền
bảo hiểm. Ngời thụ hởng có thể đồng thời là ngời đợc bảo hiểm. Nếu trong hợp
đồng không thoả thuận về ngời thụ hởng thì ngời đợc bảo hiểm mặc nhiên đợc coi
là ngời thụ hởng. Tổ chức, cá nhân muốn trở thành bên mua bảo hiểm phải đáp
ứng các điều kiện theo quy định pháp luật: bên mua bảo hiểm phải có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, phải có quyền lợi có thể đợc bảo hiểm, và phải đợc sự chấp
thuận của ngời đợc bảo hiểm trong trờng hợp bảo hiểm đối với cái chết của ngời
này.
1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau.
Việc phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất có ý nghĩa trong việc xác định sự
kiện bảo hiểm trong hợp đồng là gì, khi nào nó xảy ra, trách nhiệm của các bên ra
sao và khi nào thì quan hệ hợp đồng giữa các bên chấm dứt. Có thể phân loại hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ theo các cách sau:
Nếu căn cứ vào tính chất của sự kiện bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ đợc chia thành: hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ, hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ sinh kỳ và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng, nếu ngời
đợc bảo hiểm chết trong thời hạn đợc thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Sự kiện
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ loại này là: ngời đợc bảo hiểm chết
trong thời hạn đã đợc các bên thoả thuận trớc trong hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ tử kỳ có 3 dạng chủ yếu:
* Bảo hiểm tạm thời: doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thanh toán số tiền bảo hiểm
hoặc những khoản trợ cấp định kỳ cho ngời thụ hởng nếu ngời đợc bảo hiểm chết
trớc một thời điểm ấn định trong hợp đồng. Nếu hết thời hạn hợp đồng mà ngời đ-

ợc bảo hiểm còn sống thì quan hệ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ giữa các bên sẽ
chấm dứt.
* Bảo hiểm trờng sinh: doanh nghiệp bảo hiểm cam kết trả tiền bảo hiểm
khi ngời đợc bảo hiểm tử vong vào bất cứ thời điểm nào kể từ ngày hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ có hiệu lực.
* Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: tơng tự bảo hiểm tạm thời, việc thanh toán
trợ cấp chỉ đợc thực hiện khi ngời đợc bảo hiểm chết nhng ngời thụ hởng đợc chỉ
định phải còn sống.
Hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng, nếu ngời đợc
bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn đợc thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Sự kiện
bảo hiểm trong hợp đồng loại này là sự kiện sau khi kết thúc thời hạn quy định
trong hợp đồng, ngời đợc bảo hiểm vẫn còn sống. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
sinh kỳ có 3 dạng hợp đồng cơ bản sau:
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Bảo hiểm có số tiền bảo hiểm đợc trả sau: doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả
số tiền bảo hiểm ấn định, nếu ngời đợc bảo hiểm sống đến kỳ hạn đợc xác định tại
ngày ký kết hợp đồng.
* Bảo hiểm trợ cấp trả sau (bảo hiểm niên kim trả sau): doanh nghiệp bảo
hiểm cam kết thanh toán những khoản trợ cấp định kỳ thờng niên hoặc định kỳ
hàng tháng cho ngời đợc bảo hiểm. Các khoản trợ cấp này chỉ bắt đầu đợc thanh
toán vào một ngày ấn định (thờng là ngày về hu của ngời đợc bảo hiểm) và chỉ đợc
chi trả khi ngời đợc bảo hiểm còn sống. Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ mà các khoản trợ cấp này sẽ đợc thanh toán cho đến khi ngời đợc
bảo hiểm qua đời (hợp đồng bảo hiểm nhân thọ loại này đợc gọi là niên kim nhân
thọ) hoặc chỉ đợc thanh toán trong một thời kỳ nhất định.
* Bảo hiểm trợ cấp trả ngay: theo quy định tại hợp đồng loại này, bên mua
bảo hiểm nộp một khoản phí bảo hiểm duy nhất khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Số
phí bảo hiểm này là một số tiền bảo hiểm, nó tạo nên các khoản trợ cấp mà doanh

nghiệp bảo hiểm sẽ bắt đầu thanh toán cho ngời thụ hởng khi đến một thời hạn
quy định và sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian hoặc trọn đời.
Hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả
hai loại nghiệp vụ bảo hiểm là bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. Đây là loại sản
phẩm chủ yếu trên thị trờng bảo hiểm nhân thọ hiện nay. Hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ hỗn hợp có 2 dạng sau:
* Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thông thờng: theo quy định trong hợp đồng
loại này, ngời đợc bảo hiểm sẽ đợc trả tiền bảo hiểm nếu còn sống đến một thời
điểm ấn định trong hợp đồng; còn nếu ngời đợc bảo hiểm chết trớc thời hạn hợp
đồng, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thanh toán tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng.
* Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn cố định: doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ trả một khoản tiền nhất định tại một ngày xác định nếu ngời đợc bảo hiểm sống
hoặc chết.
Nếu căn cứ theo thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
gồm hai loại: hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có xác định thời hạn và hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ không xác định thời hạn.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có xác định thời hạn là loại hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ mà các bên thoả thuận trớc thời hạn của hợp đồng. Trong thời hạn
đó hoặc khi kết thúc thời hạn, doanh nghiệp bảo hiểm phải có nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm. Khi doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện xong
nghĩa vụ này, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không xác định thời hạn là loại hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ mà trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ kết thúc
khi ngời đợc bảo hiểm chết hoặc ngời thụ hởng đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm.
Các nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng hợp đồng dạng này là bảo hiểm trọn đời (bảo
hiểm trờng sinh của nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ) và bảo hiểm trả tiền định kỳ (còn
gọi là niên kim nhân thọ).
2. Những vấn đề cơ bản về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

