Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

xu hướng thay đổi trong chính sách đầu tư của thế giới những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.64 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2 TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI
XU HƯỚNG THAY ĐỔI TRONG
CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CỦA THẾ GIỚI
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Giảng viên hướng dẫn: Trương Hoàng Anh Thơ
Nhóm thực hiện: Nhóm sinh viên – K51C1
Nhóm trưởng: Lý Huỳnh Văn
Tháng 8/2014
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, đầu tư quốc
tế luôn là lĩnh vực quan trọng hàng đầu và đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng
kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời, khẳng định vị trí của các quốc gia
trên trường thế giới. Chính vì thế, tự do hóa đầu tư đang ngày một phát triển mạnh
mẽ giữa các nước, khu vực và thế giới.
Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, đầu tư quốc tế có
những xu hướng thay đổi khác nhau để phục vụ mục tiêu phát triển của các nước
và bối cảnh thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xu hướng thay đổi trong chính
sách đầu tư quốc tế sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng quan và đúng đắn hơn về đầu tư
trên quan điểm quốc gia cũng như toàn cầu.
Đó cũng là lý do nhóm em thực hiện đề tài nghiên cứu: “Xu hướng thay đổi
trong chính sách đầu tư quốc tế những năm gần đây”
Kết cấu bài viết gồm 4 chương:
Chương 1: Xu hướng tự do hóa đầu tư
Chương 2: Những thay đổi trong chính sách FDI những năm gần đây
Chương 3: Các khu vực đầu tư tự do
Chương 4: Các xu hướng khác
Trong quá trình thực hiện bài viết, nhóm đã cố gắng thu thập và tổng hợp từ


những nguồn tài liệu mới nhất để bài viết có chất lượng tốt nhất, tuy vậy, do thời
gian làm bài và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, nhóm cũng không tránh khỏi
những thiếu sót. Nhóm rất mong cô và các bạn đóng góp để bài làm được hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I: XU HƯỚNG TỰ DO HÓA ĐẦU TƯ
I. Khái niệm và nội dung tự do hóa đầu tư
1. Khái niệm
Tự do hóa đầu tư là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt động đầu tư,
các phân biệt đối xử trong đầu tư được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn đối xử
tiên bộ dần dần được thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn
của thị trường được hình thành.
2. Nội dung
Tiến trình tự do hóa đầu tư diễn ra ở các nước, các khu vực và các tổ chức
trên thế giới theo 3 nội dung chính sau đây:
2.1 Loại bỏ dần các rào cản cà những ưu đãi mang tính phân biệt
đối xử trong hoạt động đầu tư
Các chế độ đầu tư sẽ từng bước được điều chỉnh theo hướng loại bỏ dần các
yếu tố “bóp méo” thị trường. Cụ thể, các rào cản sau đây cần được loại bỏ:
-Hạn chế liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập: Quyền tiếp nhận là
quyền được tiếp cận hoặc hiện diện, còn quyền thành lập doanh nghiệp đề cập đến
các hình thức hiện diện được phép. Cụ thể là không cho phép hoặc hạn chế đầu tư
trong một số ngành, lĩnh vực; hạn chế số ngành, lĩnh vực đặc biệt; yêu cầu liên
doanh; yêu cầu xin phép, đăng ký đầu tư; không cho phép đầu tư vào một số địa
bàn; hạn chế nhập khẩu các tài sản cố định. Các cách tiếp nhận và thành lập được
tổng kết trong 5 mô hình sau:
MÔ HÌNH TIẾP
NHẬN VÀ THÀNH
LẬP

KIỂM
SOÁT ĐẦU

Bảo lưu
toàn bộ
quyền kiểm
soát của
quốc gia
TỰ DO
HÓA CO
CHỌN LỌC
Đưa ra các
quyền hạn
chế, như chỉ
áp dụng cho
các ngành
thuộc “danh
mục lựa
chọn”
CHƯƠNG
TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA
KHU VỰC
Dành những
đãi ngộ quốc
gia (NT) cho
các nhà đầu
tư nước
thành viên
của tổ chức

khu vực.
ĐỐI XỬ
QUỐC GIA
CÓ ĐI CÓ
LẠI
Đưa ra các
quyền NT với
tất cả pháp
nhân, thể
nhân nước
thành viên
thuộc tổ chức
hội nhập kinh
tế khu vực
KẾT HỢP
NT/ MFN
Đưa ra đầy đủ
quyền tiếp cân
trên cơ sở đối xử
nào tốt hơn giữa
MFN và NT tùy
thuộc “danh mục
loại trừ”
-Hạn chế về vốn và quyền kiểm soát của nước ngoài: bao gồm các quy định
về:
+ Tỷ lệ phần trăm vốn góp tối đa hoặc tối thiểu của các nhà đầu tư nước ngoài
+ Kiểm soát quyền sở hữu để đại diện nước sở tại tham gia và quá trình quản lý
doanh nghiệp (Số lượng thành viên mỗi bên tham gia hội đồng quản trị, nguyên
tắc nhất trí trong việc thông qua các quyết định của hội đồng quản trị)
+ Rút vốn, dùng lợi nhuận để tái đầu tư