2.1. Khái niệm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng và hợp đồng bảo hiểm nói chung
đều là một dạng của hợp đồng dân sự. Để đa ra định nghĩa chấm dứt hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ, trớc hết cần xây dựng định nghĩa về chấm dứt hợp đồng dân sự.
Hợp đồng dân sự bao giờ cũng đợc phát sinh từ những hành vi có ý thức
của các chủ thể tham gia. Vì vậy, các sự kiện làm chấm dứt một hợp đồng dân sự
không phải là sự biến mà đó là những sự kiện đợc xuất hiện từ hành vi có ý thức
của các chủ thể hoặc do pháp luật quy định. Các căn cứ chấm dứt hợp đồng cũng
là các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng). Điều 424 Bộ
luật dân sự năm 2005 của Việt Nam có quy định về các trờng hợp chấm dứt hợp
đồng dân sự nh sau:
Hợp đồng chấm dứt trong các trờng hợp sau đây:
1. Hợp đồng đã đợc hoàn thành;
2. Theo thoả thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm
dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phơng chấm dứt thực hiện;
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5. Hợp đồng không thể thực hiện đợc do đối tợng của hợp đồng không còn
và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tợng khác hoặc bồi thờng thiệt hại;
6. Các trờng hợp khác do pháp luật quy định.
Từ những điều trên có thể định nghĩa chấm dứt hợp đồng dân sự nh sau:
Chấm dứt hợp đồng dân sự là hành vi pháp lý của các bên tham gia hoặc
theo quy định pháp luật, theo đó quan hệ hợp đồng dân sự đã đợc xác lập giữa
các bên sẽ chấm dứt; kể từ thời điểm hợp đồng chấm dứt, các bên không tiếp tục
thực hiện quyền và nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng đó nữa, nói cách khác,
các bên không còn chịu sự ràng buộc bởi hợp đồng.
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hoàn toàn phù hợp với định nghĩa
trên và có những đặc trng sau đây:

Thứ nhất, trong các loại hợp đồng dân sự khác, các bên hoàn toàn có thể
xác định chính xác thời điểm chấm dứt của hợp đồng đó (vào ngày tháng cụ thể
khi thực hiện xong công việc cho ngời có quyền, bên bán nhận đợc tiền thanh
toán, bên mua nhận đợc hàng hoặc thời điểm cụ thể do các bên thoả thuận).
Song, đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, đối tợng hợp đồng- tuổi thọ của con
ngời, có tính chất đặc biệt, phức tạp. Không ai có thể biết chắc chắn đợc tuổi thọ
của một ai đó sẽ là bao nhiêu. Do vậy, trong rất nhiều trờng hợp không thể xác
định đợc thời điểm cụ thể hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt. Các bên chỉ có
thể thoả thuận với nhau rằng khi một sự kiện nào đó xảy ra thì hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ sẽ chấm dứt.
Thứ hai, vì nội dung của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bao gồm các điều
khoản mẫu - những điều khoản đợc doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sẵn; trong
đó có điều khoản quy định các trờng hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,
các hợp đồng ký với khách hàng khi các khách hàng này cùng mua một loại sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chấm dứt trong các trờng
hợp giống nhau. Điều này khác hẳn với các loại hợp đồng dân sự khác. Nội dung
các hợp đồng này phần lớn do sự thoả thuận của các bên xây dựng nên. Do đó,
theo thoả thuận của các bên về điều khoản chấm dứt hợp đồng trong các hợp đồng
khác nhau thì các hợp đồng đó chấm dứt trong các trờng hợp khác nhau.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có đối tợng đặc biệt là: tuổi thọ con
ngời. Đó là đời sống của một con ngời cụ thể, phản ánh quá trình từ khi sống cho
đến khi chết của ngời đó. Do đó, khi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mất đi đối tợng
thì đơng nhiên chấm dứt, bởi vì không thể thay thế tuổi thọ của ngời này bằng tuổi
thọ của ngời khác.
Từ định nghĩa về chấm dứt hợp đồng dân sự và các điểm đặc trng của chấm
dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, có thể định nghĩa chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ nh sau:
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hành vi pháp lý của bên mua

bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc theo quy định của pháp luật, theo đó
quan hệ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã đợc xác lập giữa các bên sẽ chấm dứt;
kể từ thời điểm hợp đồng chấm dứt, các bên không tiếp tục thực hiện các quyền
và nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đó nữa, nói cách
khác, các bên không còn chịu sự ràng buộc bởi hợp đồng.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
2.2.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
hợp đồng
Khi chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải tuân thủ nguyên tắc này,
bởi vì trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tồn tại sự không cân xứng lợi ích giữa
các bên, tức là chỉ duy nhất một bên có lợi. Điều này thể hiện nh sau: nếu sự kiện
bảo hiểm nhân thọ xảy ra trong thời hạn thực hiện hợp đồng thì doanh nghiệp bảo
hiểm thờng phải trả tiền bảo hiểm nhiều hơn số phí mà bên mua bảo hiểm nộp cho
họ; còn nếu sự kiện bảo hiểm không xảy ra trong thời gian đó thì bên mua bảo
hiểm sẽ nhận đợc một khoản tiền ít hơn nhiều số phí mà họ phải đóng, thậm chí là
không nhận đợc bất kỳ khoản tiền nào nh trong trờng hợp ngời đợc bảo hiểm chết
trong thời gian thực hiện hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ.
Do vậy nên khi tham gia bảo hiểm nhân thọ, khách hàng luôn muốn nhận đ-
ợc số tiền bảo hiểm nhiều nhất, còn doanh nghiệp bảo hiểm thì lại muốn trả số tiền
bảo hiểm ít nhất.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng là một
trong những nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự, do đó khi chấm dứt hợp đồng
cũng phải đảm bảo nguyên tắc này. Cần xây dựng các quy định pháp luật để bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng của một bên khi bên kia đơn phơng chấm dứt thực
hiện hợp đồng. Hành vi pháp lý của một bên dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng là
những hành vi đợc pháp luật cho phép thực hiện và quy định thủ tục chặt chẽ để
thực hiện hành vi đó, đồng thời Nhà Nớc cũng đa ra các quy định để bảo vệ quyền

lợi cho bên còn lại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng nh khi chấm dứt hợp
đồng, các bên thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tức là đã thực
hiện tốt nguyên tắc này.
2.2.2. Nguyên tắc không đợc khởi kiện đòi đóng phí bảo hiểm
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu bên mua bảo hiểm không đóng
hoặc đóng không đủ phí bảo hiểm là nguyên nhân hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
chấm dứt trớc thời hạn, thì doanh nghiệp bảo hiểm không đợc khởi kiện truy đòi
bên mua đóng phí bảo hiểm. Đặc điểm này khác hẳn với những hợp đồng kinh tế
thông thờng diễn ra trên thực tế.
Thông thờng, đối với các hợp đồng bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự,
khi hợp đồng chấm dứt vì bên mua bảo hiểm không đóng hoặc đóng phí bảo hiểm
không đủ thì bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng đủ phí bảo hiểm đến thời điểm
chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Song, quy định này không áp dụng đối với hợp đồng
bảo hiểm con ngời trong đó có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Không đợc kiện đòi nộp phí bảo hiểm là nguyên tắc đạo đức khi giao kết
hợp đồng bảo hiểm con ngời. Yếu tố tự nguyện trong các hợp đồng dân sự là rất
quan trọng, nhng yếu tố tự nguyện của bên mua bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm
con ngời lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì chế độ bảo hiểm con ngời có
đối tợng bảo hiểm rất đặc biệt luôn gắn với giá trị nhân thân của mỗi con ngời cụ
thể, đó là sức khoẻ, tai nạn, tính mạng, tuổi thọ của con ngời. Đối tợng bảo hiểm
này có đặc điểm là không thể xác định đợc giá trị, mục đích của bảo hiểm con ng-
ời chỉ là để bù đắp rủi ro mà không phải là khôi phục lại khả năng tài chính của
ngời đợc bảo hiểm. Việc không đóng phí bảo hiểm phải có lý do đặc biệt. Không
đóng phí bảo hiểm, nguyên nhân chính là khả năng tài chính của bên mua bảo
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiểm không đảm bảo. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm không đợc kiện đòi nộp phí
bảo hiểm. Điểm này là đặc trng của bảo hiểm con ngời nói chung, bảo hiểm nhân
thọ nói riêng.
2.2.3. Nguyên tắc không đợc yêu cầu ngời thứ ba bồi hoàn