-Những hạn chế về hoạt động: áp dụng sau khi doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã được thành lập nhằm giảm tác động tiêu cực và tăng lợi ích kinh tế
thu được từ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm:
+ Hạn chế liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động
+ Hạn chế về thương mại. Ví dụ: hạn chế nhập khẩu máy móc, hạn chế bán sản
phẩm ở thị trường trong nước,…
+ Kiểm soát ngoại hối.
+ Yêu cầu chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất hoặc các tri thức đặc biệt
khác
+ Các hạn chế khác. Ví dụ: thuê đất dài hạn sở hữu nhà ở, đất đai; địa điểm đầu tư
trong phạm vi nước nhận đầu tư; hạn chế mang tính văn hóa như giáo dục hoặc
truyền thông; các yêu cầu đặc biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật; hạn chế liên quan đến an
ninh quốc gia;…
-Các rào cản mang tính hành chính: thiếu rõ ràng trong quy định của luật
pháp liên quan đến đầu tư hoặc thiếu rõ ràng trong việc thực hiện luật và các quy
định về đầu tư.
-Các ưu đãi về thuế, gồm 4 nhóm ưu đãi chính:
+ Trực tiếp miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Ưu đãi cho việc đầu tư cơ bản: khấu hao nhanh, khấu trừ thuế, cho nợ thuế,…
+ Giảm các rào cản đối với các hoạt động xuyên quốc gia như giảm thuế nhập
khẩu, phí hải quan,
+ Các ưu đãi khác: miễn, giảm các loại thuế khác hay cho phép đóng thuế theo
tình hình thực tế,…
-Các ưu đãi khác về tài chính như: tài trợ, cho vay ưu đãi, bảo lãnh vốn vay,
hỗ trợ đào tạo lao động, cung cấp thông tin, cơ sở hạ tầng,…
-Ưu đãi miễn thực hiện một số quy định pháp luật: tức là cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài không phải thực hiện một số yêu cầu của luật pháp hoặc các
quy định của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Tuy những ưu đãi giúp chủ
đầu tư giảm chi phí, tăng lợi nhuận nhưng xu hướng tự do hóa đầu tư đòi hỏi phải
loại bỏ các ưu đãi này vì thực chất chúng cũng gây ra những sai lệch và bóp méo

thị trường.
2.2 Thiết lập các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư
Việc thiết lập nên các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư là
rất cần thiết trong xu hướng tự do hóa đầu tư hiện nay, bao gồm có 6 tiêu chuẩn
sau:
-Không phân biệt đối xử: theo tiêu chuẩn này, việc một quốc gia quy định
những điều kiện đặc biệt nhằm đặt một quốc gia khác hay các pháp nhân, tự nhiên
nhân của một quốc gia khác vào một vị trí kém thuận lợi hơn so với quốc gia, pháp
nhân, tự nhiên nhân của một nước thứ 3 sẽ bị coi là một hành động phi pháp và
không phù hợp với những tiêu chuẩn của luật Kinh tế quốc tế. Tiêu chuẩn không
phân biệt đối xử gồm 2 mức độ là NT và MFN:
+ NT là không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và công dân nước sở
tại, tức là trong những trường hợp tương tự nhau, nhà đầu tư nước ngoài và nhà
đầu tư trong nước cần được hưởng chế độ đối xử giống nhau về những vấn đề như
thành lập, quyền sở hữu, quản lý doanh nghiệp, quyền tham gia vào thủ tục tố
tụng, được bảo hộ thuế, lao động,…
+ MFN là không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch
khác nhau. MFN được quy định trong hầu hết các điều ước quốc tế liên quan đến
đầu tư và được thực hiện trên cơ sở có đi có lại.
-Đối xử công bằng và bình đẳng: được đề cập trong Điều 11 khoản 2 Hiến
chương Havana 1948, theo đó đối xử công bằng và bình đẳng nghĩa là nước tiếp
nhận đầu tư dành cho các nhà đầu tư nướ ngoài sự đối xử công bằng, thỏa đáng,
không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo yêu cầu của tập quán quốc tế, đồng thời
không được áp dụng các biện pháp bất hợp lý, phân biệt đối xử để gây phương hại
đến việc thành lập và hoạt động đầu tư.
-Sử dụng các công cụ quốc tế để giải quyết các tranh chấp trong đầu tư.
-Chuyển tiền: các nước phải cho phép việc thanh toán, chuyển đổi hoặc
chuyển về nước các khoản tiền liên quan đến hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
-Tính minh bạch: chính phủ các nước phải công bố rõ ràng và thường xuyên
cập nhật các thông tin về môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, thủ tục,… liên