Đối với các hợp đồng bảo hiểm con ngời nói chung, hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ nói riêng, doanh nghiệp bảo hiểm không đợc yêu cầu ngời thứ ba bồi
hoàn. Nếu họ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết, thơng tật hoặc ốm đau cho
ngời đợc bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm theo đúng thoả thuận đã ghi trong hợp đồng. Đồng thời, ngời thứ ba phải
chịu trách nhiệm bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm theo quy định pháp luật. Ngời
thứ ba đợc hiểu là các chủ thể khác không phải là bên mua bảo hiểm và cũng
không phải là ngời thụ hởng (trờng hợp ngời đợc bảo hiểm không phải là bên mua
bảo hiểm hoặc ngời thụ hởng). Nếu bên mua bảo hiểm, ngời thụ hởng trực tiếp
hoặc gián tiếp gây nên cái chết, thơng tật hoặc ốm đau cho ngời đợc bảo hiểm thì
doanh nghiệp bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm, vì đây là trờng hợp loại trừ
trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Có nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của đối tợng của hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ. Xét về khía cạnh vật chất, ta không thể xác định đợc giá trị của
tuổi thọ con ngời, tuổi thọ con ngời trị giá bao nhiêu là xứng đáng; và rõ ràng là
không phải bất cứ một tổ chức bảo hiểm nào cũng có thể cung cấp cho một ngời
một "giá trị" tơng đơng với việc mất đi một sinh mạng. Một hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thờng. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
đều dựa trên một số tiền cụ thể, mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ
thể khi xảy ra những trờng hợp nêu trong hợp đồng bảo hiểm. Khoản tiền bảo
hiểm cụ thể trong hợp đồng là bao nhiêu phụ thuộc vào sự lựa chọn của bên mua
bảo hiểm trên cơ sở đánh giá khả năng tài chính của bản thân. Trên thực tế, doanh
nghiệp bảo hiểm có định mức sẵn số tiền bảo hiểm từng loại để ngời tham gia bảo
hiểm nhân thọ dễ dàng lựa chọn số tiền bảo hiểm phù hợp.
2.3. Những yếu tố chi phối đến việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt trong những trờng hợp khác nhau,
các yếu tố chi phối việc chấm dứt đó cũng rất nhiều, hai yếu tố chủ yếu là:
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
*Khả năng kinh tế khả năng tài chính) của bên mua bảo hiểm

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn thực hiện rất dài và trong khi thực
hiện không phải lúc nào tình hình tài chính của bên mua bảo hiểm cũng đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm đúng hạn và trong thời gian gia hạn. Nếu
khả năng tài chính của bên mua bảo hiểm không đảm bảo nghĩa vụ nộp phí bảo
hiểm thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt (trừ trờng hợp bên mua bảo
hiểm chuyển nhợng hợp đồng bảo hiểm hoặc đề nghị duy trì hợp đồng với số tiền
bảo hiểm giảm).
* Sự không cân xứng thông tin giữa các bên tham gia hợp đồng
Doanh nghiệp bảo hiểm đơng nhiên hơn hẳn bên mua bảo hiểm về sự hiểu
biết về bảo hiểm nhân thọ, nh các thông tin về thị trờng, pháp luật và không thể
chắc chắn rằng khách hàng sẽ đợc doanh nghiệp bảo hiểm chia sẻ những thông tin
này, cũng nh các thông tin về khả năng chi trả của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
bảo hiểm có thể cho đây là bí mật kinh doanh và bảo mật chúng. Khi thực hiện
cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng, doanh nghiệp bảo hiểm thờng chỉ đ-
a ra những thông tin có lợi cho mình nh số tiền bảo hiểm nhận đợc lớn, các sản
phẩm bổ trợ hấp dẫn Khi đã tìm hiểu kỹ, bên mua bảo hiểm có thể yêu cầu
chấm dứt hợp đồng trớc hạn, và thờng thì phần thiệt thuộc về phía khách hàng.
Ngợc lại, bên mua bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm có thể che giấu các thông
tin về sức khoẻ để doanh nghiệp bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm với họ. Khi
doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện ra điều này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện
quyền chấm dứt hợp đồng trớc hạn. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm không kiểm tra
kỹ càng thì khi sự kiện bảo hiểm xảy ra doanh nghiệp sẽ phải chịu thiệt hại.
2.4. Phân loại các trờng hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt trong rất nhiều trờng hợp. Sự vi
phạm hợp đồng từ phía các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng là nguyên nhân
quan trọng dẫn đến việc hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bị chấm dứt trớc hạn. Căn cứ
vào nguyên nhân chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, có thể chia các trờng hợp
chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thành: các trờng hợp hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ chấm dứt mà không có sự vi phạm hợp đồng và các trờng hợp hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ chấm dứt khi có một bên vi phạm hợp đồng.

15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt khi hợp đồng đã hoàn thành; theo
thoả thuận của các bên; doanh nghiệp bảo hiểm chấm dứt hoạt động, bên mua bảo
hiểm là cá nhân chết hoặc là tổ chức chấm dứt hoạt động; khi mất đi đối tợng của
hợp đồng hoặc bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi liên quan có thể đợc bảo
hiểm là các trờng hợp mà hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt không có sự vi
phạm hợp đồng từ phía các bên. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt trong các
trờng hợp này đều nhằm bảo vệ quyền lợi của cả hai bên: bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm.
Còn các các trờng hợp hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt khi có sự vi
phạm hợp đồng của một bên là trờng hợp đơn phơng chấm dứt thực hiện hợp đồng,
đơn phơng huỷ bỏ hợp đồng hoặc hợp đồng bị Toà án tuyên vô hiệu. Việc chấm
dứt hợp đồng trong các trờng hợp này là biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm
hợp đồng của một bên, và để bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng II
Pháp luật hiện hành
về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1. Pháp luật hiện hành điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành của Việt Nam đợc Quốc hội chính
thức thông qua ngày 9/12/2000 đã bao quát gần nh toàn bộ các nghiệp vụ cơ bản
của thị trờng bảo hiểm. Luật là một phần kết quả của sự hợp tác giữa Bộ Tài chính
Việt Nam với Liên minh Châu Âu trong dự án Euro - Tapviet. Nội dung của luật tỏ
ra tơng đối hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế về thị trờng bảo hiểm. Luật
kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định về hợp đồng bảo hiểm từ Điều 12 đến
Điều 57, chiếm 46/129 điều, điều này đã thể hiện rõ tầm quan trọng của những
quy định này. Tuy nhiên, Luật kinh doanh bảo hiểm không có điều khoản nào quy
định cụ thể các trờng hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, việc chấm dứt