quan đến đầu tư nhằm đảm bảo mỗi bên tham gia vào quá trình đầu tư có thể nhận
đầy đủ thông tin từ các bên tham gia khác để phục vụ cho quá trình ra quyết định
và thực hiện các nghĩa vụ, cam kết.
-Bảo hộ khỏi việc tước đoạt quyền sở hữu: theo thông lệ quốc tế, để bảo hộ
quyền sở hữu, luật pháp các nước phải cam kết không quốc hữu hóa, trưng thu,
trưng dụng tài sản của nhà đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư vào nước mình.
3.Tăng cường các biện pháp giám sát thị trường để đảm bảo sự vận hành đúng
đắn của thị trường
Hai nội dung đã nêu trên là trọng tâm trong xu hướng tự do hóa đầu tư , tuy
nhiên, toàn bộ tác động có lợi của chúng phụ thuộc nhiều vào việc thị trường có
được kiểm soát một cách có hiệu quả hay không. Nội dung này được thực hiện
thông qua thiết lập các quy định về cạnh tranh, chống độc quyền; công khai hóa
thông tin; giám sát, kiểm soát một cách chặt chẽ đối với thị trường; trong đó chính
sách cạnh tranh là trung tâm.
II. Tự do hóa đầu tư là xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, bởi toàn cầu hoá là động lực phát
triển của lực lượng sản xuất; lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh đó là
quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội.
1. Toàn cầu hoá
Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về toàn cầu hoá.
Theo Mc Gren, “Toàn cầu hoá là việc hình thành một chuỗi vô số các liên
kết ràng buộc giữa các chính phủ và các xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới
hiện đại. Toàn cầu hoá cũng là quá trình mà ở đó các sự kiện, các quyết định và
các hoạt động của một phần thế giới có thể tác động nghiêm trọng đến các cá nhân
và cộng đồng ở các phần khác xa của Trái Đất (Nguyễn Đức Bình và cộng sự,
2001)”. Đây là định nghĩa mang tính khái quát cao, nó nhấn mạnh đến các mối
liên kết giữa các nước, các xã hội trên toàn thế giới trong một thể thống nhất. Mc
Gren cũng chỉ ra toàn cầu hoá là một quá trình chứ không phải một trạng thái.
Theo Ủy ban Châu Âu “Toàn cầu hoá có thể được định nghĩa như là một quá
trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên

ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do tính năng động của việc buôn bán hàng hoá và
dịch vụ cũng như tính năng động của sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ.”
Cũng giống như toàn cầu hoá nói chung, toàn cầu hoá kinh tế cũng chưa có
định nghĩa đầy đủ và thống nhất. Một cách chung nhất, có thể hiểu toàn cầu hoá
kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt khỏi biên giới
quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình
độ khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ, và sự phân công hợp tác quốc tế ngày
càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày cáng tăng (Nguyễn Đức
Bình và cộng sự, 2001).
2. Tự do hoá đầu tư – xu thế tất yếu trong điều kiện toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá đầu tư có mối quan hệ rất khăng khít với
nhau.
Tự do hoá đầu tư vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện, vừa là động lực thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển. Ngược lại, toàn cầu hoá kinh tế phát triển
góp phần thúc đẩy tự do hoá kinh tế trong đó có tự do hoá đầu tư diễn ra nhanh và
mạnh trên toàn thế giới
2.1 Tự do hoá đầu tư vừa là nội dung, vừa là biểu hiện, vừa là động
lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển
Toàn cầu hoá kinh tế có 3 nội dung chính:
-Sự gia tăng của các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, công
nghệ, dịch vụ, nhân công,…
-Tự do hoá các hoạt động kinh tế bao gồm tự do hoá thương mại, tự do hoá
đầu tư, tự do hoá lưu chuyển dịch vụ, công nghệ, sức lao động,…
-Sự gia tăng số lượng và hoạt động của các TNC, sự hình thành ngày cáng
nhiều các MNC khổng lồ.
Theo D.Ricardo trong Lý thuyết lợi thế so sánh đã ửng hộ việc phát triển lợi
ích thương mại tự do giữa các quốc gia. Điều này sẽ thúc đẩy liên kết giữa các nền
kinh tế quốc gia trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá. Ngày nay,
thuyết này được áp dụng rộng rãi trên thế giới và không dừng ở phạm vi riêng lẻ
của từng quốc gia mà được triển khai trong quan hệ song phương, khu vực và đa

phương. Số lượng hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương được kí
kết ngày càng nhiều. Các liên kết kinh tế khu vực cũng thường bắt đầu bằng các kế
hoạch tự do hoá thương mại. Trên phạm vi toàn cầu GATT và WTO đã được thành
lập nhằm mục đích trước tiên là thúc đẩy tự do hoá thương mại. Tự do hoá thương
mại đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các cấp độ quốc gia, song phương, đa
phương. Tự do hoá thương mại không chỉ góp phần thúc đẩy quan hệ quốc tế gia
tăng mạnh mẽ mà còn góp phần thúc đẩy đầu tư nước ngoài phát triển, tạo thuận
lợi cho sự phát triển của các TNC và MNC.
2.2Tự do hoá thương mại giúp các nước tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài
Trước tiên, tự do hoá thương mại sẽ góp phần tăng đầu tư nước ngoài liên kết
theo chiều dọc, trong đó hoạt động của các chi nhánh khác nhau thuộc một MNC
được chuyên môn hoá theo lợi thế về vị trí của quốc gia tiếp nhận FDI và tự do
hoá thương mại sẽ giúp việc trao đổi linh kiện, bán thành phẩm giữa các chi nhánh
diễn ra dễ dàng với chi phí thấp.
Tự do hoá thương mại cũng góp phần tăng đầu tư nước ngoài liên kết theo
chiều ngang. Nguyên nhân là do tự do hoá thương mại sẽ giúp giảm giá hàng hoá
và khiến các doanh nghiệp không có khả năng trang trải được mức chi phí bình
quân, nếu không muốn phá sản, phải sáp nhập hoặc bán lại cho các doanh nghiệp
vốn là đối thủ cạnh tranh mạnh hơn và đang muốn tăng thị phần càng nhanh càng
tốt. Như vậy, đầu tư nước ngoài dưới hình thức M&A tăng nhanh. Như vậy, đầu tư
nước ngoài toàn cầu tăng trưởng mạnh một phần nhờ tự do hoá thương mại.
2.3Tự do hoá đầu tư phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển của
toàn cầu hoá
Khi các rào cản đối với đầu tư được dở bỏ, các tiêu chuẩn đối xử được thiết
lập, chắc chắn dòng vốn đầu tư sẽ có cơ hội tăng trưởng và tăng trưởng mạnh.
Cùng với dòng vốn đầu tư, dòng hàng hoá, công nghệ, sức lao động lưu chuyển
giữa các nước có chế độ FDI tự do cũng sẽ tăng lên. Chính những điều này sẽ tạo
sức ép để các nước phải đẩy nhanh quá trình tự do hoá kinh tế trên mọi lĩnh vực
chứ không phải dừng lại ở thương mại và đầu tư.

Các định chế và tổ chức trên phạm vi toàn cầu đang từng bước được hình
thành để điểu tiết các dòng lưu chuyển hàng hoá và các nguồn lực giữa các nước,
đảm bảo phối hợp các chính sách thương mại theo “luật chơi” chung. Các định
chế, tổ chức toàn cầu này giúp giảm bớt sự bóp méo giá cả của các hàng hoá, dịch
vụ tham gia vào thương mại quốc tế, tiết kiệm được sự lãng phí nguồn lực của các
quốc gia và tránh xung đột giữa các nước.
Tự do hoá đầu tư cũng tạo thuận lợi cho các MNC và TNC thực hiện chiến
lược chinh phục thị trường toàn cầu của mình nhờ dễ dàng mở thêm các chi nhánh,
công ty con ở các nước có chế độ đầu tư tự do.
Tóm lại, tự do hóa đầu tư là một nội dung không thể thiếu của toàn cầu kinh
tế. Toàn cầu kinh tế ngày càng phát triển mạnh thì tự do hoá đầu tư ngày càng
được đẩy nhanh và ngược lại tự do hoá đầu tư cũng góp phần làm cho toàn cầu
hoá kinh tế phát triển nhanh hơn. Ngày nay, các nước không thể đứng ngoài xu
hướng tự do hoá đầu tư, phải tham gia vào xu hướng này. Vấn đề là phải tham gia
như thế nào để tận dụng được các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu
cực của xu hướng này.
III. Tình hình thực tế xu hướng tự do hóa đầu tư của các nước và trên thế
giới trong những năm gần đây
1. Xu hướng tự do hóa đầu tư ở các nước
Trong những năm trở lại đây, nhìn chung xu hướng thay đổi chính sách đầu
tư ở các nước và trên thế giới là tự do hóa, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
đầu tư, song song với đó là ban hành các chính sách để kiểm soát và quy định về
vốn FDI. Riêng trong năm 2013 có 59 quốc gia và nền kinh tế đã thông qua 87
công cụ chính sách tác động trực tiếp đến đầu tư nước ngoài. Trong đó, 61 chính
sách đề cập đến việc tự do hóa đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện để thu hút
vốn, trong khi 23 chính sách khác nhằm ban hành các quy định và rào cản mới.
Trong khi con số này năm 2012 là 61 chính sách khuyến khích và tự do hóa đầu tư
và 20 chính sách quy định và hạn chế đầu tư
Sự thay đổi trong chính sách đầu tư quốc gia 2000-2013, UNCTAD WIR 2014
Như vậy có thể thấy trong các năm trở lại đây kể từ sau khủng hoảng kinh tế

2008-2009 số lượng chính sách khuyến khích cũng như hạn chế đầu tư có xu
hướng tăng nhẹ. Riêng từ năm 2010 có sự thay đổi mạnh mẽ trong các chính sách
ban hành do cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu. Xét về tỉ trọng thì xu hướng
chung là tỉ trọng các chính sách khuyến khích đầu tư trong tổng số chính sách có
xu hướng giảm từ 94% năm 2000 còn 73% năm 2013
Biểu đồ sự thay đổi trong tỉ lên phần trăm các chính sách đầu tư, UNCTAD WIR
2014
Các chính sách kiểm soát và hạn chế đầu tư chủ yếu tập trung vào các ngành
công nghiệp chiến lược hoặc có liên quan đến an ninh quốc gia như: công nghiệp
khai khoáng, điện, ga, nước… Ví dụ như năm 2012 Philippines ban hành một sắc
lệnh yêu cầu các hợp đồng khai thác mỏ mới ngừng lại cho đến khi quy định mới,
về sửa đổi hệ thống chia lợi nhuận và cơ cấu, có hiệu lực nhằm đảm bảo tuân thủ
các tiêu chuẩn môi trường, trật tự và đánh giá việc thực hiện các hoạt động khai
thác khoáng sản hiện có.
Việc tăng cường các chính sách hạn chế này thể hiện vai trò chính phủ ngày
càng lớn với nỗ lực hạn chế thất thoát tài nguyên hay đảm bảo an ninh quốc gia.
Tỉ lệ các ngành chịu ảnh hưởng bởi các quy định và chính sách 2000-2012, WIR
2013
Các hình thức chủ yếu của các chính sách kiểm soát riêng ngành khai khoáng
đó là quốc hữu hóa, trưng thu hoặc yêu cầu thoái vốn. Ngoài ra một số quốc gia sử
dụng tăng thuế hoặc tiền thuê mỏ để hạn chế việc kinh doanh của khu vực tư nhân
trong ngành khai khoáng
Trong khi đó các ngành được khuyến khích đầu tư là nông nghiệp, truyền
thông, dịch vụ và tài chính Các chính sách khuyến khích đầu tư này được ban
hành chủ yếu là bởi các nước châu Á. Các chính sách này hướng về nhiều lĩnh vực
nhưng tập trung nhất vẫn là dịch vụ, vận tải hàng không và năng lượng… Ví dụ
như năm 2011 Trung Quốc công bố hướng dẫn mới về khuyến khích FDI vào các
ngành công nghiệp chiến lược đang nổi lên liên quan đến hiệu quả năng lượng,
bảo vệ môi trường và công nghệ cao, cũng như một số ngành công nghiệp khác
trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ

Về vấn đề tự do hóa đầu tư: Các quốc gia thực hiện việc tự do hóa đầu tư
bằng cách xóa bỏ những trở ngại và rào cản hiện có đối với đầu tư nước ngoài, qua
đó tiếp tục xu hướng cởi mở hơn đối với FDI. Các biện pháp trong lĩnh vực này
bao gồm nâng trần FDI ,mở cửa các lĩnh vực đóng trước đây, tự do hóa việc thu
hồi đất hay mở rộng các đặc khu kinh tế, giảm thiểu các thủ tục hành chính … Một
số ví dụ như:
- Năm 2010 Ấn Độ đã ban hành một chính sách FDI hợp nhất mới, tạo điều
kiện cho việc mở rộng của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thành lập, cho
phép chuyển đổi lượng tiền mặt không sử dụng vào vốn chủ sở hữu (với sự chấp
thuận của chính phủ) và cho phép FDI vào các hoạt động nông nghiệp nhất định
- Canada tăng ngưỡng để xem xét cho các nhà đầu tư từ các nước thành viên
của WTO từ 312 triệu USD năm 2011 lên 330 triệu USD trong năm 2012
- Brazil tăng giới hạn vốn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài tại Banco
do Brasil, một ngân hàng nhà nước, từ 12,5 phần trăm đến 20 phần trăm
- Năm 2013, Indonesia sửa đổi danh sách các lĩnh vực kinh doanh mở cửa
cho các nhà đầu tư nước ngoài và tăng trần đầu tư nước ngoài trong một số ngành
công nghiệp, bao gồm dược phẩm, các hoạt động đầu tư mạo hiểm trong dịch vụ
tài chính và các dự án nhà máy điện trong sản xuất năng lượng
- Năm 2010, Canada loại bỏ các hạn chế về quyền sở hữu nước ngoài đối với
cáp quang biển quốc tế, các trạm mặt đất cung cấp dịch vụ viễn thông bằng vệ
tinh, và các vệ tinh
Song song với việc tháo gỡ các rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nước
hiện nay thực hiện các biện pháp chính sách nhằm xây dựng một thị trường cạnh
tranh công bằng và hiệu quả bằng cách ban hành các chính sách về chống độc
quyền, tư nhân hóa các công ty nhà nước hay các quy định về cạnh tranh… Các
chính sách này ban hành một phần nào là do các hiệp định và tổ chức quốc tế yêu
cầu nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Ví dụ như:
- Trong năm 2013 đã có ít nhất 10 nước thực hiện các chính sách tư nhân hóa
toàn bộ hoặc một phần. Ví dụ như: Tại Slovenia, Quốc hội đã hỗ trợ cho kế hoạch
của Chính phủ để bán 15 công ty nhà nước, bao gồm các nhà điều hành viễn thông

lớn nhất, Telekom Slovenia hay Bồ Đào Nha bán 100% cổ phần của ANA-
Aeroportos de Portugal - công ty nhà nước về quản lý sân bay Bồ Đào Nha – cho
tập đoàn Vinci Concession SAS của Pháp
Bên cạnh nỗ lực tự do hóa liên tục, nhiều nước cũng đã có những bước để
tiếp tục thúc đẩy và tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Ví dụ điển hình là các
chính sách và các quy định cụ thể của từng ngành, chẳng hạn như ưu đãi tài chính
và tài khóa (miễn thuế hoặc giảm thuế) để khuyến khích đầu tư nước ngoài trong
các khu vực hoặc ngành công nghiệp cụ thể, bao gồm cả khu kinh tế đặc biệt. Ví
dụ năm 2012 Pakistan ban hành một Luật về khu kinh tế đặc biệt (SEZ), nó cho
phép thành lập các đặc khu kinh tế bất cứ nơi nào trong nước trên một diện tích tối
thiểu là 50 mẫu Anh và cung cấp một số ưu đãi thuế cho nhà đầu tư trong và ngoài
nước trong khu vực đó.
Các biện pháp tạo thuận lợi cho đầu tư này còn liên quan đến giảm bớt yêu
cầu sàng lọc, đơn giản hóa thủ tục phê duyệt, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan
đầu tư quốc gia về thủ tục phê duyệt hoặc đẩy nhanh quá trình cấp phép cho các
dự án đầu tư, ví dụ như vào năm 2009 Ấn Độ ban hành thông tư "Hợp nhất chính
sách FDI", kết hợp tất cả các chính sách trước / quy định về FDI trong một văn
bản nhằm thực hiện các chính sách FDI minh bạch hơn, có thể dự đoán, đơn giản
và rõ ràng hơn; hay vào năm 2012, Costa Rica thực hiện một chương trình tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp mà đơn giản hoá việc đăng ký công ty. Mọi thủ tục đã
được tập trung tại một địa điểm và thời gian cần thiết để đăng ký một công ty đã
giảm từ gần 90 ngày đến 20 ngày hoặc ít hơn
Một số biện pháp cũng tìm cách để thúc đẩy FDI ra bên ngoài bằng cách đơn
giản hóa thủ tục hành chính áp dụng đối với các khoản đầu tư, hay cho phép
những ưu đãi về thuế. Ngoài ra, để cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu
tư, nhiều nước cũng giảm thuế suất doanh nghiệp. Các biện pháp này đã được thực
hiện ở tất cả các vùng, đặc biệt ở các nước phát triển và các nền kinh tế đang phát
triển ở châu Phi và châu Á.
IV. Xu hướng tự do hóa đầu tư thế giới
Năm 2013,có 44 hiệp định đầu tư quốc tế được ký kết (IIAs) (30 hiệp định