này đợc quy định rải rác tại các điều khoản khác nhau. Hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ là một loại hợp đồng bảo hiểm, nên các điều khoản quy định chấm dứt hợp
đồng bảo hiểm sẽ điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Luật
kinh doanh bảo hiểm cũng ghi nhận việc dẫn chiếu áp dụng đến các quy định của
Bộ luật dân sự và các quy định khác có liên quan tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho
việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ và Thông t
71/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001 quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000, cũng nh Thông t số 98/2004/TT-BTC ngày 9/10/2004 đợc Bộ Tài
chính ban hành để thay thế thông t 71/2001/TT-BTC (nay đã hết hiệu lực) có nội
dung chủ yếu chỉ tập trung vào hoạt động quản lý nhà nớc đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, không quy định gì thêm về hợp đồng bảo hiểm.
Hiện nay Bộ luật dân sự năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 đã thay thế
Bộ luật dân sự năm 1995, trong Bộ luật dân sự năm 2005 không có sự sửa đổi nào
về hợp đồng bảo hiểm so với Bộ luật dân sự năm 1995. Các quy định trong Bộ luật
dân sự năm 2005 là các quy định mang tính nguyên tắc, áp dụng cho hợp đồng
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bảo hiểm nói chung. Trờng hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 và Bộ luật dân sự về cùng một vấn đề liên quan đến bảo
hiểm nhân thọ thì u tiên áp dụng theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm.
Trong trờng hợp các vấn đề liên quan đến bảo hiểm nhân thọ không đợc quy định
trong luật kinh doanh bảo hiểm thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
Vừa qua, ngày 27/3/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2007/NĐ-
CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000
thay thế Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001. Sắp tới, Nghị định này mới
có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, Nghị định không quy định gì thêm về hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ và chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
2. Pháp luật điều chỉnh các trờng hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
không có sự vi phạm hợp đồng từ phía các bên

2.1. Khi hợp đồng đã đợc hoàn thành
Khoản 1 Điều 424 Bộ luật dân sự năm 2005 về chấm dứt hợp đồng dân sự
quy định hợp đồng chấm dứt khi "hợp đồng đợc hoàn thành".
Hợp đồng đợc coi là hoàn thành khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện
toàn bộ nội dung của nghĩa vụ, do đó mỗi bên đều đã đáp ứng đợc quyền dân sự
của mình.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đợc coi là hoàn thành khi sự kiện bảo hiểm đã
xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm đã chi trả số tiền bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm
hoặc ngời thụ hởng (nếu ngời đợc bảo hiểm không đồng thời là ngời thụ hởng). Sự
kiện bảo hiểm theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm
2000 là: "sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định mà
khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời
thụ hởng hoặc bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm". Sự kiện bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ là sự kiện ngời đợc bảo hiểm chết trong thời hạn đợc thoả
thuận trong hợp đồng bảo hiểm (đối với hợp đồng bảo hiểm tử kỳ); là sự kiện ngời
đợc bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn thoả thuận trong hợp đồng (đối với hợp đồng
bảo hiểm sinh kỳ); và là sự kiện ngời đợc bảo hiểm sống hoặc chết trong thời hạn
thoả thuận trong hợp đồng (đối với hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp). Thời hạn hợp
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng đợc tính từ ngày hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực. Hiệu lực của hợp
đồng bảo hiểm thờng đợc tính từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên.
Ví dụ: Anh Q ký kết hợp đồng bảo hiểm An Khang Thịnh Vợng với công ty
Bảo Việt nhân thọ thời hạn 5 năm (1998 - 2003). Anh Q sẽ đợc nhận toàn bộ số
tiền bảo hiểm đã chọn khi anh sống đến ngày đáo hạn hợp đồng (vào năm 2003)
và đợc hởng lãi chia hàng năm. Phí bảo hiểm phải nộp mỗi tháng không thay đổi
trong suốt thời hạn của hợp đồng. Sau 5 năm, anh Q vẫn sống khoẻ mạnh và đợc
nhận tiền bảo hiểm. Anh Q sử dụng số tiền đó để chi trả học phi và nuôi cậu em
trai học đại học. Em trai anh Q vào đại học năm 2003. Khi doanh nghiệp bảo hiểm
thanh toán số tiền bảo hiểm cho anh Q, quan hệ hợp đồng giữa anh Q và Bảo Việt