đầu tư song phương, BIT, và 14 hiệp định IIAs khác), nâng tổng số các thỏa thuận
lên 3236 (2902 BIT và 334 hiệp định IIAs khác). Trong khi đó con số này vào năm
2012 là 30 hiệp định và 2011 là 47 hiệp định. Các quốc gia đã đặc biệt tích cực
trong việc ký kết các BIT vào năm 2013 bao gồm Kuwait; Thổ Nhĩ Kỳ và các Tiểu
vương quốc Ả Rập Thống nhất; và Nhật Bản, Mauritius và Cộng hòa Thống nhất
Tanzania.
Xu hướng IIA được ký kết 1983-2013, UNCTAD WIR 2014
So với các thời kỳ trước các năm trở lại đây, đặc biệt là sau khủng hoảng
2008-2009, số lượng IIA được kí kết mỗi năm không cao, đặc biệt từ năm 2009
đến 2012 có xu hướng giảm. Nguyên nhân của sự suy giảm này là do 2 cuộc
khủng hoảng liên tiếp là khủng hoáng tài chính toàn cầu 2008-2009 làm kinh tế thế
giới phát triển chậm lại và khủng hoảng nợ công châu Âu 2010. Các IIA này chủ
yếu được ký kết dưới hình thức BIT (Hiệp định đầu tư song phương).
Trong những năm trở lại đây ngày các nhiều các IIA đề cập đến vấn đề phát
triển bền vững. Trong năm 2012, có 12 IIA (trong đó có 8 BIT) đề cập đến các vấn
đề về bảo vệ sức khỏe, quyền lao động, môi trường hay phát triển bền vững; 10
IIA (bao gồm 6 BIT) có các ngoại lệ chung - ví dụ: để bảo vệ con người, động vật
hoặc thực vật sống hay sức khỏe hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
Con số này năm 2013 là 18 IIA (gồm 11 BIT và 7 FTA) có liên quan đến vấn đề về
phát triển bền vững.
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH FDI NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY
I. Những thay đổi trong chính sách FDI cấp quốc gia
Từ năm 2000 đến nay đã có nhiều các quy định phát luật cũng như chính
sách liên quan đến FDI và phần lớn trong số đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
dòng vốn FDI. Trong các năm trở lại đây, từ năm 2011-2013, trung bình có khoảng
84 chính sách mỗi năm được ban hành trong đó có trung bình 60 chính sách về
khuyến khích, tự do hóa hoặc các ưu đãi về đầu tư, mà tập trung chủ yếu vào dòng
vốn FDI, chiếm hơn 70% số lượng chính sách ban hành. Bên cạnh đó có trung
bình 21 chính sách mỗi năm về hạn chế hoặc các quy định về đầu tư

Biểu đồ sự thay đổi trong tỉ lên phần trăm các chính sách đầu tư, UNCTAD WIR
2014
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số nước đã thực
hiện các thay đổi về
chế độ đối với FDI
46 52 44 60 80 78 71
Số lượng thay đổi
Trong đó:
81 97 94 25 164 144 126
Tự do hóa/ Ưu đãi 75 85 79 113 142 118 104
Hạn chế / Tăng quy
định
5 2 12 12 20 25 22
Trung lập / Không
xác
định
a
1 10 3 - 2 1 -
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số nước đã thực
hiện các thay đổi về
chế độ đối với FDI
50 41 47 55 49 54 59
Số lượng thay đổi
Trong đó:
79 68 88 121 80 86 87
Tự do hóa/ Ưu đãi 58 51 61 80 59 61 61
Hạn chế / Tăng quy
định

19 15 23 37 20 20 23
Trung lập / Không
xác
định
a
2 2 4 4 1 5 3
Báo cáo đầu tư thế giới, WIR 2014
Rất nhiều các rào cản đối với FDI đã được dỡ bỏ dần dần:
-Đối với việc tiếp nhận và thành lập: Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa, buộc các nước phải thay đổi cách nhìn nhận đối với việc tiếp nhận và
thành lập đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ mình. Một số nước đơn phương tự do
hóa hoạt động tiếp nhận và thành lập bằng cách sửa đổi luật quốc gia hoặc tham
gia vào các hiệp định quốc tế. Số lượng các hoạt động và ngành đóng cửa với FDI
giảm xuống; danh mục các hoạt động và ngành được mở cửa thường xuyên được
rà soát; các hạn chế trong quản lý hoặc quyền sở hữu được giảm dần… Tuy nhiên
các nước vẫn tiếp tục duy trì ở một mức độ nào đó quyền quyết định và kiểm soát
của mình. Ví dụ như việc Bhutan ban hành "chính sách FDI năm 2010", theo đó
tất cả các hoạt động không được bao gồm trong danh sách loại trừ sẽ được mở cửa
cho FDI. Được cho phép 100 phần trăm sở hữu nước ngoài trong một số hoạt động
như giáo dục, dịch vụ y tế chuyên sâu, khách sạn sang trọng và khu nghỉ mát, và
cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực dịch vụ. Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2013, đã có 11
quốc gia - Canada, Trung Quốc, Ghana, Hy Lạp, Ấn Độ, Hàn Quốc, Kuwait,
Mexico, Panama, Philippines và Sweden- thông qua các biện pháp chính sách mới
liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập đầu tư nước ngoài (bảng 1). Phần lớn
chúng nới lỏng hạn chế về sở hữu nước ngoài hoặc mở ra cơ hội kinh doanh mới.
Từ đó chúng ta có thể thấy tháo bỏ các rào cản đối với FDI trong việc tiếp nhận và
thành lập đang là xu hướng chung trên toàn thế giới.
Các nước đã ban hành các chính sách đầu tư quốc gia từ tháng 6 đến tháng 10
năm 2013, UNCTAD Investment Poiliy Monitor 11
- Các quy định về hoạt động của các công ty nước ngoài được tư do hóa

mạnh mẽ hơn các quy định về tiếp nhận và thành lập: Các hạn chế về chuyển lợi
nhuận và vốn về nước, chuyển các khoản tiền khác nói chung được xóa bỏ hoặc
nới lỏng. Các yêu cầu hoạt động cũng ít được sử dụng. Cũng từ tháng 6 đến tháng
10 năm 2013 đã có năm quốc gia - Nhà nước Plurinational của Bolivia, Ecuador,
Pháp, Hy Lạp và Ấn Độ - tháo gỡ biện pháp liên quan đến hoạt động các nhà đầu
tư sau khi thành lập ở nước sở tại. Ví dụ như: Ấn Độ mở rộng thời gian để đạt
được 30% nguồn cung ứng địa phương của các nhà bán lẻ nước ngoài đến 5 năm
sau khi thành lập.
- Một số biện pháp khuyến khích, ưu đãi được áp dụng chung trong mọi hoạt
động đầu tư: một số ưu đãi trước kia chỉ áp dụng cho FDI, nay đã được áp dụng
cho tất cả các doanh nghiệp trong nước. Các khu kinh tế tập trung như khu công
nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế… được mở ngày càng nhiều để thu hút vốn
đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau.
- Các chuẩn mực đối xử như NT, MFN, đối xử công bằng ,bình đẳng… được
áp dụng đối với các dự án FDI trong quá trình hoạt động: Các công ty nước ngoài
hiện nay không còn lo ngại quốc hữu hóa như thời kì trước. Các quốc gia sẽ đưa ra
các quy định về quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh nhằm đảm bảo cho công bằng
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các quy tắc nhằm giám sát thị trường đảm bảo hoạt động đúng đắn của thị
trường cũng đã được đề cập. Các nước nỗ lực hoàn thiện toàn bộ hệ thống pháp
luật nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ và minh bạch. Các luật về cạnh tranh,
môi trường, bảo vệ người tiêu dùng… cũng được nhiều nước ban hành
Tuy tự do hóa và khuyến khích FDI là xu hướng chung trên thế giới trong
những năm gần đây nhưng vẫn có nhiều chính sách nhằm hạn chế hoặc kiểm soát
FDI nhằm mục đích bảo vệ nền kinh tế trong nước hay tài nguyên thiên nhiên, an
ninh quốc gia (đã được đề cập ở chương trước). Năm 2013 có 13 nước đã ban
hành các chính sách này bao gồm có Sri Lanca, Ấn Độ, Canada, Pháp, Nga… Các
chính sách này thường là sửa đổi các quy định về đầu tư. Mặt khác, một xu hướng
phổ biến hiện nay là một số nước dành nhiều ưu đãi cho FDI hơn cả đầu tư trong
nước và điều này dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa FDI và các nguồn đầu tư khác