đã chấm dứt.
Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên mua bảo hiểm có quyền "yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng hoặc bồi thờng cho ngời đ-
ợc bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm"(Điểm d Khoản 1 Điều
18). Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm hoặc ngời thụ h-
ởng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra theo thoả thuận trong hợp đồng. Khái niệm bồi
thờng không áp dụng đối với nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, bởi vì hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thờng (nh phần trên của khoá luận
đã trình bày).
Để thực hiện quyền yêu cầu của mình, bên mua bảo hiểm phải gửi cho
doanh nghiệp bảo hiểm giấy hoặc phiếu yêu cầu trả tiền bảo hiểm, hợp đồng bảo
hiểm gốc hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ, các giấy tờ khác có liên quan
theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm trong một thời hạn nhất định. Thời hạn
yêu cầu trả tiền bảo hiểm đợc Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định tại
Điều 28: " thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thờng theo hợp đồng bảo
hiểm là một năm, kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Thời gian xảy ra sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hạn yêu cầu
trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thờng". Trong trờng hợp bên mua bảo hiểm chứng
minh đợc rằng bên mua bảo hiểm không biết thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm thì
thời hạn trên đợc tính từ ngày bên mua bảo hiểm biết việc xảy ra sự kiện bảo hiểm
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó. Ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm có thể đợc xác định thông qua giấy chứng tử
hoặc ngày đáo hạn hợp đồng. Bên mua bảo hiểm chỉ phải gửi những giấy tờ đó cho
doanh nghiệp bảo hiểm, còn việc hoàn tất hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm thuộc
trách nhiệm của đại lý bảo hiểm. Quá thời hạn quy định đó, mọi yêu cầu giải
quyết quyền lợi bảo hiểm đều không có giá trị.
Đồng thời, bên mua bảo hiểm nhân thọ có nghĩa vụ thông báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng:

tình trạng của ngời đợc bảo hiểm , địa chỉ và những thông tin cần thiết khác. Và
trên thực tế, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng quy định thời hạn để bên mua bảo
hiểm thực hiện nghĩa vụ thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm biết sự kiện bảo
hiểm đã xảy ra.
Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền: "từ chối trả
tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng trong tr ờng hợp không thuộc phạm vi trách
nhiệm bảo hiểm hoặc trờng hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm" (quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 17 Luật kinh
doanh bảo hiểm năm 2000). Các trờng hợp không trả tiền bảo hiểm đối với hợp
đồng bảo hiểm con ngời đợc Luật kinh doanh bảo hiểm quy định tại Khoản 1 Điều
39.
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm trong các trờng hợp
sau đây:
- Ngời đợc bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ ngày nộp
khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu
lực;
- Ngời đợc bảo hiểm chết hoặc bị thơng tật vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên
mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của ngời thụ hởng;
- Ngời đợc bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình.
Trong các trờng hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo
hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng
sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan; nếu bên mua bảo hiểm chết thì số
tiền trả lại đợc giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Nếu một hoặc
một số ngời thụ hởng cố ý gây ra cái chết hay thơng tật vĩnh viễn cho ngời đợc bảo
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải trả tiền bảo hiểm cho những ngời thụ hởng
khác theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: "trả tiền bảo hiểm kịp thời cho ngời
thụ hởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm " (quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 17

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000), tức là doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm hoặc bồi thờng theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Trong trờng hợp không có thoả thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải
trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thờng trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đợc đầy
đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thờng. Quá thời hạn trên, khi
thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả thêm lãi của số tiền bảo hiểm đối
với thời gian quá hạn với mức phù hợp với hớng dẫn của Ngân hàng Nhà Nớc Việt
Nam tại thời điểm thanh toán.
2.2. Theo thoả thuận của các bên
Hợp đồng dân sự sẽ chấm dứt "theo thoả thuận của các bên" (quy định tại
Khoản 2 Điều 424 Bộ luật dân sự năm 2005). Trong những trờng hợp bên có nghĩa
vụ không có khả năng để thực hiện hợp đồng, hoặc nếu hợp đồng đợc thực hiện sẽ
gây ra tổn thất về vật chất cho một hoặc cả hai bên, thì các bên có thể thoả thuận
chấm dứt hợp đồng. Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
cũng sẽ chấm dứt theo thoả thuận của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã giao kết đợc coi là chấm dứt tại thời điểm
đạt đợc sự thoả thuận nói trên. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng giải
quyết theo sự thoả thuận của các bên.
Trên thực tế, các thoả thuận loại này thờng đợc quy định trớc trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ. Đó là việc bên mua bảo hiểm có thể thoả thuận với
doanh nghiệp bảo hiểm để huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm trong trờng hợp thay đổi
chỗ ở, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, về hu; bên mua bảo hiểm có quyền từ
chối tham gia bảo hiểm trong khoảng thời gian cân nhắc; và trờng hợp hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt khi tổng số tiền vay và lãi vay bằng giá trị hoàn lại
của hợp đồng.
* Nếu bên mua bảo hiểm yêu cầu huỷ hợp đồng trớc hạn thì khi đó, doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại toàn bộ phí bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã nộp
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoặc trả giá trị hoàn lại của hợp đồng cho bên mua bảo hiểm nếu hợp đồng có giá

trị hoàn lại.
Thuật ngữ "giá trị hoàn lại" là thuật ngữ quan trọng và đợc sử dụng rất phổ
biến trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ; nhng thuật ngữ này lại cha đợc các quy
định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 giải thích. Tuy nhiên, thuật ngữ
"giá trị hoàn lại"( còn đợc gọi là giá trị giải ớc) lại đợc các doanh nghiệp bảo hiểm
giải thích rất chi tiết, rõ ràng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Giá trị hoàn lại là
số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả cho bên mua bảo hiểm khi hợp đồng
chấm dứt hiệu lực mà sự kiện bảo hiểm cha xảy ra.
Thông qua quy định tại Điều 35 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, có
thể hiểu là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ có giá trị hoàn lại khi thực hiện đợc 2
năm. Điều 35 quy định nếu bên mua bảo hiểm không thực hiện nộp phí bảo hiểm
trong thời gian gia hạn đóng phí, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phơng
đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí
bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dới 2 năm, trừ trờng hợp các
bên có thoả thuận khác; trong trờng hợp bên mua bảo hiểm đã nộp phí bảo hiểm từ
2 năm trở lên, thì khi hợp đồng bị doanh nghiệp bảo hiểm đơn phơng đình chỉ,
doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp
đồng bảo hiểm nếu không có thoả thuận gì khác. Giá trị hoàn lại của hợp đồng đợc
doanh nghiệp bảo hiểm thông báo hàng năm cho khách hàng biết.
Ví dụ: Chị H ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Phú - Tích Luỹ An Khang với
công ty bảo hiểm Prudential thời hạn 10 năm. Thực hiện hợp đồng đợc 3 năm, chị
H theo chồng sang làm ăn tại Đức. Chị H yêu cầu Prudential huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết. Prudential đồng ý và trả cho chị H tổng số phí bảo hiểm mà chị H đã nộp
(vì tổng số phí bảo hiểm này lớn hơn giá trị hoàn lại của hợp đồng).
* Khi bên mua bảo hiểm quyết định không tiếp tục tham gia bảo hiểm trong
khoảng thời gian cân nhắc thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt.
Thời gian cân nhắc là một khoảng thời gian sau khi hợp đồng có hiệu lực,
để bên mua bảo hiểm xem xét, cân nhắc về quyết định mua bảo hiểm của mình.
Điều khoản thời gian cân nhắc là điều khoản đặc thù của hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ. Khoảng thời gian này theo thông lệ thờng đợc các doanh nghiệp bảo hiểm quy

22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định từ 14-21 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng có hiệu lực từ khi
doanh nghiệp bảo hiểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ hoặc là khi bên
mua bảo hiểm nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên. Nếu bên mua bảo hiểm thấy rằng
việc mua bảo hiểm là không thật sự phù hợp và quyết định lại là không tham gia
bảo hiểm nữa, thì hợp đồng sẽ chấm dứt, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn lại số phí
bảo hiểm đã nhận, sau khi trừ đi các chi phí hợp lý có liên quan đến việc giao kết
hợp đồng.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 cha có quy định giải thích thế nào là
chi phí hợp lý có liên quan. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trên thực tế không
giải thích gì thêm về thuật ngữ này. Chi phí hợp lý thờng đợc hiểu là những chi phí
trực tiếp liên quan đến việc khai thác và duy trì hợp đồng của doanh nghiệp bảo
hiểm nh chi phí in ấn hợp đồng, chi phí khám nghiệm y khoa
* Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chấm dứt khi tổng số tiền vay và lãi vay (mà
doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm vay) bằng giá trị hoàn lại.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, điều khoản cho vay là thoả thuận, theo
đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cho bên mua bảo hiểm vay một số tiền nhất định kể
từ khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại.
Khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại, nếu bên mua bảo hiểm có yêu cầu,
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cho bên mua bảo hiểm vay một khoản tiền từ giá trị
hoàn lại đó, và thờng không quá một tỷ lệ nhất định trên giá trị hoàn lại (trên thực
tế ở Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm thờng xác định tỷ lệ này là 80%). Bên mua
bảo hiểm có thể hoàn trả số tiền vay bất kỳ lúc nào. Nếu bên mua bảo hiểm không
hoàn trả, số tiền vay và lãi vay sẽ đợc khấu trừ vào giá trị hoàn lại hoặc số tiền bảo
hiểm khi chấm dứt hợp đồng. Khi tổng số tiền vay và lãi vay bằng giá trị hoàn lại
thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt, bên mua bảo hiểm không đợc nhận
lại giá trị hoàn lại của hợp đồng và phí bảo hiểm đã nộp.
2.3. Khi mất đi đối tợng của hợp đồng hoặc bên mua bảo hiểm không còn
quyền lợi có thể đợc bảo hiểm