II. Những thay đổi trong chính sách FDI cấp quốc tế
1. Các hiệp định song phương (BIT)
Hiệp định đầu tư song phương (BIT) là một thỏa thuận thiết lập các điều
khoản và điều kiện cho đầu tư tư nhân của các công dân và công ty của một nước
này vào nước khác. Loại hình đầu tư này được gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). BIT được thành lập thông qua các hiệp định thương mại. BIT đầu tiên trên
thế giới được ký kết vào ngày 25 tháng 11 năm 1959 giữa Pakistan và Đức. Hiện
nay tổng cộng có khoảng 2902 BIT
Từ năm 1960-1980, chỉ có tổng cộng 386 BIT được ký kết. Nhưng chỉ riêng
năm 1990 số BIT được ký kết đã gấp 4 lần co số này 1471 BIT. Trung bình mỗi
năm từ 1990-1999 có 147 BIT được ký kết mỗi năm.
Trong những năm 2000-2006 số lượng BIT được ký kết có xu hướng suy
giảm tuy nhiên vẫn còn ở mức khá cao khoảng 90 BIT/ năm. Nhưng sau khủng
hoảng kinh tế 2007-2008 số lượng BIT sụt giảm hăn còn khoảng 46 BIT/năm. Đặc
biệt các năm gần đây số lượng BIT giảm, năm 2012 chỉ còn 20 BIT, riêng năm
2013 có xu hướng tăng trở lại
Xu hướng IIA được ký kết 1983-2013, UNCTAD WIR 2014
Năm 1960-
1969
1970-
1979
1980-
1989
1990-
1999
2000 2001 2002 2003 2004
Số lượng 75 92 219 1471 84 158 82 86 73
BIT được
ký kết
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Số lượng
BIT được
ký kết
70 73 44 59 82 54 33 20 30
Tổng hợp từ Báo cáo đầu tư thế giới 1997,2004-2014
Thành phần tham gia ký kết các BIT cũng đã có nhiều sự thay đổi so với
trước kia. Các nước xuất khẩu vốn nhỏ hơn, các nước có nền kinh tế chuyển đổi
hay các nước đang phát triển cũng tích cực tham gia vào việc ký kết các BIT.
Phân bổ BIT giữa các nước cũng có sự khác nhau. Điển hình của các nước có
nền kinh tế chuyển đổi là Trung Quốc với 130 BIT (UNCTAD 2014) và Ấn Độ 84
BIT (UNCTAD 2014). Các nước đang phát triển như Việt Nam với 60 BIT;; Chile
50 BIT…Tuy nhiên vẫn có nhiều nước chưa ký kết bất kìa BIT nào hay ký kết rất
ít ví dụ như Nam Sudan, Samoa chưa có bất kì BIT nào;hay Liberia với 4 BIT;
Iraq với 7 BIT (UNCTAD 2014); không có bất kì BIT nào được ký kết giữa 3
trung tâm kinh tế lớn của thế giới Mỹ, EU và Nhật Bản. Nói cách khác BiT chỉ
được ký kết giữa một nước thuộc OECD với một nước đang phát triển hoặc giữa
các nước đang phát triển với nhau. Điều này được lý giải bởi động cơ khác nhau
của các nước này ví dụ như động cơ của một bên là thu hút đầu tư trong khi bên
còn lại là bảo hộ đầu tư.
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc ký kết các hiệp định BIT mới cũng
có một số BIT đã được hủy bỏ. Chẳng hạn chư Nam Phi hủy bỏ BIT với Đức, Hà
Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ năm 2013, Indonesia hủy bỏ BIT với Hà Lan năm
2013.
Trọng tâm chính của các hiệp định BIT là bảo hộ, tạo thuận lợi và thúc đẩy
đầu tư. Các BIT thường được soạn theo các mẫu của Mỹ và Châu Âu trong đó Mỹ
thường có các yêu cầu cao hơn. Điểm quan trọng của các BIT gần đây là đã thống
nhất được các nguyên tắc chung trong đó có tự do hóa FDI, cụ thể là:
-Việc tiếp nhận và thành lập: Hầu hết các BIT theo mô hình “kiểm soát đầu
tư”. Riêng các BIT có Mỹ tham gia thì theo mô hình “kết hợp đối xử MFN và
NT”;

-Áp dụng chế độ công bằng và thỏa đáng thường dưới hình thức các chuẩn
mực cụ thể như chống áp dụng các biện pháp tùy tiện hay phân biệt đối xử;
-Quy định dành NT cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư
trên lãnh thổ nước tham gia ký kết;
-Đảm bảo MFN cũng một số ngoại lệ nhất định;
-Quy định quyền của nước chủ nhà được phép trưng thu nhưng phải có điều
kiện nhất định;
-Đảm bảo tự do lưu chuyển các khoản tiền liên quan đến đầu tư ra nước
ngoài;
-Có điều khoản giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước.
Nhìn chung, các BIT hiện nay có phạm vi điều chỉnh rộng hơn các quy định
của luật pháp quốc gia. Mặc dù BIT được thiêu chuẩn hóa tương đối cao nhưng
chúng vẫn thế hiện các quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau của nước ký kết.
2. Tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi toàn cầu
Các văn bản điều chỉnh FDI trên thế giới hiện nay thường khác nhau về
phạm vi và mức độ tuy nhiên đều hướng đến mục tiêu chung là tự do hóa FDI trên
cơ sở thực hiện chế độ NT và mở cửa các lĩnh vực kinh tế. Các nội dung chính như
sau:
- Khuyến khích FDI: Các bên tham gia kí kết văn bản sẽ tiến hành trao đổi
thông tin, hợp tác xây dựng pháp luật, hỗ trợ kí thuật và vật chất cho việc khuyến
khích FDI;
- Bảo hộ FDI: Tự do hóa các giao dịch thanh toán vãng lai và các giao dịch
thanh toán khác cũng như việc di chuyển vốn, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
được bán,chuyển nhượng các tài sản của họ ra nước ngoài; bảo hộ quyền sở hữu
các chủ đầu tư nước ngoài;
- Quy định về quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong việc xâm nhập và
thành lập trong một số khu vực kinh tế cụ thể ở nước nhận đầu tư;
- Các quy định sau giấy phép: tiêu chuẩn đối xử với các nhà đầu tư nước
ngoài khi học đã được phép tiến hành đầu tư. Tiêu chuẩn quan trọng nhất mục này
là NT;

- Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự vận hành đúng
đắn của thị trường: cách ứng xử của TNC và các công ty con, cạnh tranh, bảo vệ
môi trường, tệ hối lộ và các khoản thanh toán bất hợp pháp…

×