Khoản 5 Điều 424 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định hợp đồng dân sự sẽ
chấm dứt khi "hợp đồng không thể thực hiện đợc do đối tợng của hợp đồng
không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tợng khác hoặc bồi thờng
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thiệt hại". Trong những trờng hợp đối tợng của hợp đồng là một vật đặc định hoặc
đơn chiếc mà do bị mất hoặc bị tiêu huỷ hay các lý do khác nên vật đó không còn
thì hợp đồng đó đơng nhiên đợc coi là chấm dứt vào thời điểm vật là đối tợng của
hợp đồng không còn. Song, các bên có thể thoả thuận vẫn duy trì hợp đồng đó
bằng cách thay thế vật không còn bằng một vật khác.
Đối tợng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ của một con ngời cụ
thể. Khi đối tợng đó mất đi thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đơng nhiên chấm dứt ,
không thể thay thế bằng đối tợng khác.
Trờng hợp bên mua bảo hiểm và ngời đợc bảo hiểm là hai chủ thể khác
nhau, nếu ngời đợc bảo hiểm từ chối sau khi hợp đồng đã đợc ký kết thì hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ sẽ chấm dứt do mất đi đối tợng của hợp đồng, vì tuổi thọ của
ngời đợc bảo hiểm mới là đối tợng của hợp đồng đó. Tuy nhiên, quyền từ chối của
ngời đợc bảo hiểm chỉ nên đợc thực hiện trong thời hạn theo thoả thuận hoặc theo
quy định pháp luật, và phải thể hiện dới hình thức văn bản gửi trực tiếp cho doanh
nghiệp bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm sinh kỳ, nếu ngời đợc bảo hiểm chết trớc ngày
đến hạn thanh toán thì hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt vì mất đi đối tợng của hợp
đồng. Bên mua bảo hiểm không đợc trả bất cứ khoản tiền nào (tuy nhiên, một số
công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm nếu trờng hợp chết xảy ra). Trờng hợp
bảo hiểm cho hai ngời hôn phối thì có thể chỉ mất một đối tợng và khi đó bên mua
bảo hiểm có hai sự lựa chọn: tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi hết hạn hoặc
ngời thứ hai chết; hoặc yêu cầu trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận.
Khoản 1 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định:"nếu bên
mua bảo hiểm không còn quyền lợi liên quan có thể đợc bảo hiểm thì hợp đồng
sẽ chấm dứt". Hậu quả pháp lý của trờng hợp chấm dứt này là doanh nghiệp bảo

hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm tơng ứng với thời gian còn
lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi
trừ đi các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Quyền lợi có thể đợc bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dỡng, cấp dỡng đối với đối tợng đ-
ợc bảo hiểm (Khoản 9 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000). Luật kinh
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh bảo hiểm quy định bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những
ngời sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm ;
- Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
- Anh, chị, em ruột, ngời có quan hệ nuôi dỡng và cấp dỡng;
- Ngời khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể đợc bảo hiểm.
áp dụng Khoản 9 Điều 3 đối với nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
thì bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm khi có
quyền sở hữu (trờng hợp bên mua bảo hiểm là ngời đợc bảo hiểm), quyền, nghĩa
vụ nuôi dỡng, cấp dỡng đối với ngời đó. Tại Điểm d Khoản 1 Điều 31, "ngời
khác" đợc hiểu là những ngời mà bên mua bảo hiểm có tổn thất thực sự khi rủi ro
xảy ra, nh: cháu trực hệ của bên mua bảo hiểm, ngời đợc giám hộ mà bên mua bảo
hiểm là ngời giám hộ hợp pháp, ngời lao động khi bên mua bảo hiểm là ngời sử
dụng lao động
2.4. Khi doanh nghiệp bảo hiểm chấm dứt hoạt động; bên mua bảo hiểm là cá
nhân chết mà không phải là ngời đợc bảo hiểm hoặc là tổ chức chấm dứt hoạt
động
Theo Khoản 3 Điều 424 Bộ luật dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự chấm
dứt trong trờng hợp "cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể
khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó
thực hiện". Không phải trong mọi trờng hợp cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp
nhân hoặc các chủ thể khác giao kết hợp đồng chấm dứt thì hợp đồng đều đợc coi

là chấm dứt. Theo quy định trên, chỉ những hợp đồng nào mà do tính chất của
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó hoặc do các bên đã thoả thuận trớc là ngời có
nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đó hoặc chỉ ngời có quyền mới đợc h-
ởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi họ chết, hợp đồng mới chấm dứt. Bởi lúc
đó, nghĩa vụ theo hợp đồng không thể đợc thực hiện.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đợc ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
bên mua bảo hiểm. Theo đó, "doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm duy nhất
đối với bên mua bảo hiểm, kể cả trong trờng hợp tái bảo hiểm những trách
25

×